Kế Hoạch Hoàn Hảo   Sidney Sheldon Pages Previous  1  2  3  Next   
Chương 8

Washington D.C là một thành phố lớn hơn Dana tưởng tượng. Đó là trung tâm quyền lực của thế giới. Dana thấy năng lượng trong ḿnh như đang sôi lên sùng sục. "Đây mới là chỗ dành cho ḿnh", nàng sung sướng nghĩ.
Việc đầu tiên nàng làm là t́m địa chỉ Washington Tribune, rồi đến đó. Trụ sở Tribune nằm ở đại lộ số 6, chiếm trọn một khối cao ốc. Nó bao gồm bốn toà nhà ngất ngưởng như chạm đến tận mây xanh. Dana vào bằng cửa chính và tự tin bước vào bàn của người gác mặc đồng phục.
"Tôi có thể giúp ǵ cô đây?"
"Tôi làm việc ở đây, tôi làm cho Tribune, tôi đến để gặp ông Matt Baker".
"Cô đă có hẹn chưa?"
Dana ngập ngừng. "Chưa có... nhưng..."

"Hăy quay lại khi nào có đă có hẹn đă nhé". Anh ta chuyển sự chú ư sang một đống người đang đứng đằng sau nàng.
"Tôi có hẹn với Trưởng ban điều hành", một trong những người đó nói.
"Làm ơn chờ một chút", người gác cửa bấm số.
Phía sau anh ta, một trong những chiếc thang máy mở cửa và nhiều người đi vào. Dana tính toán rất nhanh. Nàng nhảy vội vào theo, trong đầu cầu Chúa là người gác không phát hiện ra. Người phụ nữ vào cuối cùng ấn nút.
"Xin lỗi chị," Dana nói, "pḥng của ông Matt Baker ở tầng mấy nhỉ?"
"Tầng ba," chị ta nh́n Dana "cô không đeo thẻ ḱa".
"Ôi, tôi để quên nó ở nhà".
Khi thang máy đến tầng 3, Dana bước ra và đứng sững lại, bàng hoàng trước tất cả những ǵ ḿnh thấy. Nàng thấy vô khối những ngăn làm việc xinh xinh. Có vẻ như phải tới hàng trăm ngăn, với hàng ngàn người. Mỗi ngăn có một tấm biển nhỏ để chức năng của nó. Nàng hoa mắt lên bởi màu sắc của những tấm biển ấy... Biên tập... Nghệ thuật... Thể thao... Thông tin...
Dana chặn một người đàn ông vội vă đi ngang. "Xin lỗi, cho tôi hỏi pḥng ông Matt Baker ở đâu ạ?"
"Ông Baker á", anh ta chỉ cho nàng, "đi hết hành lang này, phía bên phải, pḥng cuối cùng".
"Cảm ơn anh".
Khi Dana quay lại, nàng đâm sầm vào một vị râu ria tua tủa, ăn mặc luộm thuộm, đang cầm một xấp giấy tờ. Có mấy tờ bị tuột khỏi tay ông ta rơi xuống sàn.
"Ôi, tôi xin lỗi, tôi đang..."
"Mắt mũi cô để đâu vậy hả?" Người đàn ông quát tướng lên, cúi xuống nhặt mấy tờ giấy.
"Chỉ là vô t́nh thôi mà. Đây, tôi sẽ giúp ông. Tôi..."
Dana cúi xuống, và mông nàng hích vào cái bàn bên cạnh làm đám giấy tờ trên đó lả tả rơi xuống.
Người đàn ông kia nh́n nàng đầy vẻ tức giận. "Hăy làm ơn thôi đi cho tôi nhờ. Cô đừng giúp tôi nữa được không?"
"Được thôi," Dana cũng thấy cáu. "Tôi mong sao ở cái đất Washington này không có ai thô lỗ như ông".
Ngẩng cao đầu, nàng bước tới pḥng cuối cùng, bên phải hành lang. Tấm biển trên cửa kính ghi Matt Baker. Trong pḥng không có ai. Dana bước vào và ngồi xuống. Nàng nh́n khung cảnh làm việc tấp nập, nhộn nhịp qua khung cửa sổ.
Đây không giống như Cleremont Examiner cả, nàng nghĩ. Có hàng ngh́n người làm việc ở đây. ở đầu hành lang, người đàn ông thô lỗ, đầy râu ria nọ tiến về phía nàng.
Không, ông ta sẽ không vào đây. Ông ta đang trên đường đi đâu đó.
Và người đàn ông đó bước vào, mắt ông ta tṛn xoe.
"Cô đang làm cái chết tiệt ǵ ở đây hả?"
Dana nuốt khan. "Dạ, chắc ông là Matt Baker". Rồi nàng hân hoan nói, "Tôi là Dana Evans".
"Tôi hỏi cô đang làm ǵ ở đây?"
"Tôi là phóng viên của tờ Claremont Examiner".
"Sao nữa?"
"Ông vừa mới mua tờ báo đó".
"Tôi á?"
"Tôi... à, ư tôi là tập đoàn mua nó. Một tờ báo mua một tờ báo mà. Đại loại thế." Dana lúng búng. "Dù sao th́ tôi cũng đă đến đây để làm việc. Tất nhiên, tôi đă có một chỗ làm ở đây. Nó cũng giống như một sự chuyển giao, đúng vậy không?"
Ông ta vẫn chằm chằm nh́n nàng.
"Tôi có thể bắt đầu ngay từ bây giờ, "Dana nói ào ào, "không có vấn đề ǵ cả."
Matt Baker đi về phía bàn làm việc. "Thằng điên nào cho cô vào đây?"
"Tôi đă nói với ông rồi. Tôi là phóng viên của Claremont..."
"Quay về Claremont của cô đi," ông ta gào lên, "và cố đừng đụng vào ai trên đường nữa".
Dana đứng dậy và nói rành rọt. "Rất cảm ơn ông, ông Baker. Tôi xin ghi nhận sự đón tiếp lịch sự của ông". Nàng hùng hổ bước ra khỏi pḥng.
Matt Baker nh́n theo lắc đầu. Thế giới này lắm vĩ nhân cuồng thế nhỉ.
Dana lê bước theo hành lang khi năy, tới pḥng biên tập to như cái hội trường, nơi hàng trăm các phóng viên đang đánh bài của họ trên máy vi tính. Đây chính là nơi ḿnh sẽ làm việc. Quay về Claremont đi. Ông ta dám nói thế à! Dana giận giữ nghĩ.
Khi ngẩng đầu lên, Dana thấy Matt Baker ở đằng xa đang cắm đầu đi về phía nàng. Người đàn ông chết tiệt này có mặt khắp mọi nơi hay sao? Dana nép vội vào một ngăn làm việc, nơi ông ta không thể thấy nàng.
Baker tới bàn một phóng viên, cạnh chỗ Dana đứng.
"Anh có tiến hành phỏng vấn được không, Sam?"
"Không, tôi đă tới trung tâm y tế Georgetown, và họ nói rằng không có ai tên như thế điều trị ở đấy cả. Nghĩa là vợ Tripp Taylor không phải là bệnh nhân ở đó.
Matt Baker nói. "Tôi biết chắc chắn là bà ta nằm đó. Họ muốn ém nhẹm vụ này đấy mà. Tôi muốn biết tại sao cô ta lại phải vào viện".
"Nếu thực sự cô ta ở đó, chúng ta cũng chẳng có cách ǵ để tiếp cận được đâu, Matt ạ".
"Anh đă thử cái tṛ tặng hoa xưa cũ ấy chưa?"
"Rồi, nhưng cũng chẳng ăn thua".
Dana đứng đó, chờ khi Matt Baker và người phóng viên kia đi xa. Phóng viên kiểu quái ǵ mà không làm nổi một cuộc phỏng vấn nhỉ?
Ba mươi phút sau, Dana bước vào trung tâm y tế Georgetown. Nàng tới quầy bán hoa.
"Cô cần ǵ ạ?" Người bán hàng hỏi.
"Tôi muốn..." Nàng ngập ngừng một lúc, "... 50 đôla tiền hoa," nàng gần như nhấn mạnh vào con số "50".
Khi nhận bó hoa người bán đưa cho, Dana hỏi. "Có cửa hàng nào quanh đây bán phễu giấy gói hoa hay đại loại như thế không nhỉ?"
"Có một quầy bán quà tặng ở góc kia."
"Cám ơn bà."
Cửa hàng này bán vô số những thứ lưu niệm vặt vănh như bưu ảnh, thiếp chúc mừng; những đồ chơi rẻ tiền, bóng và cờ; những thứ vặt nhai cho vui, và một ít quần áo lẩm cẩm. Dana mua một chiếc phễu giấy gói hoa, một tấm thiếp chúc mừng sức khoẻ và viết vài ḍng nguệch ngoạc lên trên.
Điểm dừng tiếp theo của nàng là bàn chỉ dẫn nằm ở lối đi chính của bệnh viện. "Tôi mang hoa đến cho bà Trip Taylor."
Người hướng dẫn lắc đầu. "Không có bà Trip Taylor nào ở đây cả."
Dana làm bộ sửng sốt. "Thế à? Chán quá nhỉ? Những thứ này là của phó Tổng thống Mỹ gửi đến." Nàng giở cái phễu gói hoa ra và chỉ cho người kia xem tấm thiếp. Ḍng chữ trên đó ghi "Chúc chóng b́nh phục", với chữ kư "Athur Cannon".
Nàng thở dài. "Thế là tôi lại phải mang nó về" nàng quay người làm bộ định đi.
Người hướng dẫn nh́n nàng vẻ nghi ngại. "Chờ một chút đă"
Dana dừng lại. "Vâng?"
"Tôi có thể chuyển cho bà ấy."
"Xin lỗi!" Dana nói. "Phó tổng thống Cannon yêu cầu tôi phải trao tận tay." Nàng nh́n anh ta. "Làm ơn cho tôi biết tên anh để nếu ngài có hỏi tại sao tôi c̣n có thể nói được là ai đă cản trở tôi".
Anh chàng kia hoảng. "Ôi, được, tôi chẳng muốn gây phiền toái làm ǵ. Cô cứ mang đến pḥng 615. Nhưng giao xong là cô phải ra ngay đấy nhé"
"Được thôi."
Năm phút sau, nàng đă ngồi nói chuyện với vợ của ngôi sao nhạc rock nổi tiếng Tripp Taylor.
Stacy Taylor khoảng 25, 26 tuổi. Dana không thể biết Stacy có quyến rũ hay không v́ vào lúc đó, khuôn mặt cô ta mang vẻ đau đớn và mệt mỏi. Cô ta đang cố với cốc nước để trên bàn gần giường th́ Dana bước vào.
"Hoa cho..." Dana dừng lại v́ quá bất ngờ khi nh́n thấy dáng vẻ người phụ nữ tội nghiệp.
"Của ai đấy?" Lời nói bật ra thật yếu ớt.
Dana ch́a tấm các ra. "Của... của một người hâm mộ."
Cô ta nh́n Dana vẻ nghi ngờ. "Cô có thể đưa giúp tôi cốc nước được không?"
"Vâng, được ạ," Dana được gói hoa xuống bàn. "Tôi c̣n giúp được bà ǵ nữa không?"
"Có đấy, cô ta nói thều thào bằng đôi môi khô héo," cô có thể đưa tôi ra khỏi nơi chết tiệt này. Chồng tôi không cho ai vào thăm tôi. Tôi phát ốm lên v́ cứ phải nh́n thấy bác sĩ với y tá rồi".
Dana ngồi trên ghế như bùng lên. "Cô không biết à? Tôi đă bị một tai nạn cố ư."
"Bà ư?"
"Phải."
"Thật là kinh tởm," Dana nổi giận, nàng thấy rơ là người phụ nữ này đă bị chồng đánh đập.
Bốn mươi lăm phút sau, Dana đă biết toàn bộ sự thật.
Khi Dana quay lại Washington Tribune, gác cửa đă là một người khác. "Tôi có thể..."
Dana không để ông ta nói hết câu. "Đây không phải lỗi của tôi". Nàng hổn hển nói. "Làm ơn tin tôi đi, tôi bị tắc đường. Nói với ông Baker là tôi lên ngay bây giờ. Ông ấy sẽ nổi điên lên với tôi v́ sự chậm trễ này mất". Nàng chạy vội đến thang máy và ấn nút. Người gác cửa nh́n theo nghi hoặc rồi đành bấm máy. "Xin chào, nói với ông Baker là có một cô gái trẻ..."
Thang máy dừng lại. Tại tầng 3, các hoạt động như sôi động hơn cả lúc trước. Dana dừng lại, nh́n quanh, cuối cùng cũng đă t́m thấy cái nàng cần t́m. Tại một ngăn với tấm biển Mục vườn nhà, nàng thấy c̣n một bàn trống. Dana chạy như bay đến đó, ngồi xuống trước máy vi tính và bắt đầu đánh bài. Câu chuyện đă được chuẩn bị kỹ trong đầu Dana trong suốt quăng đường về nên bây giờ nó tuôn ra trôi chảy. Nàng vừa in xong và đang xếp chúng lại với nhau th́ một bàn tay nặng trịch đặt lên vai.
"Cô làm quái ǵ ở đây?" Matt Baker hỏi.
"Tôi t́m một công việc, ông Baker. Tôi vừa biết xong bài này, và tôi nghĩ..."
"Cô nghĩ sai rồi" Baker hùng hổ. "Cô không những chỉ lẻn vào đây mà c̣n chiếm đoạt bàn làm việc của một người khác. Nào, bây giờ cô muốn tự ḿnh ra khỏi đây hay để tôi phải gọi bảo vệ."
"Nhưng..."
"Ra ngoài."
Dana bật dậy, ḷng tự trọng bị tổn thương, nàng nhét tất cả xấp giấy vào tay Matt Baker rồi đi ra phía thang máy.
Matt Baker lắc đầu như không tin vào mắt ḿnh. Chúa ơi, không biết cô ta là dạng người ǵ mà hành động tự tiện thế. Có một thùng rác ở dưới bàn. Matt Baker vừa định nhét xấp giấy vào đó, bỗng nhiên, một ḍng chữ đập thẳng vào mắt ông: "Spacy Taylor, với khuôn mặt bầm tím và đau khổ, tố cáo rằng cô ta phải nằm viện v́ người chồng, ngôi sao nhạc rock Tripp Taylor, đă đánh cô." - Mỗi lần tôi có thai, anh ta lại đánh tôi. Anh ta không muốn có con...". Matt đọc tiếp đến hết như chôn chân tại chỗ. Khi ông ta ngửng đầu lên. Dana đă đi mất.
Cầm tập giấy trong tay, Matt chạy như bay đến thang máy, hy vọng đuổi kịp cô gái. Khi đến chỗ rẽ, ông đầm sầm vào Dana. Nàng đang đứng, dựa lưng vào tường, chờ đợi.
"Làm thế nào mà cô có được bài này?"
Dana trả lời thật đơn giản. "Tôi đă nói với ông rồi. Tôi là một phóng viên".
Matt hít một hơi thật sâu. "Quay lại pḥng tôi ngay."
Họ lại ngồi trong văn pḥng của Matt Baker. "Cô làm việc được đấy". Ông thừa nhận.
"Cám ơn ông! Tôi không thể nói với ông là tôi cảm động về lời nói ấy như thế nào". Dana vui vẻ nói. "Tôi sẽ là phóng viên tốt nhất mà ông từng có. Rồi ông sẽ thấy. Điều tôi thực sự muốn là làm phóng viên thường trú tại nước ngoài, nhưng tôi sẵn sàng chờ đợi, thậm chí là một năm", "nàng thấy ông nhướn mày, "hay có thể là hai".
"Tờ Tribune th́ không có việc ǵ mới, c̣n đây là danh sách những người chờ đợi".
Nàng ngạc nhiên nh́n ông ta. "Nhưng tôi cho là..."
"Chờ đấy".
Dana nh́n ông ta cầm bút lên và viết ra ta từ "cho là" rồi chỉ vào nó. "Khi là một phóng viên cho là một điều ǵ đi, cô Evans, nó thật lố bịch, với cả cô và tôi. Cô hiểu chứ?"
"Vâng, thưa ông".
"Tốt", ông tỏ vẻ nghĩ ngợi một lúc, rồi quyết định, "cô đă bao giờ xem kênh truyền h́nh WTE chưa? Đó là kênh của tập đoàn viễn thông Tribune đấy".
"Chưa, thưa ông. Tôi không nói rằng tôi..."
"Cô may đấy. Có một chỗ trống ở đó. Một người viết lời b́nh vừa mới xin nghỉ. Cô có thể thay thế chỗ của ông ta?"
"Làm ǵ cơ ạ?" Dana hỏi, vẻ căng thẳng.
"Viết lời b́nh cho các chương tŕnh truyền h́nh".
Mặt nàng ỉu x́u. "Viết lời b́nh? Tôi có biết ǵ về..."
"Rất đơn giản. Người làm tin sẽ đưa cho cô tất cả những thông tin cần thiết về đoạn phim sẽ phát trên truyền h́nh. Cô chuyển nó sang tiếng Anh rồi truyền trên máy TelePromTer cho người dẫn chương tŕnh đọc".
Dana ngồi đó, lặng im.
"Thế nào hả?"
"Chẳng sao, nhưng tôi là một phóng viên cơ mà?"
"Chúng tôi đă có tới 500 phóng viên ở đây, và tất cả bọn họ đều là loại kỳ cựu cả. Đến toà nhà số 4. Hỏi ông Hawkins. Nếu cô muốn bắt đầu sự nghiệp th́ truyền h́nh cũng không tồi đâu". Matt Baker cầm lấy điện thoại. "Tôi sẽ gọi cho ông ta".
Dana thở dài đứng dậy. "Vâng, cảm ơn ông, nếu ông c̣n ǵ..."
"Ra ngoài".
Các studio của kênh truyền h́nh WTE chiếm toàn bộ tầng 6 của toà nhà số 4 trong quần thể Tribune. Tom Hawkins, người phụ trách phần bản tin đêm, đưa Dana vào pḥng làm việc của ông ta.
"Cô đă bao giờ làm việc trong lĩnh vực truyền h́nh chưa?"
"Chưa, thưa ông, tôi mới chỉ làm phóng viên báo viết thôi".
"Báo viết là quá khứ, chúng ta là hiện tại. Và chỉ có chúa mới biết tương lai sẽ là cái ǵ? Để tôi dẫn cô đi quanh đây một ṿng".
Có khoảng vài tá người làm việc tại bàn. Các loại tin tức từ vài chục tờ báo khác nhau đang hiện lên trên màn h́nh máy tính.
"Đây là nơi chúng tôi nhận tin từ tất cả các vùng trên toàn thế giới". Hawkins giải thích. "Tôi sẽ quyết định lấy cái ǵ và bỏ cái ǵ. Pḥng nhân sự sẽ cử người tới chỗ cần thiết để lấy tin tức. Các phóng viên thường trú sẽ gửi bài về bằng sóng vi ba và máy transmiter (máy phát). Bên cạnh dịch vụ điện báo, chúng tôi c̣n có 160 kênh, các phóng viên được trang bị máy điện thoại di động, máy phát h́nh. Tất cả các chương tŕnh được bố trí khít đến từng giây. Những người viết lời b́nh phải làm việc với các biên tập chương tŕnh để khớp thời gian đến mức tối đa. Trung b́nh một tin ngắn chỉ diễn ra trong khoảng một phút rưỡi đến một phút bốn mươi lăm giây".
"Có bao nhiêu người viết lời b́nh ở đây?" Dana hỏi.
"Sáu. Rồi cô sẽ được làm quen với các biên tập chương tŕnh, những người sản xuất, các phóng viên, người dẫn chương tŕnh...". Ông ta dừng lại. Hai người, một nam một nữ đang bước đến gần họ. "Thiêng thật, vừa nói về người dẫn chương tŕnh th́ lại gặp ngay Julia Brinkman và Michael Tate ở đây".
Julia là một phụ nữ nhỏ nhắn, nét mặt khả ái, tóc nhuộm mày hạt dẻ, đôi mắt to, xanh và sáng. Mechael lại có dáng vẻ như một vận động viên điền kinh với nụ cười hút hồn và những cử chỉ duyên dáng.
"Đây là người viết lời b́nh mới của chúng ta". Hawkins nói, "Donna Evanston".
"Dana Evans chứ".
"Th́ ǵ mà chả được. Nào, chúng ta đi làm đi".
Ông ta đưa Dana quay về pḥng. Đi qua một pḥng lớn, ông ta hất đầu bảo nàng. "Đây là nơi chúng ta chọn tin. Chúng được gọi là những viên đạn. Chúng ta phải vào đây hai lần trong ngày. Tin tức buổi chiều sẽ được chuẩn bị xong trong ṿng từ mười hai đến một giờ chiều và tin vào ban đêm th́ từ mười đến mười một giờ. Khi tôi nói với cô là tôi muốn có tin ǵ, cô phải biết kết hợp chúng với những sự kiện có liên quan khác, làm sao cho các khán giả của chúng ta không chuyển kênh. Các biên tập băng h́nh sẽ cung cấp cho cô các đoạn băng cần thiết, cô bố trí lại thành một kịch bản và chuyển cho tôi".
"Dạ, tôi hiểu".
"Đôi khi có những vụ scandal, chúng tôi có thể tạo thành một chuyên mục thường xuyên vào một giờ cố định".
"Hay quá nhỉ". Dana nói.
Nàng không hề biết rằng vào một ngày nào đó, chính nó, cái chuyên mục này, sẽ cứu nàng thoát chết.
"Tác phẩm" đầu tiên của Dana thật kinh khủng. Đáng lẽ phải đưa tin chủ đạo lên đầu th́ nàng lại đặt nó vào giữa. Rồi Julia phát hiện ra ḿnh đọc lời b́nh của Michael trong khi anh này lại đọc lời b́nh của cô.
Lát sau, vị chủ nhiệm chương tŕnh nói với Dana. "Ông Hawkins muốn gặp cô ngay".
Hawkins ngồi sau bàn, mặt tái nhợt đi v́ tức giận.
"Tôi biết", Dana nói nhỏ nhẹ, "đây là lỗi của tôi đă làm hỏng chương tŕnh".
Hawkins ngồi im lặng nh́n nàng.
Danna cố lại lần nữa. "Tom à, tôi hứa, từ nay trở đi tôi sẽ làm tốt hơn, được không?"
Ông vẫn chằm chằm nh́n nàng.
"Sẽ không bao giờ xảy ra chuyện này nữa", nàng nh́n thẳng vào ông, cao giọng, "v́ tôi bị đuổi việc".
"Không". Hawkins nói từng câu một. "Thế th́ quá dễ cho cô. Cô phải làm lại, đến khi nào nó ổn mới thôi. Tôi đang nói về bản tin chiều mai đấy. Chính tôi sẽ kiểm tra vụ này".
"Vâng ạ".
"Tốt, tôi muốn cô ở đây vào lúc tám giờ sáng mai".
"Vâng, Tom".
"Và nếu chúng ta c̣n làm việc cùng nhau, xin cô gọi tôi là ông Hawkinss cho".
Bản tin chiều hôm sau diễn ra suôn sẻ. Tom Hawkins đúng thật. Tất cả chỉ là bắt vào đúng nhịp điệu mà thôi. Lấy băng h́nh... viết tin... làm việc với biên tập băng h́nh... bố trí vào TelePrompter cho người dẫn chương tŕnh đọc.
Từ hôm đó, mọi việc đối với Dana trở nên nhàn nhă.
Bước ngoặt đến với Dana tám tháng sau ngày nàng vào làm việc cho kênh truyền h́nh WTE. Hôm đó, nàng vừa đưa xong chương tŕnh tin tức buổi tối vào máy TelePrompter lúc 9 giờ 45 phút và đang chuẩn bị ra về. Khi đi vào pḥng quay, nàng bắt gặp một cảnh tượng cực kỳ hỗn độn. Như thể tất cả đều cùng một lúc nhao nhao phát biểu.
Rob Cline, chủ nhiệm chương tŕnh, đang gào thét. "Cô ta ở chỗ quái nào đây?"
"Tôi không biết".
"Có ai nh́n thấy cô ta không?"
"Không".
"Anh gọi điện đến nhà cô ấy chưa?"
"Tôi chỉ nghe thấy tiếng máy trả lời tự động thôi".
"Tuyệt vời chưa, chúng ta sẽ lên h́nh", ông ta nh́n đồng hồ, "trong 12 phút nữa".
"Biết đâu Julia gặp tai nạn". Michael nói. "Cô ta có thể chết rồi th́ sao?"
"Không thể chấp nhận được, ít nhất cô ta cũng phải gọi điện chứ?"
Dana bước vào. Nàng nói. "Xin lỗi..."
Người chủ nhiệm quay lại nh́n nàng với vẻ sốt ruột. "Cái ǵ?"
"Nếu Julia không đến kịp, tôi có thể lên h́nh thay cô ấy".
"Quên đi". Ông ta quay lại viên trợ lư. "Gọi điện xuống bảo vệ hỏi xem đă thấy cô ấy vào cổng chưa".
Anh này cầm lấy phôn. "Julia đă vào cổng chưa...? Này, khi nào cô ấy đến, bảo lên ngay nhé".
"Bảo hắn giữ riêng một cầu thang máy cho cô ta đi. Chúng ta sắp lên h́nh rồi." Ông ta lại sốt ruột nh́n đồng hồ. "C̣n có bảy phút chết tiệt nữa".
Dana đứng đó, nh́n đám đông nhộn nhạo.
Michael đề nghị. "Tôi có thể lănh cả hai vai được mà".
"Không", vị chủ nhiệm gào lên. "Chúng tôi cần đủ cả hai người ở đây cơ.". Ông ta lại nh́n đồng hồ. "Ba phút nữa. Mẹ kiếp. Con mụ ấy làm cái quái quỷ ǵ không biết. Chúng ta sẽ lên h́nh trong..."
Dana bật dậy. "Tôi biết tất cả những ǵ cần đọc, tôi là người viết lời mà".
Ông ta lườm cô. "Cô c̣n chưa trang điểm, lại ăn mặc không đúng kiểu nữa".
Một tiếng nói rất to từ người phụ trách âm thanh. "C̣n hai phút nữa, xin vào chỗ cho, nhanh lên".
Michael nhún vai chạy lên bục, đứng trước máy quay.
"Nào, vào chỗ đi".
Dana mỉm cười với vị chủ nhiệm. "Xin chào ông Cline nhé".
Nàng quay người đi ra cửa.
"Chờ một chút đă", ông ta ôm lấy đầu. "Cô có chắc là cô ḿnh làm được không?"
"Th́ cứ phải liều thôi".
"Thôi được, tôi cũng chẳng c̣n lựa chọn nào khác". Ông ta rên lên. "Chuẩn bị đi. Mẹ ơi, con không nghe lời mẹ mà làm bác sĩ đi cho xong".
Dana chạy vội lên bục đứng cạnh Michael.
"30 giây... 20... 10... 5..."
Vị chủ nhiệm vẫy tay, và một luồng sáng đỏ từ camera chiếu vào họ.
"Xin chào quư vị." Dana nói trôi chảy. "Xin đón chào quư vị đến với chương tŕnh tin tức lúc 10 giờ đêm của kênh truyền h́nh WTE. Chúng tôi xin có một câu chuyện gây chấn động diễn ra ơ Hà Lan. Một vụ nổ tại một trường tiểu học ở Amssterdam chiều hôm nay..."
Phần c̣n lại của buổi tin hôm đó, không có ǵ để chê trách.
Sáng hôm sau, Rob Cline đến pḥng làm việc của Dana. "Tin xấu đây, Julia bị tai nạn giao thông tối qua. Mặt cô ấy", ông ngập ngừng, "bị biến dạng".
"Tôi xin lỗi". Dana nói, vẻ lo lắng. "Có nặng lắm không?"
"Khá nặng đấy".
"Nhưng ngày nay kỹ thuật thẩm mỹ có thể..."
Ông ta lắc đầu. ít nhất cũng không phải là bây giờ, cô ấy không thể tiếp tục công việc này được nữa".
"Tôi sẽ đến thăm. Cô ấy hiện ở đâu?"
"Họ đă đưa cô ấy về gia đ́nh ở Oregon".
"Tôi xin lỗi".
"Cô được vài thứ, nhưng cô lại mất vài thứ". Ông ta chăm chú nh́n nàng. "Hôm qua cô xuất hiện được đấy. Chúng tôi sẽ để cô tiếp tục cho đến khi t́m được người mới".
Dana đến t́m Baker. "Ông có xem bản tin tối qua không?"
"Có", ông lẩm bẩm, "v́ chúa cô nên bôi thêm một chút son phấn và ăn mặc cho tử tế hơn".
Dana cảm thấy mất hào hứng. "Được thôi".
Khi nàng đủng đỉnh đi, Matt Baker nói thêm. "Thế là không tồi đâu." Câu ấy mà từ miệng Batt nói ra th́ quá là một lời khen rồi.
Vào đêm thứ mười lên h́nh như vậy, vị chủ nhiệm Cline nói với Dana. "Chúng tôi giữ hẳn cô ở lại đây. Dù sao, bố già cũng bảo nên giữ cô lại".
Dana tự hỏi không biết bố già đây có phải là Matt Baker không.
Sau sáu tháng, Dana trở thành một khuôn mặt quen thuộc của truyền h́nh Washington. Nàng trẻ trung xinh đẹp, quyến rũ và sự thông ḿnh th́ không cần kể ra. Vào cuối năm đó, một trong những chương tŕnh của nàng ở đây và bây giờ, chuyên phỏng vấn những người nổi tiếng, đă chiếm hàng đầu trong số những chương tŕnh được khán giả yêu thích nhất. Những cuộc tṛ chuyện của nàng vừa thân t́nh, vừa chân thật, và những người nổi tiếng vốn e ngại xuất hiện trước màn h́nh ti vi giờ đây lại tự nguyện mời Dana phỏng vấn. Báo chí bắt đầu phỏng vấn chính nàng. Và Dana cũng trở thành một người nổi tiếng.
Vào ban đêm, Dana xem các chương tŕnh thời sự quốc tế. Nàng ngưỡng mộ các phóng viên thường trú tại nước ngoài. Họ đang làm những việc thật quan trọng. Họ đang ghi lại lịch sử, thông báo cho cả thế giới về những sự kiện quan trọng đang xảy ra khắp toàn cầu. Nàng thấy ḿnh thật vô dụng.
Hợp đồng hai năm của Dana với WTE sắp hết. Philip Cole, phụ trách các phóng viên, gọi nàng lên.
"Cô đă làm việc rất tốt, Dana ạ. Chúng tôi hănh diện v́ cô đấy".
"Cảm ơn ông, Philip".
"Cũng đă đến lúc để chúng ta bàn đến việc kư lại hợp đồng rồi. Đầu tiên..."
"Tôi đi đây".
"Xin lỗi?"
"Khi nào hết hạn hợp đồng tôi sẽ đi".
Ông ta nh́n nàng, ṭ ṃ hết cỡ. "Tại sao cô lại đi? Cô không thích làm việc ở đây à?"
"Tôi rất muốn. Tôi rất muốn làm việc với WTE, nhưng tôi muốn là một phóng viên thường trú tại nước ngoài".
"Đấy là một cuộc sống kinh khủng". Ông ta cáu kỉnh. "Thế quái nào mà cô lại thích nó chứ?"
"Bởi v́ tôi đă chán ngấy việc phải nghe những người nổi tiếng nói về việc họ tự nấu ăn ra sao. C̣n bao nhiêu việc lớn lao khác đang xảy ra xung quanh chúng ta, có bao nhiêu người đang đau khổ và chết chóc. Thế giới không chỉ một màu hồng, tôi muốn cho mọi người thấy điều đó". Nàng hít một hơi thật sâu. "Tôi xin lỗi, tôi không thể ở đây thêm nữa". Nàng đứng dậy và đi ra cửa.
"Chờ chút, cô có chắc những ǵ ḿnh muốn không?"
"Đấy là việc mà tôi luôn mong được làm". Dana trầm tĩnh đáp.
"Philip nghĩ một lát. "Thế cô muốn đi đâu?"
Phải một lúc sau Dana mới nhập được hết thông tin từ câu hỏi của ông. Rồi nàng nói thật rành rọt. "Sarajevo"

Chương 9

Trở thành Thống đốc quả là hấp dẫn hơn những ǵ Oliver từng tưởng tượng. Quyền lực giống như một ả nhân t́nh xinh đẹp và khêu gợi, khiến anh mê đắm trong ṿng tay nó. Mỗi quyết định của anh ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm ngàn người ở đây. Anh trở nên say mê công việc thông qua các đạo luật, và ảnh hưởng cũng như tiếng tăm của anh chẳng mấy chốc nổi lên như cồn. Ḿnh đang ngồi vào chỗ không phải ai cũng được ngồi. Oliver sung sướng nghĩ. Trong đầu anh chẳng lúc nào quên câu nói của Nghị sĩ Davis. "Đây mới chỉ là bước đầu, Oliver ạ, hăy đi từng bước vững chắc".
Và Oliver luôn cẩn thận. anh có khá nhiều vụ áp-phe, nhưng tất cả đều nằm trong bóng tối. Anh biết nó sẽ ra sao nếu bị lộ ra.
Thỉnh thoảng Oliver lại gọi điện đến bệnh viện hỏi thăm t́nh h́nh Miriam.
"Thưa thống đốc, cô ấy vẫn đang bất tỉnh".
"Thông báo ngay cho tôi nếu có ǵ đặc biệt nhé".
Một trong những trách nhiệm khi anh làm thống đốc bang là phải tổ chức những bữa tiệc. Quan khách của Oliver chủ yếu là các nhà tài trợ, những ngôi sao thể thao và nghệ thuật, các ông bầu giải trí, những người có tên tuổi ở chính trường và một loạt các vị khách danh dự khác. Jan thật đáng mặt là một bà chủ nhà hoàn hảo và Oliver thích kiểu mà người ta cư xử với cô.
Một hôm, Jan nói với chồng. "Em vừa nói chuyện với cha xong. Cha bảo tuần tới sẽ tổ chức bữa tiệc tại nhà riêng. Cha muốn chúng ḿnh tới đó, có vài người quan trọng mà cha muốn anh gặp".
Thứ bảy đó, tại toà nhà sang trọng của Nghị sĩ Davis ở Georgetown, Oliver được bắt tay với những nhân vật nổi tiếng nhất trong giới chính khác ở Washington. Đó là một bữa tiệc tuyệt vời, và anh thấy tự thoả măn với chính ḿnh.
"Vui vẻ chứ, Oliver?" Peter hỏi.
"Tôi không thể ước điều ǵ hơn thế. Một bữa tiệc cực kỳ".
"Đấy, nhân nói về những điều ước, lại làm tôi nhớ hồi cháu Elisabeth nhà tôi mới sáu tuổi, một hôm mặt mũi cứ nhăn nhó nhất định không chịu dậy mặc quần áo đi học. Betsy rất khó chịu. Con bé nh́n mẹ và hỏi: "Mẹ ơi, mẹ nghĩ ǵ thế?". Betsy bảo nó. "Mẹ ước ǵ bây giờ con không nhăn nhó nữa, mặc quần áo và đi ăn sáng như một bé ngoan". Thế là Elisabeth nói. "Mẹ ơi, mẹ sẽ không được ban điều ước ấy". Anh thấy có tuyệt không? Bọn trẻ có thông minh không cơ chứ. Gặp lại anh sau nhé, Thống đốc".
Một cặp vợ chồng tiến vào cửa và Nghị sĩ Davis ra đón họ.
Vị đại sứ Italia, Atilio Picone, trông nghiêm trang đúng với cái tuổi sáu mươi của ông ta. Hàng lông mày đen rậm không giấu được những nét điển h́nh của người dân đảo Sicil. Bà vợ, Sylva là một trong những người phụ nữ đẹp nhất mà Oliver đă từng gặp. Bà đă từng là diễn viên điện ảnh trước khi lấy Atilio và đến giờ vẫn c̣n nổi tiếng tại ư. Lư do thật dễ hiểu với Oliver. Sylva có cặp lông mày nâu, cong và rộng, khuong mặtt kiểu Madonna, và thân thể của thần vệ nữ. Bà vợ kém ông chồng đến hai lăm tuổi.
Nghị sĩ Davis dẫn vợ chồng đại sứ đến giới thiệu với Oliver.
"Tôi rất hân hạnh được làm quen với ông bà", Oliver nói, mắt không rời khỏi Sylva.
Bà ta mỉm cười. "Tôi có được hân hạnh nghe nhiều chuyện về ông".
"Hy vọng là không có ǵ quá tệ".
"Tôi..."
Ông chồng cắt ngang. "Nghị sĩ Davis đánh giá ông rất cao".
Oliver vẫn nh́n Sylva và nói: "ồ, tôi lại được tôn lên rồi".
Nghị sĩ Davis đưa họ tới một nhóm khác. Khi quay lại, ôn gta nói với Oliver. "Quá lắm, thống đốc ạ. Bà ta là quả cấm đấy. Anh mà động vào th́ cứ là tan tành sự nghiệp".
"Ôi, Todd, cha đùa ạ, con đâu có...".
"Tôi nói nghiêm túc đấy. Anh có thể biến hai nước thành cừu địch ngay bây giờ".
Cuối buổi tối hôm đó, khi Sulva và chồng sắp ra về, Atilio nói với Oliver. "Thật là vui được gặp ảnh hưởng".
"Đó là niềm hân hạnh cho tôi".
Sylva cầm lấy tay anh và nói nhỏ. "Chúng tôi mong được gặp lại anh".
"Đôi mắt họ gặp nhau. "Vâng".
Và Oliver nghĩ, Ḿnh phải cẩn thận mới được.
Hai tuần sau đó, khi đang làm việc ở Frankfort, Oliver nghe cô thư kư thông báo.
"Thưa thống đốc, ngài Nghị sĩ Davis đang ở đây và muốn gặp ông".
"Nghị sĩ Davis đang ở đây ư?"
"Vâng, đúng vậy".
"Mời ông ấy vào. Oliver không hiểu bố vợ ḿnh đến dây làm ǵ trong khi anh biết rằng ông ta đang có một vụ tranh căi rất căng thẳng ở Washington về một luật thuế mới. Cửa bật mở, ngài Nghị sĩ bước vào. Theo sau là Peter Tager.
Nghị sĩ Davis mỉm cười và vỗ vai chàng rể. "Thống đốc ạ, tôi rất mừng được gặp anh đấy".
"Con cũng rất mừng được gặp cha, Todd ạ". Rồi quay sang Peter. "Chào anh, Peter".
"Xin chào, Oliver".
"Hy vọng là tôi không làm phiền anh chứ?" Nghị sĩ Davis hỏi.
"ồ, không đâu, thưa cha. Có chuyện không ổn ạ?"
Nghị sĩ Davis nh́n Peter và mỉm cười. "ồ, tôi không nghĩ anh lại hỏi tôi có điều ǵ đó không ổn, Oliver ạ. Thực tế tôi có thể nói rằng mọi việc đang rất tốt đẹp".
Oliver nh́n cả hai người, trong ḷng bối rối. "Con không hiểu ǵ cả".
"Tôi có vài tin tốt cho anh đây, con rể ạ. Chúng tôi có thể ngồi chứ?
"Ôi, tha lỗi cho con. Hai người uống ǵ đây? Cà phê? Hay Wiskey..."
"Không, chúng tôi đă bị kích thích đủ rồi".
Oliver lại thấy bối rối, không hiểu điều ǵ đă xảy ra.
"Tôi vừa mới từ Washington đến đây. Có một nhóm người rất có ảnh hưởng ở đó cho rằng anh xứng đáng là Tổng thống tương lai của chúng ta".
Oliver cảm thấy như một luồng gió mát thổi qua. "Con thật ư?"
"Đúng vậy, lư do để tôi bay đến đây là v́ đă đến lúc chúng ta phải nghĩ tới việc tung ra chương tŕnh lăng xê anh. Cuộc bầu cử c̣n không đầy hai năm nữa".
"Thật là khớp thời gian". Peter hào hứng nói. "Trước khi qua ṿng đầu tiên, tất cả mọi người trên thế giới sẽ biết được chúng ta là ai".
Nghị sĩ Davis bổ sung. "Peter sẽ lo cho anh chiến dịch quảng cáo này. Anh sẽ sắp xếp mọi thứ. Anh biết là không thể t́m được ai tốt hơn Peter đâu".
Oliver nh́n Peter và nồng nhiệt nói. "Con biết từ lâu rồi".
"Đấy là niềm hân hạnh của tôi, chúng ta sẽ c̣n có nhiều chuyện vui nữa, Oliver ạ".
Oliver quay sang Nghị sĩ Davis. "Con hy vọng là chiến dịch tranh cử sẽ không quá tốn kém".
"Đừng lo chuyện đó. Anh phải luôn là người dẫn đầu. Tôi đă thuyết phục nhiều bạn bè để họ nhận lời tài trợ cho anh". Ông ta tựa vào ghế. "Đừng có tự coi ḿnh thấp như vậy, Oliver. Theo một điều tra cách đây khoảng hai tháng, anh được đánh giá đứng thứ ba trong số các vị Thống đốc bang làm việc hiệu quả nhất đấy. Song anh có vài điểm mạnh mà hai ngưoiừ kia không có. Trước đây tôi đă có lần nói với anh về chuyện này - đó là năng lực cuốn hút. Nó là cái mà tiền bạc không thể mua được. Người ta thích anh, và người ta sẽ bỏ phiếu cho anh".
Oliver càng nghe càng thấy phấn chấn. "Khi nào th́ chúng ta bắt đầu?"
"Chúng tôi đă bắt đầu", Nghị sĩ Davis nói, "chúng ta sẽ xây dựng một đội ngũ chuyên về việc quảng cáo và sẽ đánh thức các đại biểu ở tất cả các bang dậy".
"Sự may mắn của con có bao nhiêu phần trăm hiện thực?"
"Trong cuộc bầu cử để chọn ứng viên của Đảng, anh sẽ dễ dàng đánh gục được tất cả những người khác. Peter đáp. "C̣n đến cuộc tổng tuyển cử, Tổng thống Norton đang c̣n rất phong độ, xứng đáng là địch thủ đáng gờm của anh đấy. Nhưng dĩ nhiên vẫn có điều tốt lành, đây lại là nhiệm kỳ thứ hai rồi, ông ta có muốn cũng đành chịu. Phó Tổng thống Cannon th́ như một vệt sáng yếu ớt. Chỉ có một tia nắng nhỏ cũng đủ sức làm ông ta biến mất".
Cuộc gặp kéo dài đến bốn giờ đồng hồ. Cuối cùng, Nghị sĩ Davis nói với Peter Tager "Peter này, xin lỗi anh có thể để cha con tôi nói chuyện riêng một chút không?". Vâng, thưa ngài".
Khi ông ta đă ra đi và khép cửa lại, Nghị sĩ Davis bảo Oliver. "Tôi đă nói chuyện này với Jan sáng nay".
Oliver bỗng hơi hoảng. "Dạ!".
Nghị sĩ Davis nh́n anh và mỉm cười. "Nó hạnh phúc lắm".
Oliver thở phào như trút một gánh nặng. "Con rất vui được nghe cha nói thế".
"Tôi cũng vậy, con rể ạ, tôi cũng rất vui. Đừng quên giữ cho gia đ́nh ḿnh luôn là một tổ ấm. Anh hiểu ư tôi muốn chứ?".
"Xin cha đừng lo lắng về chuyện đó. Con...".
Nghị sĩ Davis mỉm cười. "Tôi phải lo lắng chứ, Oliver. Tôi không bảo anh tuyệt đối không được nhăng nhít, nhưng nhớ là đừng để chuyện đó biến anh thành thằng ngốc".
Khi Todd Davis và Peter đi dọc theo hành lang Toà thị chính, Nghị sĩ nói: "Tôi muốn anh dựa ngay cho tôi là một đội quân chuyên dụng cho chiến dịch vận động này. Đừng ngại chuyện chi phí. Song song với nó, tôi muốn có những văn pḥng chuyên trách về việc này đặt tại một số nơi trọng yếu như New York, Washington, Chicago và San Francisco. Cuộc bầu cử chọn ứng cử viên Đảng bắt đầu sau 12 tháng tới đây. Hội nghị bỏ phiếu c̣n 18 tháng nữa. Sau đó th́ chúng ta sẽ chẳng c̣n phải lo lắng ǵ". Họ đă tiến lại gần chiếc xe, "đi cùng chúng tôi ra sân bay, Peter".
"Oliver sẽ là một vị Tổng thống tài giỏi". Peter nhận xét.
Nghị sĩ Davis gật đầu. Và ta có nó trong tay đây. Nó sẽ là con rối của ta. Ta giật dây một cái, thế là Tổng thống Hoa Kỳ sẽ nhảy múa.
Ngài nghị sĩ rút trong túi ra hộp x́ gà. "X́ gà chứ?"
Chiến dịch quảng cáo cho cuộc bầu cử chọn ứng cử viên của Đảng trên khắp nước Mỹ bắt đầu tốt đẹp. Nghị sĩ Davis quả không nh́n nhầm người. Peter Tager là một trong những nhà sắp đặt chính trị tài giỏi nhất thế giới, các tổ chức mà ông ta sáng lập ra thật không chê vào đâu được. Trong mắt mọi người, Tager là một người chồng, người cha mẫu mực và một con chiên ngoan đạo. Ông ta chiếm được cảm tỉnh của nhà thờ Thiên chúa giáo. Bởi v́ biết điều hành những công việc chính trị, do vậy Tager c̣n có thể thuyết phục được những người theo Đảng tự do bỏ qua những sự khác biệt của họ mà cùng hợp tác hành động. Khuôn mặt với dải băng đen che một bên mắt hỏng giờ đây đă trở nên quen thuộc với tất cả mọi người.
Lịch làm việc do Peter lập cho Oliver kín đặc các chuyến bay cho đến tất cả các bang của Mỹ. Oliver nh́n mà phát hoảng, nói. "Không... không thể được Peter".
"Anh có đơn phương độc mă đâu" Peter trấn an. "Chúng ta sẽ di chuyển bằng chiếc máy bay Challenger của bố vợ anh cho mượn. Biết bao nhiêu người đỡ từng bươc chân của anh. Rồi c̣n có tôi ở bên cạnh anh đây".
Nghị sĩ Davis giới thiệu Sim Lombardo với Oliver. Lombardo là một gă đàn ông to cao, lực lưỡng, đen cả về mặt h́nh thức cũng như tâm hồn. Gă rất ít nói.
"Anh ta hoà hợp thế nào với chúng con được?" Oliver hỏi bố vợ khi chỉ c̣n lại hai người.
"Sin là người chuyên giải quyết các vấn đề ngáng trở chúng ta. Đôi khi, có những kẻ phải thêm một tí thuyết phục mới chịu nghe. Sim là người giỏi thuyết phục lắm".
Oliver không thể c̣n nghĩ ngợi ǵ thêm.
Khi chiến dịch tranh cử Tổng thống đến gần hơn, Peter bắt đầi cho Oliver biết những điều cần nói, khi nào cần nói, và nói như thế nào. Ông ta thấy Oliver luôn gây được ấn tượng ở những bang chủ chốt. Đến bất kỳ nơi nào, anh cũng nói trúng những điều người ta muốn nghe.
Tại Pennsylvania: "sản xuất là ḍng máu nóng của cả nước. Chúng ta không được quên điều đó. Chúng ta sẽ mở cửa lại các công xưởng, và đưa cả nước Mỹ vào guồng máy sản xuất".
Hoan hô.
Tại California: "công nghiệp máy bay là một trong những thế mạnh nhất của Mỹ. Khôn có lư do ǵ để một xưởng sản xuất máy bay của chúng ta phải đóng cửa. Chúng ta sẽ mở lại chúng".
Hoan hô.
Tại Detroit: "Chúng ta sản xuất ô tô, song lại để người Nhật đi trước chúng ta về mặt công nghệ. Chúng ta sẽ giành lại vị trí số một này. Detroit sẽ lại là trung tâm ô tô của cả thế giới".
Hoan hô.
Tại sân băi của các trường đại học, anh nói về việc cho sinh viên vay tiền với lăi suất giảm.
Tại các trại lính đóng quanh đất nước, anh nói về tinh thần vô địch của quân đội Hoa Kỳ.
Lúc đầu Oliver c̣n là một cái tên chưa nổi, những kẻ đối nghịch với c̣n coi thường anh. Nhưng khi chiến dịch đi vào guồng, tỉ lệ tín nhiệm đối với anh ngày càng tăng.
Trong tuần đầu tiên của tháng bảy, hơn bốn ngh́n đại biểu và thành viên dự khuyết của hàng trăm đảng phái khác nhau, và các ứng cử viên, cùng dồn về dự hội nghị ở Cleveland, khiến thành phố này tràn ngập không khí ngày hội với những cuộc diễu hành, những xe chăng cờ hoa và các yến tiệc. Camera truyền h́nh ở hầu hết các nơi trên thế giới dều tụ tập về đây. Peter và Sim bố trí để Oliver luôn ở trong tầm ngắm của các phóng viên.
Có khoảng nửa tá người sẽ là đối thủ của Oliver nhưng Nghị sĩ Davis đă khéo léo làm việc ở hậu trường để loại bỏ dần từng người một trong số đó. Ông ta gọi điện thoại đến một số những người đă chịu ơn ḿnh, có những chuyện đă cách đây hàng chục năm.
"Toby đấy à, Todd đây, Emma và Suzzy thế nàoA?... Tốt, tôi muốn nói về cậu con trai của các anh, Andrew ấy. Tôi lo cho hắn lắm đấy, Toby ạ. Anh biết không, theo ư kiến của tôi, hắn hơi tự do quá. Phía nam sẽ không chấp nhận hắn đâu. tôi gợi ư với anh thế này nhé...
"Alfred à, Todd đây. Roy dạo này thế nào?...
Không cần phải cám ơn tôi. Tôi rất vui v́ được giúp được nó mà. Tôi muốn nói với anh về ứng viên của các anh, Jerry ấy. Theo tôi hắn quá hữu khuynh đấy. Nếu anh ủng hộ hắn, ta sẽ mất miền bắc đấy, tôi thử gợi ư anh thế này nhé...
"Kenneth đấy à, Todd đây. Tôi rất vui khi nói với anh là cái vụ nhà đất ấy đă giải quyết êm thấm. Tất cả chúng ta đă chơi một cú thật đẹp, đúng không? Nhân tiện, tôi nghĩ chúng ḿnh nên nói một chút về Staler. Tên này yếu quá. Hắn bại mất. Mà ḿnh th́ không thể ủng hộ một người bại trận được, tôi cho là..."
Cứ thế, cho đến khi người duy nhất có khả năng đoạt vị trí ứng cử viên cho đảng là Thống đốc Oliver Russell.
Trong đợt bỏ phiếu kín lần thứ nhất, Oliver kiếm được 700 phiếu: hơn 200 phiếu so với đại diện của 6 bang công nghiệp phía bắc, 150 phiếu so với sáu tháng New England, 40 phiếu so với bốn bang miền Nam, 180 phiếu với hai bang trang trại, và cân bằng với ba bang Thái B́nh Dương.
Peter làm việc cật lực để chiến dịch quảng cáo cho Oliver luôn diễn ra rầm rộ và hiệu quả. Lần kiểm phiếu cuối cùng két thúc, Oliver là người chiến thắng. Anh được bầu là chủ tịch đảng Cộng hoà trong tiếng vỗ tay vang trời.
Bước tiếp theo là chọn phó chủ tịch. Melvin Wicks là một sự chọn lựa lư tưởng. Ông là chính khách gốc California, một tài chủ sung sức, và là người theo chính kiến cộng hoà.
"Họ sẽ bổ sung cho nhau", Peter nói. "Bây giờ công việc chính mới bắt đầu đây. Chúng ta sẽ thuận lợi lớn với số phiếu vừa có, 700 phiếu". Số phiếu đại biểu đủ để chiếm ghế Tổng thống.
Tager nói với Oliver, "Người dân muốn có một vị Tổng thống trẻ trung... đẹp trai, hài hước một chút và phải có cái nh́n xa trông rộng. Họ muốn anh nói với họ là họ vĩ đại như thế nào, và họ muốn tin vào điều đó... Hăy để họ thấy anh thông minh, nhưng đừng quá... Nếu anh tấn công đối thủ của ḿnh, hăy làm như không phải v́ anh... Đừng bao giờ coi thường nhà báo. Cứ đối xử với bọn này như bạn bè, và họ sẽ cũng coi anh là người bạn... Cố gắng tránh mọi chuyện xầm x́. Nên nhớ rằng anh là môt người của mọi người".
Chiến dịch quảng cáo vẫn chưa dừng lại. Chiếc máy bay của Nghị sĩ Davis cần mẫn chở Oliver đến Taxas trong ba ngày, đến Massachusetts trong sáu giờ. Mỗi một phút đều được tính toán. Có những ngày Oliver phải đến mười thành phố và đọc khoảng mười bài diễn văn. Mỗi đêm lại là một khách sạn khác. Khách sạn Drạke ở Chicgo, St. Regis ở Detroit, Carlyle ở New York, Place D armes ở New Orleans, đến nỗi, cuối cùng Oliver thấy cái nào cũng giống cái nào. Bất cứ nơi nào Oliver đến, anh cũng đều được đón rước bằng xe dẫn đường của cảnh sát, đám đông và những cử tri cuồng nhiệt.
Jan tháp tùng Oliver trong hầu hết các chuyến đi, và anh phải công nhận cô là một người tuyệt vời. Jan hấp dẫn và thông ḿnh, đám nhà báo rất thích cô. Thỉnh thoảng, Oliver cũng đọc được trên báo về những cuộc mua bán gần đây nhất của Leslie: một tờ báo ở Madrid, một trạm truyền h́nh ở Mexico, một đài phát thanh ở Kansas. Anh mừng cho thành công của nàng, nó khiến anh bớt đi dằn vặt về những ǵ anh đă gây ra cho nàng.
ở tất cả những nơi Oliver tới, các phóng viên chụp h́nh anh, phỏng vấn anh... Có khoảng hơn một trăm nhân viên phục vụ chiến dịch quảng cáo cho anh, nhiều người trong số họ đến từ những miền xa nhất của trái đất. Càng về cuối, tỉ lệ tín nhiệm càng chỉ ra Oliver là người dẫn đầu. Nhưng, điều không chờ đợi là đối thủ của anh, phó tổng thổng Cannon, đang bắt đầu tấn công anh.
Peter thấy lo lắng. "Tỉ lệ tín nhiệm của Cannon đang tăng. Chúng ta phải chặn ông ấy lại mới được.
Hai cuộc khẩu chiến trực tiếp trên truyền h́nh giữa phó tổng thống Cannon và Oliver Russell đă được lên lịch.
"Cannon sẽ nói về vấn đề kinh tế", Peter bảo Oliver, "và đó là thế mạnh của ông ấy. Nhưng chúng ta sẽ biến ông ấy thành tṛ cười. Đây là kế hoạch của tôi..."
Buổi tối diễn ra cuộc khẩu chiến thứ nhất, trước camera truyền h́n, phó Tổng thống Cannon phát biểu về vấn đề kinh tế. "Nước Mỹ chưa bao giờ có một nền kinh tế sung sức như hiện nay. Các nghành công nghiệp đang nở hoa..." Ông tŕnh bày khoảng mười phút, cố gắng thuyết phục mọi người bằng dẫn chứng và số liệu.
Đến lượt Oliver đứng trước máy, anh nói, "Thật kinh ngạc. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều hài ḷng v́ nền kinh tế nước nhà hưng thịnh", anh quay sang đối thủ, "nhưng ngài quên không đề cập đến một lư do khiến các công ty của chúng ta làm ăn phát đạt. Đó mà cái mà người ta gọi một cách hoa mỹ là hậu quả của công nghệ. Để cho rơ ràng, tôi xin được giải thích: hậu quả công nghệ có nghĩa là hàng loạt con người bị sa thải để nhường chỗ cho máy móc. Chúng ta có số người thất nghiệp nhiều hơn bao giờ hết. Đó chính là khía cạnh phi nhân bản trên bức tranh kinh tế sáng lạn mà chúng ta đă thấy. Tôi sẽ không chia sẻ với ngài đây quan điểm cho rằng sự thành công về mặt tài chính quan trọn hơn con người..."
Khi phó tổng thống Cannon nói về kinh tế, Oliver bàn về khía cạnh con người, t́nh cảm và các cơ hội.
Trong bài nói của ḿnh, Oliver như đă biến phó Tổng thống Cannon thành một chính khách máy móc lạnh lùng, chẳng quan tâm ǵ đến người dân Mỹ và cuộc sống của họ.
Sau hôm khẩu chiến đầu tiên, tỉ lệ tín nhiệm của Olver vọt hẳn lên, dẫn trước ngài phó tổng thống đáng thương ba điểm. Nhưng vẫn c̣n một cuộc đọ sức nữa.
Athur Cannon đă được một bài học nhớ đời. Tại lần đọ sức thứ hai này, ông đứng trước micro và nói "Đất nước của chúng ta là nơi mà mọi người đều có những cơ hội như nhau. Nước Mỹ là thánh địa của tự do nhưng thế thôi th́ chưa đủ. Người dân chúng ta c̣n phải có quyền lao động và quyền tận hưởng thành quả lao động của ḿnh...".
Ông ta bắt chước cái kiểu đề cao con người của Oliver và tất cả những ǵ mà ông ta dự định phát biểu cũng chỉ nhằm vào chủ đề đó. Nhưng Peter đă đi trước một bước. Khi Cannon kết thúc bài nói của ḿnh, Oliver bước lên hùng hồn. "Thật gần gũi. Tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều đang mủi ḷng trước những điều ngài đây đă nói về những cảnh ngộ khó khăn của những người thất nghiệp, và, như ngài gọi họ là "những người đă quên không nói đến việc chúng ta phải phải làm thế nào để đem lại hạnh phúc cho những người đó..."
Và cứ như thế, khi phó Tổng thống Cannon nói về t́nh cảm con người, Oliver chỉ trích ông ta bằng các vấn đề chính trị, bằng kế hoạch phát triển kinh tế khiến ngài phó Tổng thống trở nên cô độc như một con người lạc lơng.
Oliver, Jan và Nghị sĩ Davis cùng ăn tối tại nhà riêng của Nghị sĩ ở Georgetown. Ngài nghị sĩ mỉm cười với Jan. "Cha vừa xem kết quả tín nhiệm gần đây nhất. Cha nghĩ là con sắp được vào trang trí lại Nhà trắng đấy".
Khuôn mặt Jan rạng rỡ. "Cha có thực sự nghĩ rằng chúng con sẽ thắng không?"
"Cha đă sai lầm về nhiều chuyện, con gái ạ, nhưng chưa bao giờ cha sai lầm về chính trị. Nó đă ăn vào máu của cha rồi. Tháng Mười một này, chúng ta sẽ có một Tổng thống mới, và người đó đang ngồi cạnh con đấy".


Chương 10

“Xin thắt dây lưng lại.”
“Thế là chúng ta đă lên đường!” Dana vui vẻ nghĩ. Nàng nh́n Benn Alberson và Wally Newman, hai đồng sự của nàng trong chuyến đi này. Benn Alberson, phụ trách sản xuất băng cho Dana, là một người đàn ông râu ria đầy mồm, cực kỳ năng động, khoảng 40 tuổi. Anh đă làm một vài chương tŕnh tin tức được xếp hạng nhất và rất được vị nể. Wally Newman, phụ trách quay camera, mới qua tuổi 50, vừa có tài, vừa rất nhiệt t́nh, luôn hăm hở đón nhận những công việc được giao.
Dana nghĩ về sự mạo hiểm mà họ sắp đối đầu. Họ sẽ hạ cánh xuống Paris rồi bay đi Zagreg, Croatia và cuối cùng là Sarajevo.
Trong tuần cuối ở Washington, Dana đă có một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Shelley McGuire, trưởng ban biên tập phần tin nước ngoài.
“Cô cần có một chiếc xe phát sóng ở Sarajevo để chuyển bài của ḿnh lên vệ tinh.” Mc Guire nói. “Chúng ta không có trạm vệ tinh tại đó nên sẽ phải thuê của công ty Yugoslavi. Nếu mọi việc xuôn sẻ, chúng tôi sẽ gửi một xe đến sau. Sẽ có nhửng cảnh cô phải trực tiếp có mặt ở trận địa đấy. Benn Alberson sẽ nói với cô anh ấy muốn ǵ. Cô sẽ chọn cảnh để quay và sau đó dựng phim, làm tiếng tại một pḥng thu địa phương. Tôi tặng cô hai chuyên gia sản xuất và quay phim giỏi nhất của công ty đấy. Yên tâm, không có chuyện ǵ đâu.”
Dana sẽ nhớ như in những lời nói lạc quan đó.
Mười ngày trước khi Dana lên đường, Matt Baker gọi điện tới và bảo nàng đến văn pḥng gặp ông ta ngay.
“Ḿnh sẽ phải đến đó.” Dana gác máy với một linh cảm kỳ lạ, “ông ta đă thay đổi ư định và sẽ không cho ḿnh đi nữa. Sao ông ấy lại có thể làm thế với ḿnh? Ḿnh sẽ bắn chết ông ta ngay.”
Mười phút sau, Dana bước vào văn pḥng của Matt.
“Tôi biết ông sắp nói ǵ rồi”, nàng phủ đầu, “nhưng như thế là không hay đâu. Tôi sẽ đi! Tôi đă chờ đợi ngày này từ khi c̣n là một đứa trẻ. Tôi hy vọng ḿnh có thể làm được một việc ǵ có ư nghĩa ở đó. Ông đă cho tôi cơ hội để thử thách.” Nàng hít một hơi thật sâu. “ Thôi được, ông muốn nói ǵ đây?”
Matt Baker nh́n nàng và nói với vẻ tŕu mến, “Bon voyage”.
Dana nh́n ông ta một cách ngạc nhiên. “Cái ǵ kia?”
“Bon voyage, tiếng Pháp có nghĩa là chúc chuyến đi tốt lành.”
“Tôi biết nó có ư nghĩa ǵ chứ. Nhưng tôi... không ngờ ông lại chúc tôi...”
“Tôi chúc cô điều đó v́ tôi đă tṛ chuyện với một số phóng viên thường trú ở những nước có hoàn cảnh tương tự. Họ cho tôi một số lời khuyên để tôi chuyển đến cô...”
Dana không tin nổi vào tai ḿnh nữa. Người đàn ông khô khan và thô lỗ này lại chịu mất thời gian và công sức đi hỏi kinh nghiệm của những phóng viên thường trú ở nước ngoài để mách bảo cho nàng ư?
“Tôi... Tôi không biết cám ơn ông...”
“Đừng có làm vậy”, ông nói nhanh, “cô sắp đi vào một nơi chiến sự. Không có nổi 1% đảm bảo là có thể tự bảo vệ được ḿnh, bởi v́ bom đạn th́ không có mắt để tránh những người vô tội. Nhưng khi cô đang ở giữa một khung cảnh ác liệt, lượng adrenaline trong cô sẽ dâng cao. Cô có thể bị kích động, làm những điều ngu ngốc mà cô không bao giờ lường trước được. Cô phải chú ư đến điều này. Đừng lang thang ở những đường phố vắng lặng. Không có một tin tức giật gân nào giá trị bằng mạng sống của cô cả. Một điều nữa là...”
Những lời dặn ḍ kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, ông nói. “Thế đấy, bảo trọng lấy ḿnh. Nếu có rủi ro ǵ xảy ra với cô, tôi sẽkhông thể tự than thứ cho ḿnh được.”
Dana bước đến hôn lên má ông.
“Đừng có làm cái tṛ đó lần nữa đấy”, ông nạt nộ rồi đứng đậy. “Sẽ khốc liệt đấy, Dana ạ. Bất kỳ lúc nào muốn trở về, hăy báo tôi biết, tôi sẽ lo cho.”
“Tôi sẽ không đâu,” Dana nói với vẻ tự tin.
Sau này, nàng mới biết là ḿnh nhầm.
Chuyến bay tới Paris không xảy ra chuyện ǵ. Họ hạ cánh ở sân bay Charles de Gaulle, rồi một chiếc xe nhỏ chở họ đến pḥng chờ của hăng Hàng Không Croatia Airlines, trễ mất 3 tiếng đồng hồ. 10 giờ tối hôm đó, máy bay đáp xuống sân bay Butmir tại Sarajevo. Hành khách được đưa vào khu nhà bảo vệ, nơi họ bị những ngướ gác mặc quân phục kiểm tra hộ chiếu. Khi Dana đi ra gần đến cửa, một người đàn ông lùn tịt vẻ rất khó chịu, mặc đồ dân sự, chặn nàng lại. “Hộ chiếu đâu?”
“Tôi đă tŕnh họ hộ...”
“Tôi là đại tá Gordan Divjak. Hộ chiếu của cô đâu?”
Dana đưa cho ông ta hộ chiếu cùng với tấm thẻ ưu tiên dành cho nhà báo.
Ông nh́n lướt qua. “Nhà Báo hả?” rồi ngửng lên nh́n nàng, cái nh́n sắc như dao cạo. “Cô đứng về phía nào?”
“Tôi chẳng ở bên nào cả”, Dana bật lên tự nhiên.
“Thế th́ ghi chép phải cẩn thận đấy, chúng tôi không nhẹ tay với gián diệp đâu.” Đại tá Gordan Divjak răn đe trước.
ĐÓN CHÀO BẠN ĐẾN SARAJEVO!
Chiếc xe Land Rover lỗ chỗ vết đạn đang chờ họ ở sân bay. Lái xe là một chàng chỉ mới qua tuổi 20 một chút, khá vui tính. “Tôi là Jovan Tolj, tôi sẽ làm tài xế cho các vị ở Sarajevo này.”
Jovan nhấn nút ga, cho xe rẽ vào qua các khúc cua và phi như bay trên những phố vắng như thể đang bị săn đuổi.
“Xin lỗi”, Dana thấy lo lắng, “tại sao chúng ta phải vội vàng thế?”
“Là v́ nếu chị muốn c̣n sống sót để đến khách sạn.”
“Nhưng...”
Đúng lúc đó, Dana nghe thấy những âm thanh rền vang như tiếng sấn từ xa, và có vẻ như đang tiến đến gần.
Tiếng động mà nàng nghe thấy đó không phải là sấm.
Trong bóng tối, Dana vẫn thấy được những ṭa nhà sạt hết mặt tiền, những căn hộ không mái, những nhà hàng không c̣n cửa kính... Nàng đă thấy khách sạn Holiday Inn ở trước mặt. Phía trước khách sạn chỉ c̣n là một đống đổ nát. Một cái hô sâu, đen ś nằn ch́nh ́nh trên đường vào. Chiếc xe lao qua cửa.
“Chờ chút, đây là khách sạn của chúng tôi”, Dana kêu lên, “Anh c̣n phóng đi đâu nữa?”
“Cửa trước nguy hiểm lắn,” Jovan nói. Anh cho xe rẽ vào một con đường nhỏ, “mọi người đều ra vào bằng cửa hậu.”
Môi Dana khô lại. “Ồ, ra thế à?”
Pḥng chính của khách sạn Holiday Inn đầy những người đang túm tụm tṛ chuyện. Một người đàn ông Pháp c̣n trẻ trông khá hấp dẫn, tiến lại phía Dana.
“A, chúng tôi đang chờ chị đây. Chị là Dana Evans, đúng không?”
“Vâng.”
“Tôi là Jean Paul Hubert, phóng viên của M6 Métropole Télévision.”
“Rất vui được gặp anh. Đây là Benn Albertson và Wally Newman.” Mấy người đàn ông bắt tay nhau.
“Chào mừng các bạn đến với những ǵ c̣n sót lại của một thành phố đang nhanh chóng biến mất.”
Những người khác cũng tiến đến chào họ. Từng người một giới thiệu ḿnh.
“Steffan Mueller, phóng viên Kabel Network.”
“Roderick Munn, BBC 2.”
“Marco Benelli, Italia I.”
“Akihiro Ishihara, TV Tokyo.”
“Juan Santos, Kênh 6, Guadalajara.”
“Chun Qian, Truyền H́nh Thượng Hải.”
Dana cảm tưởng như tất cả các nước trên thế giới đều gửi phóng viên của ḿnh đến đây. Màn giới thiệu tưởng như không bao giờ hết. Cuối cùng là một người đàn ông Nga, béo lùn, miệng nở nụ cười, để hởp lấp lánh mấy cái răng vàng.
“Nikolai Petrovich, Gorizont 22.”
“Có bao nhiêu phóng viên ở đây?” Dana hỏi Jean Paul.
“Khoảng hơn 250 người. Không có mấy trận chiến lại tập trung nhiều màu cờ sắc như thế này đâu. Đây là chuyến công tác đầu tiên của chị à?”
Giọng anh ta như kiểu đang b́nh luận về một trận tennis.
“Vâng.”
Jean Paul nói. “Nếu tôi giúp được ǵ th́ cứ cho biết nhé.”
“Cám ơn,” nàng ngập ngừng, “thế cái gă đại tá Gordan Divjak ấy là ai vậy?”
“Chị không cần phải biết làm ǵ. Tất cả chúng tôi đều thấy hắn như một dạng Gestapo của phía Séc, nhưng không chắc lắm. Tôi khuyên chị nên tránh xa con người đó ra.”
“Tôi sẽ nhớ.”
Một lúc sau, khi Dana đă lên giường, bỗng có một tiếng nổ dữ dội ở gần ngay đó, rồi lại một tiếng nữa. Căn pḥng rung lên bần bật. Có cái ǵ đó, như không thể h́nh dung được, nằm ngoài cả phim ảnh. Dana thức cả đêm, nằm nghe tiếng động của những cỗ máy giết người khủng khiếp và nh́n qua cửa sổ những luồng sáng vụt lóe ngang bầu trời.
Buổi sáng, Dana trở dậy, mặc vào người quần ḅ, ủng lính, áo jacket chống đạn. Nàng cảm thấy khá yên tâm, nhưng bỗng có tiếng của Matt vang lên trong đầu, “đừng coi thường những khu phố không người. Không tin tức giật nào bằng mạng sống của cô đâu.”
Dana, Benn và Wally gặp nhau tại pḥng lớn của khách sạn, họ nói chuyện về gia đ́nh. “Tôi quên chưa thông báo cho hai bạn một tin mừng của tôi.” Wally nói. “Tôi sẽ có cháu ngoại vào tháng tới.”
“Thật tuyệt vời.” Dana reo lên, rồi nàng nghĩ, “Không biết ḿnh c̣n sống được đến lúc có con rồi có cháu không nhỉ? Thôi cái ǵ phải đén sẽ đến.”
“Tôi có một ư tưởng đây,” Benn nói, “Chúng ta sẽ làm chương tŕnh đầu tiên về ngay những ǵ xảy ra ở đây, cho thấy cuộc sống của con ngườibị ảnh hưởng như thế nào. Tôi và Wally sẽ đi trinh sát địa điểm để ghi h́nh. C̣n cô th́ đi thuê giờ vệ tinh, được không Dana?”
“Được.”
Jovan đă đợi ở cửa, trong chiếc xe Land Rover, “Doboro Jutro, chúc buổi sáng tốt lành.”
“Xin chào, Jovan, tôi muốn đến nơi người ta cho thuê thời gian sử dụng vệ tinh.”
Xe lăn bánh, lần đầu tiên Dana có thể thoải mái ngắm nghía Sarajevo. Nàng có cảm tưởng rằng thành phố này không c̣n một ngôi nhà nào gọi được là lành lặn. Tiếng súng như không bao giờ ngớt.
“Họ không bao giờ dừng à?” Dana hỏi.
“Họ sẽ dừng khi nào hết đạn.” Jovan nói với vẻ tức giận, “mà họ th́ không bao giờ hết đạn cả.”
Đường phố vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng mới thấy một vài gă đồng tính dập dờ. Tất cả các hiệu cà phê đều đóng cửa. Vỉa hè bị cày xớikỹ kưỡng. Họ đi qua ṭa nhà Oslobodjenje.
Jovan tự hào giới thiệu. “Đây là ṭa báo của chúng tôi, bọn Séc cố phá hủy nó, nhưng không được.”
Vài phút sau, họ đến trung tâm vệ tinh, Jovan nói. “Tôi sẽ đợi chị.”
Đằng sau chiếc bàn đón tiếp ở cửa ra vào là một ông già chừng 80 tuổi. “Ông có nói được tiếng Anh không ạ?” Dana hỏi.
Ông già ngước nh́n nàng, khinh khỉnh. “Tối nói được 9 thứ tiếng, thưa cô, cô cần ǵ và thích nói bằng tiếng nước nào?”
“Tôi là phóng viên của WTE, tôi muốn thuê thời gian sử dụng vệ tinh và thương lượng về...”
“Lên tầng 3.”
Tấm bảng trên cửa viết “Trạm phân phối vệ tinh Yugoslavia.” Pḥng chờ chật người, lố nhố đứng ngồi trên những thanh gỗ dài chống vào tường như ghế.
Dana len vào gặp cô gái trẻ tại bàn đón tiếp. “Tôi là Dana Evans, phóng viên của WTE, tôi muốn thuê thời gian sử dụng vệ tinh.”
“Xin mời chị ngồi, và đợi đến lượt ḿnh.”
Dana nh́n quanh căn pḥng. “Tất cả những người này là đều đến thuê thời gian sử dụng vệ tinh đấy ư?”
Cô gái ngửng lên nh́n Dana, đáp. “Đúng thế đấy.”
Phải đến gần 2 giờ sau Dana mới lê đến được pḥng của người quản lư. Đó là một người đàn ông béo lùn, ph́ phèo điếu x́ gà trên môi, trông rất giống những ông bầu phim ảnh Holywood khoảng giữa thế kỷ. Giọng nói của ông ta nghe rất nặng. “Tôi giúp được cô cái ǵ đây?”
“Tôi là Dana Evans, phóng viên truyền h́nh WTE. Tôi muốn thuê một trong những chiếc xe của ông và đặt trước thời gian để sử dụng vệ tinh, khoảng 30 phút thôi. Vào 6 giờ sáng, giờ ở Washington, liên tục tất cả mọi ngày.” Nàng ḍ xét thái độ của ông ta. “Có vấn đề ǵ không ạ?”
“Một thôi. Không có chiếc xe nào dành cho cô bây giờ cả. Tất cả đều đă được trước rồi. Tôi sẽ gọi điện cho cô nếu có ai hủy.”
Dana như không tin vào tai ḿnh. “Không ư...? Nhưng tôi cần phải truyền về vệ tinh, tôi...”
“Những người khác cũng vậy, thưa cô. Trừ những người đă có xe riêng của họ.”
Dana quay lại pḥng đón tiếp. Nó c̣n đông hơn ban năy, chật kín người.
“Ḿnh phải làm ǵ chứ nhỉ.” Nàng nghĩ.
Ngồi vào xe, Dana nói với Jovan. “Tôi muốn anh đưa tôi đi quanh thành phố.”
Chàng trai quay lại nh́n nàng rồi gật gù. “Nếu chị muốn.”
Chiếc xe lao đi như bay. “Làm ơn đi chậm lại được không, tôi muốn có một chút cảm nhận về nơi này.”
Sarajevo như một thành phố của thời kỳ đồ đá, không có điện, nước và cứ mỗi giờ trôi qua lại có thêm vài ngôi nhà bị bom phá hủy. Tiếng bom đạn thường xuyên đến nỗi người ta không buồn để ư đến nữa. Không khí tang tóc như bao trùm lấy toàn thành phố.
Hầu như góc phố nào cũng có những tốp người; đàn ông, đàn bà, và trẻ con, đủ cả, đang chia nhau nhúm thức ăn ít ỏi c̣n giữ được.
“Họ là những người chạy trốn khỏi Bosnia và Croatia,” Jovan giải thích, “đang cố kiếm lấy ít tiền để mua thức ăn.”
Lữa cháy ở khắp nơi. Không có bóng dáng của bất kỳ người chữa cháy nào.
“Không có đội xe cứu hỏa ở đây à?” Dana hỏi.
Jovan lắc đầu. “Có, nhưng không dám đến. Họ sẽ là những mục tiêu ngon lành đối phương.”
Lúc đầu, Dana cho rằng cuộc chiến Bosnia và Herzegovina cũng có một chút ư nghĩa nào đó. Nhưng chỉ sau một tuần ở Sarajevo, nàng đă nhận thấy rằng nó thật vô nghĩa, cái cuộc chiến tranh tương tàn này. Không ai có thể giải thích được nguyên do. Ai đó đă nhắc tới một giáo sư đại học, vốn là một sử gia nổi tiếng. Ông bị thương và đang nằm diều trị tại nhà. Dana quyết định tới gặp ông ta.
Jovan đưa nàng tới một trong những khu phố lâu đời nhất của thành phố. Giáo sư Mladic Staka người nhỏ bé, tóc đă bạc, vẻ hiểu biết hiện rơ trên gương mặt. Ông bị thương vào sống lưng và phải nằm bất động trên giường.
“Cám ơn cô đến thăm tôi,” ông nói, “những ngày này không mấy ai c̣n nghĩ tới chuyện thăm viếng nhau. Cô nói là cần nói chuyện ǵ với tôi?”
“Vâng, tôi đang làm một chương tŕnh truyền h́nh về cuộc chiến này.” Dana trả lời. “Nhưng để nói lên sự thật, tôi cần phải hiểu nó đă.”
“Lư do rất đơn giản, cô gái ạ. Cuộc chiến này đă là điều không thể hiểu được rồi. Từ hàng thập kỷ nay, người Séc, người Croatia, người Bosnia và Hồi giáo từng sống ḥa b́nh bên nhau, dưới thời Tito. Họ là bạn bè, là hàng xóm của nhau. Họ cùng lớn lên, cùng làm việc, cùng tới trường và lấy nhau.”
“Thế c̣n bây giờ?”
“Những người anh em ấy đang bắn giết nhau. Họ đă làm với nhau những việc mà tôi không thể nói ra được nữa.”
“Tôi có được nghe một vài chuyện,” Dana nói. Những chuyện nàng nghe được đó tưởngnhư không thể tin nổi: những hố chôn người tập thể, những đứa trẻ và bóp cổ, những người dân vô tội bị lùa vào nhà thờ rồi bị thiêu sống. “Bên nào bắt đầu trước?”
Vị giáo sư lắc đầu. “Điều này c̣n tùy thuộc vào việc cô hỏi người nào. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng trăm ngh́n người Séc, ở bên phía Allies, đă bị người Croatia giết, ở phía Nazis. Giờ đây, người Séc đang đ̣i nợ máu. Họ bắt giữ con tin và rất tàn bạo. Hàng trăm bức tường ở Sarajevo đă sập xuống. Ít nhất đă có 10 000 người bị chết và hơn 60 000 bị thương. Những người Bosnia và Hồi giáo cũng phải chịu trách nhiệm v́ họ đă tham gia vào việc tra tấn và bắn giết. Rồi tất cả những người căm ghét chiến tranh cũng buộc phài lao vào cuộc. Người ta không c̣n biết tin vào cái ǵ nữa. Điều duy nhất mà họ c̣n là ḷng hận thù, là những đám lửa lớn đang liên tục cháy, mà nhiên liệu của nó là xác những người dân vô tội.”
Khi Dana quay về khách sạn, chiều hôm đó, Benn Alberson đang chờ nàng, nói rằng họ đă có một chiếc xe phát sóng và thời gian là 6 giờ chiều mai.
“Tôi đă t́m được một chỗ lư tưởng để chúng ta ghi h́nh.” Wally Newman nói. “Đó là khu quảng trường với một nhà thờ Thiên Chúa giáo, một nhà thờ Hồi giáo, một nhà thờ Tin Lành và một giáo đường Do Thái. Tất nhiên, riêng biệt nhau. Tất cả đều đă bị đánh bom. Cô có thể viết rằng ngay cơ bị hủy diệt là như nhau, và đó cũng là điều hoàn toàn có khả năng xảy ra đối với những người dân sống ở đây, những người không hề đón chào chiến tranh nhưng đang phải chịu đựng nó.”
Dana gật đầu, vui mừng “Tuyệt vời. Sẽ gặp lại nhau vào buổi tối. Tôi phải đi làm việc đây,” rồi nàng chạy về pḥng.
Đúng 6 giờ tối hôm sau, Dana, Wally và Benn tụ họp tại quảng trường Benn đă nói đến hôm trước. Wally đặt camera trên chiếc giá 3 chân, c̣n Benn th́ đang đợi tín hiệu nhận từ Washington. Tiếng súng ở đâu đó vẫn dội tới. Dana mừng v́ trên ḿnh đang khoác chiếc áo chống đạn. “Chẳng việc ǵ phải sợ. Họ sẽ không bắn chúng ta. Họ đang bắn nhau cơ mà. Họ cần chúng ta để nói cho thế giới biết về câu chuyện của họ.”
Dana nh́n thấy wally vẫy tay. Nàng hít một hơi thật sâu, nh́n vào ống kính camera, và bắt đầu. “Những ngôi nhà thờ bị trúng bom mà các bạn nh́n thấy ở sau lưng tôi là h́nh ảnh tiêu biểu cho những ǵ đang diễn ra tại đất nước này. Không c̣n một bức tường nào nguyên vẹn để che chở cho con người ở đây, không c̣n một chốn an toàn. Chỉ mới đây thôi, họ c̣n đến xưng tội tại nhà thờ của tôn giáo ḿnh. Nhưng giờ đây, quá khứ, hiện tại và tương lai như đang ḥa quyện vào nhau và...” Đúng lúc đó, Dana nghe thấy tiếng rít của một viên đạn. Nàng ngửng lên và thấy đầu của Wally vỡ ra, loang loáng đỏ, chắc là một thủ thuật của ánh sáng đây mà, nhưng khi nh́n lại, nàng thấy thân h́nh to lớn của ông đổ sập xuống vỉa hè. Dana lạnh toát người, không thể tin vào mặt ḿnh. Tiếng la ầm ĩ vang lên.
Tiếng súng mỗi lúc càng nổ gần hơn và Dana bắt đầu run rẩy như không thể kiểm soát được bản thân. Có những cánh tay túm lấy nàng và đẩy nàng nằm xuống. Nàng giăy dụa, đấm đạp họ, cố gắng giải thoát ḿnh. Không, phải về thôi. Chúng ta không cần phải tốn dù chỉ 10 phút nữa ở đây... Cũng chẳng cần ǵ nữa. Thật là sai lầm khi cứ phải lăng phí sức lực, tinh thần và cả tính mạng nữa ở đây. Đừng mơ nữa, cô bé ngốc nghếch ạ. Những đứa trẻ ở Trung Quốc đang chết đói ḱa. Mày nghĩ mày là Chúa Trời chắc. Này, để ta nói cho mày biết điều này. Mày là một con dở hơi. Một Chúa Trời không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ để cho đầu của Wally vỡ toang ra thế kia. Wally đang chờ đứa cháu ngoại cuả ông ấy ra đời. Mày có nghe thấy ǵ không? Hả? Có nghe thấy ǵ không?
Dana đang trong 1 cú sốc khủng khiếp. Nàng không hề biết rằng ḿnh đă được đưa qua đường để trở lại xe.
Khi mở mắt, nàng thấy ḿnh nằm trên giường. Benn và Jean Paul đang bên.
Dana nh́n họ. “Đă xảy ra rồi phải không?” Nàng nhắm chặt mắt lại.
“Tôi xin lỗi,” Jean Paul nói. “Thật khủng khiếp khi phải tận mắt chứng kiến. Cô thật may mắn v́ đă sống sót.
Chuông điện thoại vang lên. Benn cầm máy. “Xin Chào.” Anh nghe một lát. “Vâng có đây.” Anh quay sang Dana. “Matt Baker đấy. Cô có nói chuyện được với ông ta không?”
“Được,” Dana bước xuống, đi về phía điện thoại. “Xin chào,” cổ họng nàng khô khốc, rất khó phát âm.
Giọng Matt Baker đầy vẻ lo lắng. “Tôi muốn cô về ngay, Dana.”
Tiếng Dana giờ chỉ như những lời th́ thầm. “Vâng tôi muốn về nhà.”
“Tôi sẽ sắp đặt cho cô chuyến bay đầu tiên rời khỏi đó.”
“Xin cám ơn.” Nàng nói rồi đặt máy.
Jean Paul và Benn giúp nàng ngồi xuống giường.
“Tôi xin lỗi,” Jean Paul nói, “mọi người đều không biết nói ǵ...”
Nước mắt trào ra, lăn xuống má Dana. “Tại sao họ lại giết Wally? Ông ấy có bao giờ hại ai đâu. Chuyện ǵ đang xảy ra ở đây? Con người bị bắn giết như súc vật mà không ai quan tâm. Không ai quan tâm!”
Benn nói, “Dana, chúng ta không thể làm ǵ lúc này về việc...”
“Phải có chứ,” giọng Dana chợt trào lên nỗi tức giận. “Cháung ta phải làm cho họ quan tâm. Cuộc chiến này không chỉ phá hủy nhà thờ, phố xá, trường học... mà nó c̣n giết hại bao nhiêu con người, những con người hoàn toàn vô tội. Chúng ta cần phải kể lại câu chuyện này. Đó là cách tố cáo duy nhất để thế giới biết và lên án nó.” Nàng quay về phía Benn và hít một hơi thật sâu. “Tôi sẽ ở lại, Benn ạ. Tôi sẽ không để bất kỳ ai nghĩ rằng tôi chạy trốn.”
Anh nh́n nàng, vẻ lo lắng. “Dana, cô có chắc là ḿnh...”
“Tôi chắc. Tôi biết bây giờ ḿnh phải làm ǵ rồi. Anh có thể gọi điện cho Matt và bảo ông ấy đừng sắp lịch bay cho tôi nữa.”
“Nếu như đó là điều cô thực sự muốn.”
“Đó là điều thực sự tôi muốn.” Nàng nh́n Benn rời khỏi pḥng.
Jean Paul nói. “Có lẽ tôi nên đi để chị...”
“Không,” trong phút chốc, Dana lại nhớ tới cái đầu của Wally vỡ ra đầy máu và thân h́nh ông đổ xuống đất. “Không,” nàng nói, nh́n Jean Paul “làm ơn ở lại, tôi cần có anh.”
Jean Paul ngồi bên giường, và Dana kéo Anh lại gần ḿnh hơn.
Sáng hôm sau, Dana nói với Benn. “Anh có thể kiến được một người quay camera không? Jean Paul nói với tôi về một cô nhi viện ở Kosovo vừa mới bị ném bom. Tôi muốn đến đó làm chương tŕnh.”
“Tôi sẽ cố t́m ra ai đó.”
“Cám ơn anh. Tôi sẽ đến trước và gặp anh ở đó.”
“Cẩn thận đấy.”
“Đừng lo.”
Jovan đợi nàng ở cửa. “Chúng ta sẽ đến Kosovo.” Dana nói với anh chàng lái xe.
Jovan quay hẳn lại nh́n nàng. “Nguy hiểm lắm, thưa cô. Con đường duy nhất đến đó phải qua một cánh rừng và...”
“Chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ rủi ro, Jovan. Sẽ ổn thôi.”
“Nếu cô muốn.”
Họ băng qua thành phố, và khoảng 15 phút sau th́ đến một cánh rừng khá rậm.
“C̣n khoảng bao xa nữa?”
“Không xa nữa đâu. Chúng ta chỉ nên ở đó trong...”
Đúng lúc đó, chiếc Land Rover rơi vào băi ḿn.


Chương 11

Ngày bầu cử càng đến gần, cuộc đua tranh chiếc nghế Tổng thống càng ác liệt.
- Chúng ta thắng ở Ohio rồi - Peter Tager nói , "tại đó chúng ta được 21 phiếu đại biểu.
Tại Alabama cũng ổn, 9 phiếu. Florida, chúng ta được 25 phiếu. ông ta hua hua bảng tổng kết,
Illinois 22 phiếu... New York 38, và Califomia 44 phiếu. Thực ra th́ thế cũng chưa phải là nhiều.."
Mọi người đều lo lắng, trừ Nghị sĩ Davis. "Tôi có một cái mũi thính" - chúng ta sẽ thắng.
Tại bệnh viện Frankfort, Minam Frilandan đang trong t́nh trạng hôn mê.
Vào ngày bầu cừ, thứ ba đầu tiên của tháng Mười một? Leslie ở nhà một mlnh ngồi xem tivi.
Ollver Russell đă kiếm được hơn hai triệu phiếu thường và đa số phiếu đại biểu. Anh ta đă trở thành Tổng thống của nước Mỹ. một trong những con người quyền lực nhất trên thế giới.
Không ai theo dơi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng kỳ này sát sao hơn Leslie Stewart Chambers. Mặc dù nàng luôn bận rộn với việc xây dựng đế chế của ḿnh và liên tục mua bán nhứng tờ báo mới, những trạm truyền h́nh, phát thanh trên khắp nước Mỹ, cũng như cả nước Anh, hay châu á và brazil..
- lúc nào th́ bà mới thấy là đủ ? - Tổng biên tập của nàng, bà Daml Solana hỏi.
- "Sắp rồi, sắp rồi mà". 
Chỉ c̣n một bước nữa mà nàng phải đi: và cái bước cuối cùng đó đă đến với nàng vào một bữa tiệc tối ở Scottsdale.
Một vị khách nói.
- "Tôi nghe nói margaretportman sắp li dị.
Margaret là chủ của Tập đoàn Viễn thông Washington Tribune.
Leslie không nói ǵ vào lúc đó, nhưng sang hôm sau, nàng gọi điện cho Chad Morton, một trong những luật sư của ḿnh.
- "Tôi muốn anh tim hiểu xem có đúng là Washington Tribune đang rao bán không ?.
Câu trả lời đến ngay vào ngay hôm sau
- "Tôi không hiểu tại sao bà biết tin này, bà Chambers, nhưng có vẻ như bà nói đúng đấỵ Bà Portman và chồng vừa li dị trong im lặng. HỌ đang chia tài sản. Tôi nghĩ là Tribune sắp bị rao bán đấy".
- "Tôi muốn mua nó".
Bà đang nói đến một vụ động trời đấỵ Tập đoàn WTE này không chỉ bao gồm một hệ thống báo và tạp chi mà c̣n cả một đài truyền h́nh liên mạng, và...".
- "Tôi vẫn muốn mua".
Buổi chiều hôm đó, Leslie và Chad Morton lên đường đến Washington, D.C.
Leslie gọi điện cho Margaret Portman, người mà nàng đă giao thiệp từ mấy năm naỵ
- "Tôi đang ở Washington", Leslie nói, "và tôi..".
- Tôi biết.
đúng là bức vách có tai, Leslie nghĩ.
- "Tôi nghe nói chị có ư định bán Tribune.?
- có thể.
- Không biết liệu chị có ư định gạt lại phần báo chí cho tôi không ?".
- Cô quan tâm đển việc này hả, Leslie ?".
- CÓ thể. .
Margaret hỏi Matt Baker.
- Anh có biết ǵ về Leslie Chambers không ?.
- "Nàng công chúa tuyết đấy".
- CÔ ấy sẽ đến đây trong vài phút nữa. Tôi muốn anh đưa cô ấy đi xem phần báo chí".
Tất cả mọi người trong Tribune đă biết là Tập đoàn của họ sắp bị bán.
- Thật là sai lầm nếu bán Trlbune cho Leslie Chambers".
Matt Baker kêu lên.
- Tại sao anh lại nói thế ?".
- đầu tiên, tôi không chắc là bà ta có hiểu biết ǵ về việc kinh doanh báo chí. Bà có biết Leslie Chambes đă làm ǵ với những tờ báo đầy uy tín mà bà ta mua về không ? Biến chúng thành những tờ lá cải rẻ tiền. Bà ta sẽ huỷ diệt Tribune. Bà ta sẽ...",
ông dừng lại. Leshe Chambers đang đứng ở cửa, im lặng.
Margaret xởi lởi
- Ô Leslie, được gặp cô tôi vui quá
- đây là Matt Baker, Tổng biên tập của Tnbune.
HỌ chào nhau bằng cái nh́n lạnh giá.
- "Matt sê đưa cô đi xem một ṿng".
- Tôi cũng đang chờ việc đó.
Matt Baker thở dài . "Thôi được, chúng ta đi nào".
MỞ đầu cho chuyến thăm thú, Matt Baker lạnh lùng giới thiệu
- "Cấu trúc của chúng tôi như thế này: cao nhất là Tổng biên tập...".
- Là ông đấy phải không, ông Baker ?".
- Phảị Dưới tôi là hai người phụ trách, một về kinh doanh và một về nhân sự. dưới nữa lả các Trưởng Ban biên tập về các mục như : Thể Thao, Văn Hóa, Cuộc Sống, Kinh doanh. Du Lịch , v..vv... Tôi đă bớt đi một số mục không cần thiết lắm".
"Tuyệt vời quá. Thế WTE này có bao nhiêu nhân viên ?".
Khoảng trên năm ngh́n".
HỌ đi qua một bàn làm việc.
- đấy là nơi các tin tức được tŕnh bày lên báo. Ngươi kia phụ trách việc đặt tranh ảnh như thế nào cho phù hơp và tin nào sẽ lên trang nào. Ban này làm việc viết tựa đề cho các tin.
- Hay quá.
- Bà có muốn xem qua xưởng in không ?
- ồ có chứ, tôi muốn xem tất cả.
Matt cảm thấy đăng đắng trong cổ họng. "Tôi xin lỗi !".
- Tôi nói là tôi muốn xem.
HỌ đi thang máy xuống và đến một toà nhà khác. Xưởng in tổng thể chừng bằng khoảng bốn cái sân bóng đá. Tất cả mọi thứ trong khoảng không vĩ đại này đều được tự động hoá. CÓ 30 ró-bót đang làm việc. chúng vác những cuộn giấy to tướng và xếp vào những trạm quanh đó.
Baker giải thich.
- Mỗi một cuộn giấy này nặng khoảng 2 tấn. Nếu trải ra, nó dài khoảng tám dặm. Những cuộn giấy này được đưa vào máy in với vận tốc khoảng 21 dặm một giờ. Một con ró-bót lớn có thể mang được mười sáu cuộn một lúc.
Có SÁU máy in ở đó; mỗi bên ba cáị Leslie và Matt Baker đứng ở giữa, nh́n những tờ báo tuồn từ trong máy in ra, được cắt, được đóng vào với nhau, được bó lại rồi được bỏ vào những cái thùng và cuối cùng là được chuyển tớ́ các xe tải đang chờ để chở chúng đi.
- Trước kia, chúng tôi phải dùng tới ba mươi người để làm những việc mà bây giờ chỉ cần một ngựi làm". Matt nói. "Thờí đại của công nghệ mà".
Leslie nh́n ông một lúc.
- Thời đại của hậu quả công nghệ.
- Tôi không biết bà có thực sự quan tâm đến t́nh h́nh kinh tế của công nghiệp báo chí không?"
Matt Baker hỏi một cách khô khan.
- có thể bà đă nghe luật sư hay kế toán của bà nói...".
- Tôi thực sự quan tâm, thưa ông Baker. Ngân sách in ấn của tờ báo này là 15 tnệu đô la. Lượng ấn bản hàng ngày của các ông là 816 ngàn, 474 ngàn, 1 triệu, 140 ngàn, 498 ngàn vào chủ nhật, và lượng quảng cáo của các ông là 68,2 phần trăm".
Matt nh́n nàng ngạc nhiên.
- Nếu tính cả việc sở hữu toàn bộ dây chuyền báo chí, th́ lượng ấn bản của các ông mỗi ngày là trên hai triệu, và hai triệu tư vào chủ nhật.
- Tất nhiên, Tribune chưa phải là tờ báo lớn nhất thế giới, phải không ông Baker ? Hai tờ chiếm giữ vị trí đó đều được in tại London. Tờ Sun, với lượng ấn bản một ngày là bốn triệu. TỜ Daily Mirror, hơn ba triệu.
Matt ngỡ ngàng, ông hít một hơi thật sâu
- Tôi xin lỗi, tôi không ngờ là bà.....
Tại Nhật Bản có trên 200 tờ nhật báo ra mỗi ngày, bao gồm Asahi Shimbun, Mainchi Shimbun, và Yomiun Shimbun, ông có nghe tôi nói không, ông Baker ?".
- có thưa bà, tôi xin lỗi v́ đă có thái độ không thiện chí.
- đồng ư, ông Baker, bây giờ chúng ta quay lại với bà Margaret Portman chứ ?.
Buổi sáng hôm sau, Leslie đối mặt với Margaret Portman và khoảng nửa tá luật sư trong pḥng họp của Tribune.
- Nào, chúng ta sẽ bàn về vấn đề giá cả.
Leslie nói. Cuộc thảo luận diễn ra trong khoảng bốn tiếng, cuối cùng, Leslie đă là chủ mới của WTE.
Tập đoàn này đắt hơn là nàng nghĩ. Nhưng đó chẳng phải là vấn đề.
C̣n có những điều quan trọng hơn thế.
Sau hôm đó, Leslie cho gọi Matt Baker lên pḥng làm việc của nàng. 
- ông có dự định ǵ không ?- Nàng hỏi.
- Tôi sẽ đi.
Nàng nh́n ông một cách ṭ ṃ. "Tại sao ?".
- Bà cũng có chút tai tiếng đấỵ Người ta không thich làm việc cho bà, người ta nói bà thường biến những tờ báo có uy tín thành những tờ lá cải chỉ đăng tin chó cán xe !
- ông làm việc ở đây đă bao lâu rồi ?.
- Mười lăm năm.
- và bây giờ ông sẵn sàng vứt bỏ tất cả ư ?.
- Tôi không vứt bỏ cái ǵ hết. Chỉ là....
- Nghe tôi nói đâỵ Tôi cũng nghĩ Tribune là một tờ báo tốt, nhưng tôi c̣n muốn nó thành một tờ báo vĩ đại cơ. ông có thể giúp tôi được không?
- Không, tôi không thể...
- Sáu tháng. Hăy thử làm việc ở đây với tôi trong sáu tháng. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc tăng lương ông lên gấp đôi hiện nay.
Matt nh́n nàng một lúc lâu. Trẻ trung. xinh đẹp và thông minh. Nhưng... ông vẫn có cảm giác là không thích nàng.
- ..Thế ai sẽ lănh đạo ở đây ?".
Leslie mỉm cườị
- ông từng là Tổng biên tập của Tribune, bây giờ cũng vẫn vậy thôi.
Và ông tin nàng.

Chương 12

Đă sáu tháng trôi qua kể từ ngày chiếc Land Rover của Dana bị rơi vào băi ḿn. Thật là một cú nhớ đờị Nàng thoát chết và không bị ǵ nặng hơn ngoài một chiếc xương sườn găy, cổ tay sai khớp, những vết bầm tím và một chút chấn động. Jovan bị găy một chân, bị rách vài chỗ không nặng lắm và cũng đầy những vết bầm tím. Matt Baker gọi điện cho Dana ngay đêm hôm đó và ra lệnh cho nàng lập tức quay về Washington. Nhưng tai nạn này khiến Dana quyết tâm ở lại hơn giờ hết. "Mọi người ở đây đang thất vọng", nàng nói với ông, "tôi không thể chạy trốn như thế được. Nếu ông buộc tôi phải về, th́ sau đó tôi cũng bỏ việc".
"Cô ra điều kiện với tôi đấy hẳn?".
"Phải".
"Thế th́ để tôi cho cô biết điều này nhé. Tôi chưa từng để ai ra điều kiện với tôi đâu, cô hiểu không?".
Dana không nói ǵ.
"Cô nghĩ thế nào nếu tôi cho cô một cái giấy phép vắng mặt?"
"Tôi không cần cái giấy đó", nàng nghe tiếng ông thở dài trong máỵ
"Thôi được, cứ ở đó, Dana, nhưng...".
"Vâng?"
"Hứa với tôi là cô sẽ cẩn thận".
Từ cửa sổ khách sạn, Dana có thể nghe thấy tiếng nhạc của những cỗ máy chết chóc, nàng nóị "Vâng, tôi hứa".
Suốt đêm đó, thành phố phải chịu một cuộc tấn công khủng khiếp. Dana không tài nào ngủ được. Mỗi một tiếng pháo nổ có nghĩa là một ngôi nhà sập xuống, là một gia đ́nh tan nát, kẻ mất người c̣n...
Sáng sớm hôm sau, Dana cùng nhóm của ḿnh xuống đường, sẵn sàng lên h́nh. Benn chờ cho tiếng pháo và súng bớt đi, gật đầu với Danạ "Mười giây nữa".
"Sẵn sàng", nàng nóị
Benn nhấn nút, Dana quay nh́n đống đổ nát sau lưng rồi đối mặt với camerạ
"Đây là một thành phố đang dần biến mất khỏi mặt đất. Không có điện, thành phố này không c̣n con mắt... Các trạm truyền h́nh và phát thanh bị đóng cửa, thành phố này mất tai... Toàn bộ hệ thống giao thông công cộng không c̣n nữa, thế là nó mất nốt chân...".
ống kính camera chuyển dịch theo lời nàng nóị C̣n nguyên vẹn dấu vết đổ nát, và mới tinh khôị
"Và ở một cuộc sống khác, bọn trẻ vẫn chơi đùa, tiếng cười hồn nhiên của chúng vẫn vang lên".
Tiếng pháo kích nghe có vẻ gần hơn. C̣i báo động đột nhiên rú lên. Những người qua lại trên đường phố phía sau Dana vẫn cắm cúi đi như chẳng hề nghe thấy ǵ.
"âm thanh mà các bạn vừa nghe thấy là c̣i báo động báo cho người ta phải chạy đi t́m chỗ trú ẩn. Nhưng những người dân của thành phố Sarajevo này không c̣n t́m nổi chỗ nào khả dĩ an toàn nữa, nên họ đành cứ tiếp tục đi trong im lặng. Những người có thể, đă chạy trốn khỏi đất nước của ḿnh, từ bỏ nhà cửa và tài sản. Những người ở lại th́ chết dần. Một sự lựa chọn đau ḷng. Cũng có phong phanh những lời đồn đại về hoà b́nh. Có quá nhiều lời đồn nhưng lại có quá ít hoà b́nh. Liệu hoà b́nh có thật sự đến đây không? Và nếu đến th́ khi nàỏ Liệu trẻ em có được ra khỏi hầm để lên mặt đất chơi đùa không? Không ai biết được câu trả lờị Họ chỉ có thể hy vọng. Đây là Dan Evans, chương tŕnh làm từ Sarajevo cho WTE".
Nút đỏ trên camera tắt.
"Chúng ta đi khỏi đây thôi", Benn nóị
Anday Casarez, người quay camera mới của họ vội vàng thu xếp đồ nghề.
Một cậu bé đứng ở bên kia đường nh́n Dana chằm chằm. Cậu mặc bộ quần áo rách rưới và đi đôi giầy há mơm. Đôi mắt nâu rất sáng trên khuôn mặt nhem nhuốc. Cánh tay phải của cậu bé không c̣n nữạ
Dana thấy cậu bé cứ chăm chú nh́n ḿnh, bèn mỉm cười chàọ "Xin chào".
Không có câu trả lờị Dana quay lại phía Benn. "Chúng ta đi thôi".
Một vài phút sau, họ đă lên đường trở về khách sạn Holyday Inn.
Khách sạn đầy chật nhà báo của các hăng thông tấn, phát thanh và truyền h́nh ở khắp quốc gia trên thế giới hội tụ lại và tạo nên một gia đ́nh lớn. Họ ở những nước đối lập nhau về mặt chính trị, nhưng trong hoàn cảnh nguy hiểm này, họ cùng chia sẻ với nhau mọi thứ và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhaụ Họ cùng viết những bài về chiến sự xảy rạ
Có một trận pháo kích ở Motenegrọ..
Có một trận đánh bom ở Vukovar...
Một bệnh viện ở Petrovo Selo bị phá huỷ...
Jean Paul đă ra đị Anh phải thuyên chuyển tới một nơi khác và Dana nhớ anh đến se sắt.
Một buổi sáng, khi Dana rời khách sạn, cậu bé hôm nọ nàng nh́n thấy đang đứng ở bên đường. Jovan mở cửa chiếc xe Land Rover mới cho Danạ "Xin chào chị".
"Xin chào", cậu bé vẫn đứng đó, nh́n như dán vào Danạ Nàng lại gần cậu bé, "xin chào".
Vẫn không có câu trả lờị Dana quay sang hỏi Jovan. "Nói xin chào bằng ngôn ngữ ở đây như thế nàỏ"
Cậu bé con đáp luôn, "Dobro, Jutro".
Dana quay lại cậu tạ "Vậy là cháu hiểu tiếng Anh?"
"Có thể".
"Thế tên cháu là ǵ?".
"Kemal".
"Cháu bao nhiêu tuổi hả Kemal?"
Cậu bé chạy biến đị
"Chắc nó sợ người lạ", Jovan nóị
Dana nh́n theo cậu bé, "Tôi không trách nó. V́ đúng tôi là người lạ".
Bốn tiếng sau, khi chiếc Land Rover quay lại khách sạn. Kemal đang đứng đợi họ ở lối ra vàọ
Chờ Dana ra khỏi xe, cậu nói, "Mười hai".
"Cái ǵ cơ?" Rồi nàng sực nhớ ra, "ồ". Cậu bé hơi c̣i so với tuổị Nàng nh́n bên tay phải không c̣n nữa của cậu bé và định hỏi, nhưng kịp dừng lạị "Cháu sống ở đâu, Kemal? Cô đưa cháu về nhà nhé". Cậu bé lại bỏ chạỵ
Jovan nóị "Thằng bé này đúng là không được dạy dỗ".
Dana nói nhỏ, :"Có thể điều đó đă mất đi cùng với cánh tay nó!"
Buổi tối hôm đó, tại pḥng ăn tối của khách sạn, các phóng viên bàn tán về tin đồn một lệnh ngừng bắn. "Cuối cùng th́ Liên hiệp quốc cũng tham gia vào", Gabrella Orsi nóị
"Vừa đúng lúc đấy".
"Nếu mà anh hỏi tôi, th́ là quá muộn rồi".
"Không bao giờ là quá muộn cả". Dana nói nhỏ.
Buổi sáng hôm sau, có hai thông tin đến theo đường điện báọ Tin thứ nhất nói về một thoả ước hoà b́nh của hai bên có sự chứng kiến của Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc. Tin thứ hai thông báo rằng, Oslobodjenje, tờ báo của Sarajevo, đă trúng bom và bị xoá sổ khỏi mặt đất. "Các tờ báo ở Washington đang hả hê với tin thoả ước hoà b́nh, vậy th́ chúng ta sẽ làm chương tŕnh Oslobodjenje". Dana nói với Benn.
Dana đứng trước một đống đổ nát, nơi đă từng là trụ sở của Oslobodjenjẹ Nút đỏ trên camera loé sáng.
"Không ngày nào là không có người chết", Dana nh́n thẳng vào ống kính, "và không có nhà cửa bị phá huỷ". Như toà nhà này, nó vừa bị ném bom ngày hôm quạ Đây là trụ sở của tờ báo tự do duy nhất tại Sarajevo, tờ Oslobodjenje, một tờ báo dám nói lên sự thật. Từ khi thành phố rơi vào cuộc chiến tàn khốc này, người ta phải chuyển tờ báo xuống tầng hầm, để giữ cho nó được sống. Khi không c̣n cửa hàng để bán báo, chính các phóng viên phải đi ra đường và bán từng tờ báo cho những người qua lạị Họ bán được một thứ lớn hơn tờ báo đó là tự dọ Với cái chết của Oslobodjenje, một mảnh của tự do đă chết ở đâỵ
Trong văn pḥng của ḿnh, Matt Baker đang xem chương tŕnh của Danạ
"Mẹ kiếp, c̣n nhỏ khá quá". Ông quay sang viên trợ lư. "Tôi muốn cô ấy phải có một xe phát vệ tinh riêng. Anh lo vụ đó đi".
"Vâng, thưa ông".
Khi Dana về đến pḥng riêng, một vị khách đă ngồi sẵn sàng đợi nàng. Đại tá Gordan Divjak.
Dana dừng lại bất ngờ. "Không ai báo cho biết là tôi có khách".
"Đây không phải là một chuyến thăm viếng thông thường", con mắt đen của gă chiếu thẳng vào nàng. "Tôi xem chương tŕnh của cô về Oslobodjenje".
Dana nh́n gă. "Vâng".
"Cô được phép vào đất nước của chúng tôi để làm báo, chứ không phải đưa ra nhận định".
"Tôi có đưa rạ..".
"Đừng có ngắt lời tôị ư tưởng về tự do của các người không cần thiết cho bọn nàỵ Cô có hiểu không?"
"Không, e là tôị.."
"Thế th́ để tôi giải thích cho cô nhé, cô Evans. Cô là một vị khách ở đất nước tôị Cũng có thể là điệp viên của chính phủ cô".
"Tôi không phải là...".
"Đừng có ngắt lời tôị Tôi đă cảnh cáo cô ở sân bay rồị Chúng tôi không phải đang chơi đùa đâu nhé. Chúng tôi đang chiến đấụ Bất kỳ ai là gián điệp cũng bị xử tử. "Từng lời của gă lạnh như băng giá".
Gă gườm gườm nh́n nàng rồi đứng dậỵ "Đầy là lần cảnh cáo cuối cùng".
Dana nh́n gă đi rạ Ḿnh sẽ không để hắn doạ ḿnh, nàng nghĩ quả quyết như vậỵ
Nhưng thực sự là nàng sợ.
Matt Baker gửi cho Dana một gói bưu phẩm. Đó là một hộp to khủng khiếp đầy kẹo, sôcôla thanh, bánh bích quy và nhiều thứ đồ ăn linh tinh khác. Dana mang cho cả xuống pḥng lớn của khách sạn và chia cho các phóng viên khác. Tất cả đều vui vẻ.
"Sếp thế mới gọi là sếp chứ", Santomi Asaka nóị
"Này, làm thế nào để tôi cũng kiếm được việc ǵ đó ở Tribune nhỉ?" Juan Santos đùạ
Kemal lại đợi họ ở lối ra vàọ Chiếc áo jaket rách mà cậu mặc đă tả tơi đến mức người ta có cảm giác như nó sắp rời ra từng mảnh...
"Xin chào, Kemal".
Cậu bé đứng đó, không nói ǵ, nh́n nàng dưới chiếc mũ phớt đă mất chỏm, gần như che sụp xuống mặt.
"Cô sắp đi chợ đây, cháu có muốn đi với cô không?"
Không có câu trả lờị
"Để tôi thử cách khác nhé, Dana nói với Jovan, nàng mở cửa sau của chiếc xe và nói, vẻ mời mọc. "Nào, cháu vào xe đi".
Cậu bé đứng lặng đi, vẻ ngạc nhiên, rồi chậm chạp tiến lại gần.
Dana và Jovan nh́n cậu chui vào ghế saụ
Dana nói với Jovan. "Anh có biết cửa hàng quần áo nào c̣n mở không?".
"Tôi biết một chỗ".
"Đi đến đó". Họ ngồi im lặng trong một vài phút đầụ
"Cháu có mẹ hay cha không, Kemal?"
Cậu bé lắc đầụ
"Thế cháu sống ở đâủ".
Cậu bé nấc lên.
Và rồi Dana thấy cậu ngồi sát vào hơn như để cảm nhận hơi ấm từ thân thể nàng.
Cửa hàng bán quần áo nằm ở Bascarrsija, nơi từng là khu chợ sầm uất của Sarajevọ Mặt tiền đă bị trúng bom, nhưng cửa hàng vẫn phục vụ khách. Dana nắm lấy cánh tay trái Kemal và dần nó vào trong cửa hàng/
Người bán hàng ra đón họ.
"Tôi có thể giúp ǵ được đâỷ"
"Vâng, tôi muốn mua một chiếc áo jaket cho cậu nhỏ của tôi". Nàng nh́n Kemal. "Phải vừa mới cỡ cậu ấy".
"Xin mời theo lối này".
Khu bán quần áo cho trẻ em bay la liệt các loại jaket. Dana quay lại hỏị "Cháu thích cái nàỏ"
Kemal đứng im, không đáp. Nàng nói với người bán hàng. "Lấy cho chúng tôi cái màu nâu", và rồi nàng nh́n xuống quần của Kemal. "Chúng tôi muốn mua hai cái quần và một đôi giầy nữa".
Họ rời khỏi cửa hàng khoảng một giờ sau, Kemal đă mặc bộ quần áọ Nó ngồi vào ghế sau xe và vẫn không nói một lờị
"Mày không biết mở mồm nói lời cảm ơn à?" Jovan giận dữ mắng.
Cậu bé oà khóc. Dana choàng tay qua người nó. "Thôi mà, ổn rồi, ổn rồi mà". Hăy xem cuộc chiến này đă làm ǵ với những đứa trẻ.
Khi họ quay về khách sạn. Dana nh́n theo Kemal ra khỏi xe và chạy biến đi, không nói một lờị
"Không biết những đứa trẻ như vậy th́ sống ở đâu nhỉ? Nàng hỏi Jovan.
"Trên đường phố, chị ạ. Có hàng trăm những đứa trẻ mồ côi như nó ở cái thành phố Sarajevo nàỵ Chúng không có gia đ́nh, nhà cửạ..".
"Làm thế nào mà chúng sống được?".
Anh ta nhún vaị "Tôi không biết".
Ngày hôm sau, khi Dana ra khỏi khách sạn, Kemal đă đứng đợi ở cửa, mặc bộ đồ nàng mua cho hôm qua, và đă rửa mặt.
Tin về hiệp ước hoà b́nh đă đến vào giờ ăn trưa hôm đó. Dana quyết định lại tới thăm giáo sư Mladic Staka và hỏi xem ông nghĩ ǵ về chuyện nàỵ
Trông giáo sư c̣n tiều tuỵ hơn cả lần trước.
"Tôi rất vui được gặp lại cô, cô Evans ạ. Tôi nghe nói cô làm được một số chương tŕnh rất tuyệt, nhưng..." ông ngừng lại ấp úng, "rất tiếc là nhà tôi lại không có điện thoại để bật ti vị Tôi có thể giúp được việc ǵ đâỷ"
"Tôi muốn biết ư kiến của giáo sư về hiệp ước hoà b́nh mới đây, thưa giáo sư".
Ông ta ngả người vào lưng ghế và chậm răi nói: "Tôi thấy thật thú vị khi ở những nơi như Dayton, Ohio, người ta lại ra được một quyết định liên quan đến tương lai của Sarajevo này".
"Họ sẽ thống nhất trên cơ sở tay ba, một cuộc họp của ba vị lănh tụ, bao gồm lănh tụ của người hồi giáo, người Croatia, và người Serbiẹ Giáo sư nghĩ ǵ về chuyện nàỷ"
"Chỉ khi nào cô tin vào điều kỳ diệu mà thôi", ông cau mày, "sẽ có một chính thể quốc gia với 18 vị thủ lĩnh và 109 chính quyền địa phương nữạ Đó là thứ mà người ta gọi là tháp Balel chính trị. C̣n người Mỹ th́ gọi đó là hôn nhân gượng ép đấỵ Không ai trong số họ muốn rời bỏ quyền tự trị của ḿnh. Họ sẽ tạo ra quốc kỳ riêng, tiền tệ riêng, và luật pháp riêng". Ông lắc đầụ "Một kiểu sáng hoà b́nh, chiều chiến tranh thôi".
Dana Evans không c̣n làm phóng viên vô danh tiểu tốt nữa mà trở thành một huyền thoại quốc tế. Những chương tŕnh truyền h́nh của nàng chất chứa niềm yêu quư nhân loại sâu sắc. Và bởi v́ Dana quan tâm, nên những khán giả của nàng cũng quan tâm, và chia sẻ cùng nàng những t́nh cảm nóng bỏng.
Matt Baker bắt đầu nhận được điện thoại của những hăng truyền thông khác xin được phát chương tŕnh của Danạ Ôngthấy hănh diện thay cho nàng. Con bé bắt đầu làm việc cần mẫn và bây giờ là làm việc tốt.
Với chiếc xe truyền vệ tinh riêng. Dana bận rộn hơn bao giờ. Nàng không c̣n phải chịu sự kiểm soát của công ty vệ tinh Yogoslavie nữạ Dana và Benn cùng quyết định sẽ làm chương tŕnh ǵ mà họ muốn. Một số chương tŕnh họ làm ngay tại hiện trường, và một số khác họ thu sẵn vào băng. Dana, Benn len lỏi khắp phố xá và quay phim chụp ảnh bất kỳ cái ǵ mà họ cần, rồi Dana sẽ thu lời b́nh luận của nàng trong một pḥng thu địa phương, sau đó gửi chúng về Washington.
Vào giờ ăn trưa, tại pḥng ăn của khách sạn, có rất nhiều đĩa lớn đựng bánh xăng-đuưch đặt ở giữa bàn. Các phóng viên đều tự phục vụ lấỵ Roderick Munn phóng viên đài BBC bước vào pḥng ăn, tay vung vẩy một mảnh bảo AP bị cắt rạ "Mọi người nghe đây", anh gào to, "Dana Evans, phóng viên thường trú của WTE, giờ đây đang được phát chương tŕnh của ḿnh trên khoảng một tá các đài truyền h́nh. Và Evans c̣n được chỉ định nhận giải thưởng V́ hoà b́nh...".
Lời b́nh luận nổi lên theo đó. "Chúng ḿnh thật may mắn v́ được làm việc cùng với một người nổi tiếng như vậy". Một phóng viên nói, vẻ hoan hỉ.
Đúng lúc đó, Dana bước vào pḥng ăn. "Xin chào mọi ngườ. Tôi không có thời gian ăn trưa cùng các vị hôm naỵ Tôi sẽ lấy theo vài cái bánh xăng-đuưch". Nàng lấy khá nhiều bánh và gói chúng lại bằng giấy bạc. "Gặp lại mọi người sau nhé". Họ im lặng nh́n nàng đi rạ
Kemal đang đợi nàng.
"Xin chào, Kemal".
Không trả lời
"Cháu vào xe đi".
Kemal ngồi vào ghế saụ Dana đưa cho cậu bé chiếc bánh và im lặng nh́n cậu nhai nghiến ngấụ Nàng đưa thêm chiếc nữa, cậu bé tiếp tục gần như nuốt chửng nó.
"Cháu ăn chầm chậm thôi", Dana nóị
"Đi đâu đây chị?" Jovan hỏị
Dana quay lại Kemal. "Đi đâu đâỷ". Nó ngước lên nh́n nàng tỏ vẻ không hiểụ "Cô sẽ đưa cháu về nhà, Kemal ạ. Cháu sống ở đâủ".
Nó lắc đầụ
"Cô muốn biết là cháu ở đâu".
Hai mươi phút sau đó, chiếc xe dừng lại trước một băi trống gần nhà Mijackạ Khoảng một tá những cái lều được dựng bằng giấy bồi và chặn bằng đủ loại gạch vỡ xung quanh.
Dana ra khỏi xe và quay về phía Kemal. "Đây là nơi cháu sống saỏ".
Cậu bé miễn cưỡng gật đầụ
"Và cả những bạn khác cũng vậy, đúng không?"
Nó lại gật đầụ
"Cô muốn quay những cảnh này, Keml ạ".
Nó lắc đầu, "Không".
"Tại sao không?"
"Bọn cớm sẽ đến và đuổi chúng cháu đi mất. Cô đừng làm như thế".
Dana nh́n cậu bé một lúc, "Thôi được, cô hứa là không".
Sáng hôm sau, Dana chuyển đi khỏi khách sạn Holyday Inn. Khi không thấy nàng xuất hiện ở bữa ăn sáng, Gabriella Orsi từ đài phát thanh Altre Station của Italia hỏi, "Dâ đâu nhỉ?"
Roderick Munn trả lờị "Cô ấy đi rồị Thuê nhà dân để ở. Cô ấy bảo thích ở một ḿnh".
Nikolai Ptrovich, phóng viên đài Gorizont của Nga nóị "Tất cả chúng ta đều thích ở một ḿnh. Thế là không đủ tử tế với cô ta saỏ"
Có cảm giác chúng là không hài ḷng.
Chiều hôm đó, lạic có một gói bưu phẩm lớn gửi cho Danạ Nikolai Petrovich nóị "Cô ta không có ở đâỵ Chúng ḿnh cứ chia nhau dùng chứ nhỉ?"
Nhân viên giữ đồ của khách sạn từ chốị "Tôi xin lỗị Cô Evans sẽ cho người đến nhận".
Mấy phút sau, Kemal đến. Các phóng viên nh́n cậu nhận gói đồ rồi đi luôn. "Cô ấy không chia cho chúng ta nữa đâu". Joan Santos lầm bầm. "Tôi cho là cô ấy đă trở nên kiêu ngạo mất rồi".
Trong tuần tiếp theo đó, Dana vẫn có chương tŕnh phát trên truyền h́nh, nhưng nàng không hề xuất hiện tại khách sạn nữạ Những lời bàn tán không hay về nàng ngày càng nhiềụ
Dana và chú bạn nhỏ của nàng đă trở thành đề tài chủ yếu cho những cuộc đối thoạị Sau đó mấy ngày, một gói bưu phẩm to tướng, như mọi lần lại đến khách sạn. Nicolai Petrovich hỏi nhân viên giữ đồ. "Cô Evans có cho người đến lấy nó bây giờ không?"
"Có thưa ông".
Vị người Nga vội vàng quay vào pḥng ăn. "Lại một gói bưu phẩm nữa đến rồi". Ông ta nói, "ai đó sẽ đến lấỵ Tại sao chúng ta không đi theo người đó và nói với Evans tất cả những ǵ chúng ta nghĩ về cô ấy". Mọi người đều đồng ư.
Khi Kemal đến lấy gói đồ, Nicolai nói với cậu bé. "Cháu đem đến cho cô Evans à?".
Kemal gật đầụ
"Evans muốn gặp chúng tôi, cháu dẫn chúng tôi đến chỗ cô ấy nhé?" Kemal nh́n ông ta một lúc rồi nhún vaị
"Chúng tôi sẽ có xe đưa cháu đi, cháu chỉ đường cho chúng tôi nhé?".
Mấy phút sau, một đoàn ô tô lên đường. Khi ra đến ngoại thành, Kemal chỉ một khu trang trại đă bị đánh bom. Đoàn xe dừng lạị
"Cháu hăy đi trước và đưa cho cô ấy cái gói này, Nicolai nói, "chúng ta sẽ cùng làm cho cô ấy ngạc nhiên".
Họ nh́n Kemal đi vào khu trang trại đổ nát. Họ chờ một chút rồi đi theo và đẩy cửa rạ Tất cả dừng lại v́ quá bất ngờ. Căn pḥng đầy chật những đứa trẻ với nhiều lứa tuổi, màu dạ Đa phần chúng đều bị tàn tật, thương vong, què hoặc cụt. Khoảng hơn ba chục cái vơng nhà binh được chăng ngang tường. Dana đang phân phát gói quà cho bọn trẻ th́ cửa bật mở. Nàng ngửng lên nh́n, hoảng hốt khi thấy cả nhóm ùa vàọ
"Các vị... làm cái ǵ ở đâỷ".
Rodevich Munn nh́n quanh, ngượng ngùng. "Tôi xin lỗi Danạ Chúng tôi đă nhầm. Chúng tôi cứ nghĩ là..."
Dana quay về phía họ. "Tôi hiểụ Bọn chúng đều là những trẻ mồ côị Chúng không có chỗ nào để ở và cũng không có ai chăm sóc. Phần lớn đều đang cần chữa trị trong khi bệnh viện mới bị thả bom. Nếu cảnh sát t́m thấy, chúng sẽ bị đưa vào những nơi mà người ta gọi là trại trẻ mồ côi và sẽ chết dần chết ṃn tại đó. C̣n cứ để chúng sống ở đây, rồi chúng cũng chết. Tôi đang cố nghĩ xem làm cách nào để cứu bọn trẻ ra khỏi nơi này".
Nàng nh́n đám đông vẻ cầu cứụ "Các bạn có cách ǵ không?"
Rodevich nói nhỏ. "Tôi cho là có đấỵ Có một chiếc máy bay của tổ chức Chữ thập đỏ sẽ từ Paris đến đây vào tối naỵ Người phi công là bạn tôi".
Dana hỏi, vẻ tràn trề hy vọng. "Anh có thể nói với anh ấy được không?"
Munn gật đầụ "Được".
Nicolai Petrovich nóị "Hăy xem, chúng ta mà dính vào chuyện này, họ sẽ quẳng chúng ta ra khỏi đây ngay".
"Anh không buộc phải tham gia", Munn nói, "chúng tôi sẽ giải quyết vụ này".
"Tôi phản đối", Nicolai gắng sức thuyết phục, "chuyện này sẽ đưa tất cả chúng ta vào nguy hiểm".
"Thế c̣n bọn trẻ th́ saỏ Dana hỏi ông tạ "Chúng ta đang nói về cái sống và cái chết của chúng đấy".
Chiều hôm ấy, Munn đến chỗ Danạ "Tôi vừa nói chuyện với bạn tôị Anh ấy rất sung sướng được giúp chúng ta đưa bọn trẻ đến Paris, ở đó chúng sẽ an toàn. Anh ấy cũng có hai cậu con trai".
Dana mừng run lên. "Thật tuyệt vờị Rất cám ơn anh, Munn".
Munn nh́n nàng. "Chính chúng tôi phải cám ơn cô".
Vào 8 giờ tối hôm đó, một chiếc xe tải có biểu tượng của hội chữ thập đỏ bên sườn xe đỗ lại trước khu trang trại đổ nát đó. Người lái xe tắt đèn, và dưới ánh sáng của vầng trăng non, Dana cùng bọn trẻ nhanh chóng trèo lên xẹ
Mười lăm phút sau, chiếc xe chuyển bánh về phía sân bay Butmir. Sân bay đă ngừng hoạt động và chỉ dành phục vụ cho chuyến bay của hội chữ thập đỏ đến cung cấp đồ cứu tế. Con đường ra sân bay là con đường dài nhất mà Dana từng đị Tưởng như dài vô tận. Khi nh́n thấy ánh đèn đỏ của máy bay đằng trước, nàng nói với lũ trẻ. "Chúng ta gần đến rồi".
Kemal nắm chặt lấy tay nàng. "Cháu sẽ ổn thôi", Dana trấn an nó. "Tất cả các cháu sẽ được chăm sóc" và nàng nghĩ ḿnh sẽ nhớ nó. ở cổng sân bay, người gác cổng vẫy tay ra hiệu cho quạ
Xe chạy thẳng đến bên chiêc máy bay chở hàng có kư hiệu của hội chữ thập đỏ. Người phi công đang đứng cạnh đó.
Anh chạy vội về phía Danạ "V́ chúa, tại sao tới muộn thế. Đưa bọn trẻ vào trong đi, nhanh lên. Chúng tôi buộc phải bay từ cách đây hai mươi phút rồi".
Dana đẩy bọn trẻ vào trong máy bay, Kemal là người cuối cùng.
Nó quay lại nh́n nàng môi run run, "Cháu c̣n được gặp cô nữa không?"
"Cô tin là c̣n, cháu ạ". Nàng ôm lấy nó, ḷng thầm cầu chúa một điều tốt lành. "Vào đi, cháu".
Cửa khoang đóng lạị Tiếng động cơ rú lên và máy bay bắt đầu lăn trên đường băng. Dana và Munn đứng đó, nh́n theo chiếc máy bay cất cánh vào bóng đêm, về hướng bắc, hướng tới Paris.
"Anh chị làm được một điều thật tuyệt vời," người lái xe nói, "tôi muốn anh chị biết rằng"...
Tiếng phanh gấp của một chiếc xe phía sau làm họ quay lạị Đại tá Gordan nhảy ra khỏi xe và tức tối nh́n lên bầu trời, chiếc máy bay đă biến mất, bên cạnh gă là Nikolai Petrovick, nhà báo người Ngạ
Đại tá Gordan nh́n Danạ "Cô bị bắt. Tôi đă cảnh cáo cô là tội gián điệp sẽ phải trả giá bằng mạng sống".
Dana hít một hơi thật sâụ "Đại tá, nếu ông muốn bắt tôi để xét xử trước toà v́ tội làm gián điệp...".
Gă nh́n sâu vào mắt nàng, lạnh lùng ngắt lờị "Ai nói với cô là xét xử trước toà?"

Chương 13

Lễ nhậm chức, diễu hành, tuyên thệ, tất cả rồi cũng qua đi, Oliver háo hức bước vào nhiệm kỳ Tổng thống của ḿnh. Washington D.C là một thành phố duy nhất trên trái đất thấm đẫm chất chính trị. Đây là cái rốn quyền lực của thế giới và Oliver là trung tâm của cái rốn đó. Có vẻ như tất cả mọi người ở đây đều ít nhiều liên quan tới bộ máy của chính phủ. Tại đây có liên quan tới bộ máy của chính phủ. Tại đây có tới 15 ngàn người hoạt động ngoài nghị viện và hơn năm ngh́n nhà báo. Tất cả họ đều được bú chung một bầu sữa bà mẹ chính quyền. Oliver Russell vẫn c̣n nhớ câu nói nổi tiếng của John Kennedy "Washington, D.C là thành phố mang vẻ duyên dáng của miền Bắc và tính hiệu quả của miền Nam.
Ngày đầu tiên làm Tổng thống, Oliver đi quanh Nhà Trắng cùng với Jan. Họ đă thuộc ḷng từng chi tiết trong đó: Nhà Trắng là một quần thể với 132 pḥng ngủ, 32 pḥng tắm, 29 ḷ sưởi, 3 cầu thang máy, một bể bơi, một pḥng tập thể dục buổi sáng, băi đua ngựa, sân bóng, băi đua ngựa, sân bóng rổ, một opḥng chiếu phim cùng 18 acres đất trồng cỏ và hoa. Họ từng mơ ước tới cuộc sống nơi đây không biết bao nhiêu lần, nhưng giờ đây, khi mơ ước đă thành sự thực, họ vẫn không choáng ngợp.
"Cứ như một giấc mơ ấy, anh nhỉ?". Jan th́ thào.
Oliver cầm tay vợ". "Anh rất vui là chúng ḿnh sẽ cùng nhau chia sẻ giấc mơ này, em yêu ạ". Và đúng như Oliver nghĩ như vậy thật. Jan đă trở thành một người bạn đời tuyệt vời, càng ngày Oliver càng yêu Jan.
Khi Oliver ra khỏi pḥng bầu dục, Peter Tager đang ngồi chờ ỏ dó. Ngay sau ngày nhậm chức, Oliver đă cử ông ta làm thư kư riêng cho ḿnh. "Tôi thực sự chưa tin nó là sự thực, Peter ạ".
Peter mỉm cười. "Dân chúng tin điều đó và họ đă bỏ phiếu cho ngài, thưa Tổng thống".
Oliver ngửng lên nh́n ông ta. "Cứ gọi tôi là Oliver như cũ".
"Thế cũng được. Nhưng chỉ khi có hai chúng ta thôi. Và anh luôn nhớ cho, bắt đầu từ giờ phút này, bất cứ điều ǵ anh nói, việc ǵ anh làm cũng có thể ảnh hưởng đến thế giới này".
Cửa pḥng bật mở, "Thưa Tổng thống, Nghị sĩ Davis đang đợi ở ngoài ạ".
"Để ông ấy vào đi, Heather".
Peter đứng dậy. "Tôi nên đi th́ hơn. Bàn làm việc của tôi c̣n cả đống giấy tờ cần giải quyết".
Nghị sĩ Davis bước vào. "Ôi, Peter...".
"Xin chào nghị sĩ". Hai người bắt tay nhau.
Peter quay lại nói. "Xin gặp lại ngài sau, thưa Tổng thống".
NGhị sĩ Davis tiến đến bên bàn của Oliver và gật đầu. "Cái bàn này hợp với anh lắm, Oliver ạ. Tôi không thể nói là tôi thực sự vui như thế nào khi thấy anh ngồi ở đây".
"Cảm ơn cha, con đang cố để làm quen với nó. Con muốn nói là Adams đă từng ngồi ở đây... Licoln... và cả Roosevlt nữa...".
Nghị sĩ Davis cười phá lên. "Đừng để những bóng ma đó doạ anh. Trước khi họ trở thành những huyền thoại th́ họ cũng là người trần mắt thịt như tôi và anh thôi. Họ cũng ngồi ở đó và cố gắng làm những việc đáng phải làm. Lần đầu tiên đặt cái mông vào đó họ cũng phát hoảng lên ấy chứ. Tôi vừa nói chuyện với Jan xong, con bé cứ như đang ở trên mây trên gió. Nó sẽ là một Đệ nhất phu nhân tuyệt vời đấy".
"Con biết ạ".
"Nhân đây, tôi cũng có một danh sách muốn bàn cùng anh, thưa Tổng thống, cái giọng ông ta nhấn vào câu thưa Tổng thống nghe có vẻ như đùa cợt.
"Vâng, thưa cha".
Nghị sĩ Davis trải tờ giấy lên mặt bàn.
"Cái ǵ đó ạ?"
"Đây là một vài gợi ư mà tôi muốn dành cho văn pḥng của anh".
"Ô, thưa cha, con đă quyết định rồi..."
"Tôi nghĩ anh cứ xem qua cái này đi một chút".
"Nhưng không có..."
"Cứ nh́n qua đi, Oliver", giọng ngài Nghị sĩ trở nên lạnh lùng.
Mắt Oliver tṛn xoe. "Cha..."
Nghị sĩ nắm lấy tay anh, "Oliver, tôi muốn anh đừng có trong đầu, dù chỉ một giây, cái ư nghĩ cho rằng tôi áp đặt lên anh những ư muốn của tôi. Thế là anh sai rồi đấy. Tôi đưa cho anh bản danh sách này v́ tôi nghĩ họ là những người tốt nhất giúp anh điều hành đất nước. Tôi là người yêu nước. Oliver ạ, và tôi không một chút xấu hổ v́ điều đó. Đất nước này là tất cả với tôi". Ông ta ngừng lại một chút, "Phải, tất cả đấy. Nếu anh cho rằng tôi giúp anh vào được nhà trắng chỉ v́ anh là con rể tôi th́ anh nhầm to rồi. Tôi đưa anh vào đây v́ tôi nghĩ anh là người thích hợp nhất cho vị trí này. Đó là điều tôi quan tâm hơn cả". Ông ta gơ ngón tay lên tờ giấy. "Và đây là những người sẽ giúp anh làm tốt công việc của ḿnh".
Oliver ngồi đó, lặng im. "Tôi đă ở thành phố này hàng chục năm nay rồi Oliver ạ. Và anh có biết tôi đă học được điều ǵ không? Đó là không ǵ buồn hơn bằng việc làm Tổng thống có một nhiệm kỳ. Anh có biết tại sao không? Bởi v́ trong bốn năm đó, anh mới chỉ có một chút khái niệm về việc ḿnh cần phải làm ǵ để đất nước tốt đẹp hơn. Anh có biết bao giấc mơ cần biến thành hiện thực. Và vào lúc anh vừa sẵn sàng làm điều đó, vừa khi anh muốn làm một điều ǵ đó đặc biệt", ông ta nh́n quanh căn pḥng, "th́ một người khác đă vào đây thế chỗ cho anh, và những giấc mơ của anh tan biến. Thật là buồn khi phải nghĩ đến cảnh tượng đó, đúng không? Biết bao nhiêu người đă phải giă từ giấc mơ ấy chỉ v́ họ có mỗi một nhiệm kỳ Tổng thống. Anh có biết là từ khi McKinley vào ngồi đây, năm 1897, hàng loạt vị Tổng thống sau ông ta đă chỉ có một nhiệm kỳ không? Nhưng anh, Oliver, tôi muốn nh́n thấy anh là Tổng thống với hai nhiệm kỳ. Tôi muốn anh thực hiện được tất cả những giấc mơ của ḿnh. Tôi sẽ chứng kiến việc anh tái cử"
Nghị sĩ Davis liếc nh́n đồng hồ và đứng dậy. "Tôi phải đi đây. Chúng tôi có một buổi họp ở Nghị viện. Tôi sẽ gặp lại anh vào bữa tối nay". Ông ta đi ra.
Oliver nh́n theo một lúc lâu. Rồi ngài ngồi xuống đọc bản danh sách mà ông ta để lại.
Hắn mơ thấy Miriam tỉnh dậy và ngồi dậy ngay ngắn trên giường. Một viên cảnh sát đến bên, nh́n cô và hỏi. "Bây giờ cô có thể nói cho chúng tôi biết ai đă làm như vậy đối với cô không?"
"Được".
Hắn tỉnh dậy, người ướt đẫm mồ hôi.
Sáng sớm hôm đó, Oliver gọi điện đến bệnh viện, nơi Miriam đang điều trị "Tôi e là không có cơ may nào cho cô ấy hêt, thưa Tổng thống". Vị trưởng khoa thần kinh trả lời. "Nói thật ra, trong sắc diện cô ấy không tốt tí nào".
Oliver ngập ngừng giây lát rồi nói: "Cô ấy không có gia đ́nh ǵ cả. Nếu ông cho là cô ấy không có cơ may hồi phục th́ để cho cô ấy được giải thoát có nhân đạo hơn không?".
"Tôi cho là chúng ta nên đợi thêm một thời gian nữa, biết đâu lại có điều kỳ diệu xẩy ra th́ sao?".
Trưởng ban lễ tân, Jay Perkins, đang báo cáo. "Có 147 nhà ngoại giao làm việc tại Washington, thưa Tổng thống. Quyển sách màu xanh da trời này là danh sách ngoại giao, bao gồm tên tuổi tất cả các đại diện nước ngoài và vợ con họ. Quyển sách màu xanh lá cây kia là danh sách xă hội, trong đó có tên tất cả các chính khách đứng đầu và thành viên đảng cộng hoà".
Ông ta đưa cho Oliver một tập giấy nữa. "Đây là danh sách các đại sứ của các nước mà ngài sẽ đón tiếp".
Oliver nh́n lướt qua bảng danh sách và t́m thấy ngay tên của vị đại sứ người Italia và vợ ông ta: Atilio Picone và sylva. Ôi Sylva. Oliver hỏi như vô t́nh. "Thế họ có mang vợ đi cùng không?".
"Không. Vợ họ sẽ giới thiệu sau. Tôi cho là ngài nên bắt đầu gặp gỡ những người này càng sớm càng tốt".
"Được".
Perkins nói. "Tôi sẽ bố trí việc này vào tuần tới. Tất cả các đại sứ đều sẽ được mời. Ngài nên tổ chức một bữa tiệc tại nhà trắng để ra mắt họ".
"ư kiến hay đấy". Oliver lại liếc nh́n bản danh sách đặt trên bàn. Atilio và Sylva Picone.
Tối thứ bảy, pḥng ăn tối nhà trắng treo đầy quốc kỳ của các nước trên thế giới. Oliver đă gặp Atilio Picone hai ngày trước, khi ông ta đến tŕnh quốc thư.
"Phu nhân Picone có được khoẻ không?" Oliver hỏi.
Có một chút ngập ngừng. "Vợ tôi vẫn khoẻ, xin cảm ơn Tổng thống"
Bữa tiệc thật thành công. Oliver đi từ bàn nọ sang bàn kia, tṛ chuyện vui vẻ với các quan khách. Một vài nhân vật đặc biệt nhất thế giới cũng có mặt tại bữa tiệc.
Oliver đi tới chỗ ba người phụ nữ đă kết hôn với những những người đàn ông hết sức quan trọng nhưng vẫn làm chủ được cuộc sống của ḿnh: Leonore... Delores... Carol...
Khi Oliver đi ngang qua pḥng, Sylva Picone đến bên cạnh ông và ch́a tay ra. "Đây là giờ phút tôi mong đợi từ lâu, thưa Tổng thống". Đôi mắt bà sáng rực lên.
"Tôi cũng vậy". Oliver th́ thầm.
"Tôi biết thế nào rồi ngài cũng đắc cử", gần như th́ thầm.
"Chúng ta có thể nói chuyện sau được không?" Không một chút ngập ngừng. "Tất nhiên rồi".
Sau bữa tiệc, tất cả chuyển xuống pḥng khiêu vũ. Oliver nh́n Sylva trong vũ điệu cổ điển, và thầm nghĩ đúng là một phụ nữ đẹp, thân h́nh mới quyến rũ làm sao.
Tiệc nhảy c̣n thành công hơn cả tiệc ăn.
Tuần sau đó, trên trang nhất của tờ Washington Tribune, chạy ngang ḍng tít lớn: Tổng thống bị buộc tội tranh cử gian lận.
Oliver nh́n chằm chằm mà không tin nổi vào mắt ḿnh? Đây là điều tệ hại nhất có thể xảy ra. Tại sao nó lại xảy ra nhỉ? Và rồi Oliver bất chợt hiểu được lư do. Câu trả lời nằm ngay trước mặt, ở góc tờ báo. "Chủ bút: Leslie Stewart". Tuần tiếp theo, lại có một hàng chữ trên trang đầu tờ Washington Tribune Tổng thống bị nghi ngờ làm sai lệch thuế lợi tức của bang Kentucky khi c̣n là thống đốc bang này
Hai tuần sau, lại có chuyện khác đăng trên trang đầu Washington Tribune: Cựu trợ lư của Tổng thống Rusell dự định kiện Tổng thống v́ tội quấy rối t́nh dục.
Cửa pḥng bầu dục bật mở và Jan bước vào. "Anh đă xem báo sáng nay chưa?".
"Rồi, anh...".
"Tại sao anh lại làm những chuyện đó hả, Oliver? Anh...".
"Chờ một chút đă. Em không thấy điều ǵ đang xảy ra ư? Jan? Leslie Stewart đứng sau tất cả những vụ này. Anh tin chắc là cô ấy muốn trả thù anh. Cô ấy hẳn không quên chuyện cũ. Được rồi, coi như cô ấy thắng lần này, mọi chuyện qua rồi em ạ".
Nghị sĩ Davis gọi điện. "Oliver, tôi muốn gặp anh trong một giờ nữa".
"Con sẽ ở đây thưa cha".
Oliver đang trong pḥng đọc sách nhỏ th́ Davis đến. Ông đứng lên đón bố vợ.
"Xin chào cha".
"Đúng là một buổi sáng chết tiệt". Giọng nghị sĩ chứa đầy tức tối. "Người đàn bà kia sẽ phá đổ mọi thành quả của chúng ta mất".
"Không, cô ấy sẽ không định làm vậy đâu, cô ấy chỉ...".
"Tất cả mọi người đọc cái tờ báo rác rưởi đó, và người ta tin vào cái mà người ta đọc".
"Todd, chuyện đó đă qua rồi và...".
“Chuyện đó chưa qua đâu. Anh có nghe bài b́nh luận sáng nay của kênh WTE không? Nó bàn về việc ai sẽ là người có khả năng làm Tổng thống tiếp theo của nước Mỹ đấy. Anh đứng cuối danh sách, Oliver ạ. Leslie đang cố t́m cách hạ bệ anh. Anh phải dừng cô ta lại, bằng mọi giá".
"Nhưng điều đó là không thể, cha biết mà. Họ được bảo vệ bằng quyền tự do báo chí. Chúng ta không thể làm ǵ được họ cả".
Nghị sĩ nh́n Oliver vẻ thăm ḍ. "Có đấy".
"Cha định nói về cái ǵ?".
"Ngồi xuống đi", hai người cùng ngồi xuống. "Người đàn bà đó rơ ràng là c̣n yêu anh, Oliver ạ. Đây là cách cô ta trừng phạt anh v́ đă bỏ rơi cô ta. Lời khuyên của tôi là nên giải quyết trong hoà b́nh".
"Con phải làm ǵ bây giờ?".
Nghị sĩ Davis nh́n Oliver thật lâu. "Hăy dùng cái đầu của anh đi".
”Chờ một chút nào, Todd. Có phải cha khuyên con là...“.
”Điều mà tôi khuyên anh là làm nguội con bé lại. Để cho nó thấy là anh rất hối hận. Tôi vừa nói là nó c̣n yêu anh. Nếu không c̣n yêu nữa, nó sẽ không làm vậy“.
”Chính xác, cha bảo con phải làm ǵ?“.
”Quyến rũ nó, con rể ạ. Anh đă làm được một lần th́ anh cũng có thể làm lại một lần nữa. Anh sẽ nắm lại được nó trong tay. Anh sắp có một bữa chiêu đăi vào tối thứ sáu tới, mời nó đi. Anh có thể thuyết phục nó không đối đầu với anh nữa“.
”Con không biết là ḿnh sẽ làm như thế nào...“.
”Tôi không cần biết anh làm thế nào. Có thể anh sẽ đưa nó đi đâu đó, nơi anh chị tha hồ tṛ chuyện riêng với nhau. Tôi có một căn nhà nghỉ ở Virginia. Rất biệt lập. Tôi sẽ về Florida mấy ngày cuối tuần, và sẽ đưa Jan đi cùng“. Ông ta móc túi và đưa cho Oliver một mảnh giấy gấp cùng chùm ch́a khóa. ”Đây là vị trí ngôi nhà và ch́a khóa“.
Oliver nh́n bố vợ chằm chằm. ”Chúa ơi, cha đă sắp xếp tất cả rồi sao? Thế nếu Leslie không... à giả sử cô ấy không đồng ư th́ sao? Nếu cô ấy từ chối th́ sao?“.
Nghị sĩ đứng dậy. ”Nó sẽ đồng ư, nó sẽ đi. Gặp lại anh vào thứ hai nhé, Oliver. Chúc may mắn“.
Oliver đứng đực ra hồi lâu và nghĩ. Không, ḿnh không thể một lần nữa xử sự xấu với Leslie. Ḿnh không thể.
Buổi tốm hôm đó, khi chuẩn bị ngồi vào bàn ăn, Jan nói. ”Oliver này, cha sẽ đưa em đi Florida vào kỳ nghỉ cuối tuần này. Cha được trao giải thưởng ǵ đó, em nghĩ là ông muốn khoe quư phu nhân của Tổng thống đấy mà. Anh có muốn em đi không? Em biết là có một bữa tiệc vào tối thứ sáu này, nếu anh cần em ở nhà...“.
”Không, không, em cứ đi đi, anh sẽ rất nhớ em đấy, ”và đúng là ḿnh sẽ nhớ cô ấy thật. Khi nào giải quyết xong vụ này, ḿnh sẽ dành nhiều thời gian hơn cho Jan.
Leslie đang nghe điện thoại th́ cô thư kư chạy vào thông báo. ”Thưa bà...“.
”Cô không thấy là tôi đang...“.
”Tổng thống Russell đang ở đường dây số 3“.
Leslie nh́n cô gái rồi mỉm cười. ”Thôi được“, nàng nói qua điện thoại. ”Tôi sẽ gọi lại cho anh sau“. Nàng bấm nút số 3.
”Xin chào“.
”Leslie đấy à?“.
”Chào anh, Oliver, hay là tôi phải gọi là ngài Tổng thống đây?“.
”Em muốn gọi anh là ǵ cũng được“, ông trả lời mềm mỏng, ”và có...“, đột nhiên ông dừng lại ”Leslie, anh muốn gặp em“.
”Anh có chắc đó là một ư kiến hay không?“.
”Anh chắc chắn“.
”Anh là Tổng thống, liệu tôi có thể chối từ lời đề nghị của Tổng thống không nhỉ?“.
”Không, nếu em là một người Mỹ yêu nước. Có một bữa tiệc tại Nhà Trắng vào tối thứ sáu này. Em đến nhé“.
”Lúc mấy giờ?“.
”Tám giờ tối“.
”Được, tôi sẽ đến“.
Trông nàng thật lộng lẫy trong chiếc váy kiểu Thượng Hải bó sát người với những chiếc khuy vàng nặng tới 22 karat, và một đường xẻ dài bên trái.
Khi Oliver nh́n thấy nàng, những kỷ niệm xưa lại ào ạt dội về trong ông.
”Leslie...“.
”Vâng, thưa Tổng thống“.
Ông nắm lấy tay nàng, cảm nhận được sự mềm mại lẫn ẩm ướt. Một tín hiệu đây. Oliver nghĩ. Nhưng nó là cái ǵ? Sự căng thẳng? Tức giận?
Hay nàng cũng đang hồi tưởng lại kỷ niệm xưa? ”Anh rất mừng v́ em đến, Leslie ạ“.
”Tôi cũng vậy“.
”Chúng minh nói chuyện sau nhé“. Nụ cười của nàng làm ông thấy ấm cả ḷng.
”Vâng“.
Ngồi cách Oiver hai bàn là một nhóm các nhà ngoại giao người Arập. Một người trong số họ, với những nét rất sắc sảo, đôi mắt đen, có vẻ như không rời mắt khỏi Oliver.
Tổng thống quay sang Peter Tager và hất đầu về phía người Arập kia. ”Ai đấy?“.
Tager nh́n lướt theo hướng đó. ”Ali tất cả Fulani. Ông ta là thư kư của các Tiểu vương quốc Arập thống nhất. Anh hỏi ông ta làm ǵ?“.
”Chẳng để làm ǵ cả“. Oliver ngửng lên lần nữa. Đôi mắt kia vẫn chằm chằm nh́n ông.
Oliver là một chủ nhà tuyệt vời, ông đă khiến cho tất cả các quan khách cảm thấy thoải mái. Sylva ngồi ở một bàn, Leslie ngồi ở bàn kia. Khi bữa tiệc sắp kết thúc, Oliver cố gắng gặp riêng Leslie.
”Chúng ta cần nói chuyện với nhau. Anh c̣n nhiều điều phải nói với em. Chúng ta có thể gặp nhau ở đâu đó được không?“.
Có một chút ngập ngừng trong giọng nói của nàng. ”Oliver, có lẽ tốt hơn là chúng ta không...“.
”Anh có ngôi nhà ở Manassas, bang Virginia, cách Washington khoảng một tiếng xe hơi. Em sẽ tới đó chứ?“.
Nàng nh́n thẳng vào mắt ông, lần này không một chút do dự. ”Nếu anh muốn em đến“.
Oliver tả qua đường đi đến đó. ”Ngày mai, lúc tám giờ tối“.
Giọng Leslie khàn khàn hẳn đi. ”Em sẽ đến“.
Tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia sáng hôm sau, giám đốc CIA James Frisch, đang tŕnh bày một vấn đề khá nóng bỏng.
”Thưa Tổng thống, sáng nay chúng tôi vừa nhận được tin báo rằng Liby mua rất nhiều vũ khí nguyên tử của Iran và Trung Quốc. Có một tin đồn rất đáng chú ư là họ chuẩn bị tấn công Israel. Khoảng một hay hai ngày nữa chúng tôi sẽ chính thức tŕnh lên ngài tin này“.
Lou Werner, Bộ trưởng Ngoại giao, nói. ”Tôi thấy chúng ta không nên chờ đợi. Cứ phản ứng ngay từ bây giờ, vào thời điểm nhanh nhất mà chúng ta có thể làm được“.
Oiver nói với Werner. ”Thôi, chúng ta cứ chờ thêm một hai ngày để xem có tin ǵ mới không“.
Cuộc họp kéo dài cả buổi sáng. Thỉnh thoảng Oliver lại nhận ra rằng ông bị phân tâm bởi cuộc hẹn với Leslie tối nay. ”Quyến rũ nó đi, con rể, con sẽ lại nắm được nó trong tay“.
Tối thứ bảy, Oliver dùng chiếc xe dành cho nhân viên của Nhà Trắng, do một nhân viên mật vụ điều khiển, đi thẳng tới Manasas. Ông rất muốn băi bỏ cuộc hẹn này, nhưng đă quá muộn rồi. Ḿnh chẳng có lư do ǵ để lo ngại cả. Chắc chắn là Lelie sẽ đến.
Đúng tám giờ tối, Oliver nh́n qua cửa sổ thấy chiếc xe của Leslie đang lăn bánh vào ṭa nhà của Nghị sĩ Davis. Ông thấy nàng ra khỏi xe, bèn chạy tới đón. Họ đứng nh́n nhau, không nói ǵ. Thời gian như ngừng trôi và tưởng như họ chưa hề xa nhau.
Oliver là người lên tiếng trước. ”Chúa ơi, tối qua, khi anh nh́n em... Anh đă gần như quên mất là em đẹp thế nào rồi“. Oliver nắm lấy tay nàng. Họ cùng bước vào pḥng khách. ”Em muốn uống ǵ đây?“.
”Em không cần ǵ đâu, cảm ơn anh“.
Oliver ngồi cạnh nàng trên chiếc ghế phôtơi. ”Anh phải hỏi em điều này, Leslie ạ. Em có căm ghét anh không?“.
Nàng chậm chạp lắc đầu. ”Không, nhưng em đă từng nghĩ là em căm ghét anh“, rồi nàng nhếch mép cười. ”Phần nào đó, em cũng coi đấy là nguyên nhân cho sự thành đạt của em hôm nay“.
”Anh không hiểu“.
”Em muốn theo đuổi anh để trả hận, Oliver ạ. Em mua các tờ báo, trạm truyền h́nh và phát thanh là để tấn công anh. Anh là người đàn ông duy nhất mà em đă yêu thật sự. Và khi anh... anh bỏ em đi, em... em không thể chịu đựng nổi“, khuôn mặt nàng giàn giụa nước mắt.
Oliver choàng tay qua người nàng. ”Leslie...“. Sau đó, môi họ gắn chặt vào nhau, họ hôn nhau cuồng nhiệt.
”Ôi, Chúa ơi“, nàng nói, ”em không ngờ chuyện này lại xảy ra“. Và Oliver đưa nàng vào pḥng ngủ. Họ cởi quần áo cho nhau.
”Anh ơi, nhanh lên đi“, Leslie rên rỉ, ”nhanh lên đi, anh yêu...“.
Họ ở trên giường, ôm chặt lấy nhau, thân thể dính vào nhau như một. Cuộc t́nh của họ thật nhẹ nhàng và thấm đượm, tựa như mới bắt đầu. Và nó luôn luôn như mới bắt đầu. Rồi hai người nằm lăn ra, hạnh phúc, thỏa măn.
”Buồn cười quá anh nhỉ?“ Leslie nói.
”Ǵ cơ em?“.
”Tất cả những chuyện tồi tệ về anh đă đăng trên báo ấy. Em muốn anh phải chú ư đến em“, nàng nép vào người t́nh cũ, ”và em đă đạt được mục đích, đúng không?“.
Oliver cười to, ”Đúng rồi“.
Leslie ngửng lên và nh́n ông. ”Em rất tự hào về anh, Oliver ạ. Tổng thống của nước Mỹ“.
”Anh cố gắng để làm một vị Tổng thống tốt. Đó là điều thực sự quan trọng với anh. Anh muốn làm một cái ǵ đó khác người“. Oliver nh́n đồng hồ. ”Anh e là ḿnh phải về thôi“.
”Tất nhiên rồi, em sẽ để anh đi trước“.
”Khi nào th́ anh lại được gặp em nữa đây, Leslie?“
”Bất kỳ lúc nào anh muốn“.
”Chúng ḿnh phải thật cẩn thận đấy“.
”Em biết, chúng ḿnh sẽ rất cẩn thận“. Leslie vẫn nằm đó, lim dim mắt nh́n Oliver mặc quần áo.
Khi chuẩn bị ra về, ông cúi xuống nàng và nói. ”Em của anh thật tuyệt vời“.
”Và anh của em cũng tuyệt vời. Anh hăy luôn luôn như vậy đối với em“.
Ông hôn nàng. ”Ngày mai anh sẽ gọi điện cho em“.
Oliver đi nhanh ra và quay về Washington. Biết bao nhiêu điều đă đổi thay, nhưng chúng ḿnh vẫn như ngày xưa. Ḿnh phải cẩn thận để không làm nàng đau khổ nữa. Ông nhấc điện thoại và bấm dẫy số mà Nghị sĩ Davis đă đưa cho.
Nghị sĩ Davis cầm ngay máy. ”Xin chào“.
”Con, Oliver đây“.
”Anh đang ở đâu thế?“.
”Con đang trên đường trở về Washington. Con muốn báo cho cha một tin vui. Chúng ta không cần phải lo lắng ǵ về chuyện đó nữa. Mọi việc đă ở trong ṿng kiểm soát“.
”Tôi không thể nói cho anh biết là nghe được tin đó tôi vui như thế nào đâu“. Có sự tin tưởng trong giọng nói của Nghị sĩ Davis.
”Con biết vậy mà, thưa cha“.
Sáng hôm sau, khi Oliver mặc quần áo, ông tiện tay cầm tờ Washington Tribune lên xem. Trên trang nhất của tờ báo là h́nh ngôi nhà của Nghị sĩ Davis ở Manassas. Ḍng chữ chú thích ở dưới làm ông choáng váng: Đây là lâu đài t́nh yêu bí mật của Tổng thống Russell.


Chương 14

Leslie tham gia vào mọi việc trong tờ báo: biên tập, viết bài, tŕnh bày... Một hôm nàng bảo người phụ trách ban quảng cáo, "Tại sao ta không kiếm được hợp đồng quảng cáo nào của Gleason s nhỉ? Đó là cửa hàng số một của Georgtown".
"Tôi đă thử, nhưng...".
"Tôi biết người chủ của nó, tôi sẽ gọi điện cho ông ta".
Nàng gọi ngay, và nói. "Allan này, ông không kư hợp đồng quảng cáo nào với Tribune cả, tại sao vậy?".
Ông ta cười vang. "Leslie, độc giả của cô toàn đến cửa hàng toi ăn trộm thôi".
Trước khi đến một cuộc họp, Leslie thường đọc tất cả những thông tin về những con người ở đó. Nàng biết điểm yếu và điểm mạnh của từng người và nàng trở thành một người thương thuyết cực kỳ cứng rắn và khéo léo.
Matt Baker cảnh cáo nàng.
"Đôi khi bà có thể cứng rắn. Nhưng đôi lúc cũng nên để lại cho người ta một cái ǵ đó chứ, Leslie".
"Quên đi. Tôi là người tin tưởng vào chính sách "tiêu thổ"
Trong năm tiếp theo đó, tập đoàn Washington Tribune đă mua thêm một tờ báo, một trạm phát thanh ở úc, một đài truyền h́nh ở Denver và một tờ báo ở Hammond, ấn độ. Cứ khi nào có một cuộc mua bán mới là nhân viên của những nơi đó lại lo lắng về những ǵ sẽ đến với họ. Leslie ngày càng nổi danh.
Leslie Stewart có một sự ganh tỵ nực cười với Katharine Graham.
"Bà ta may mắn thật", nàng nói, "và bà ta nổi tiếng là một kẻ đáng ghét".
Matt Baker định hỏi rằng nàng có biết ḿnh danh tiếng ǵ không, nhưng rồi ông lai thôi.
Một buổi sáng, Leslie đến văn pḥng và phát hiện ra có ai đó đặt trên bàn làm việc của nàng một hộp gỗ nhỏ bên trong có hai quả bóng bằng đồng thau.
Matt Baker rất bối rối. "Tôi xin lỗi, tôi sẽ mang..."
"Không, để nó đấy".
"Nhưng..."
"cứ để lại".
Matt Baker đang có một cuộc họp trong văn pḥng của ḿnh th́ có tiếng Leslie qua bộ đàm.
"Matt, đến đây ngay".
"Không hề "mời ông", cũng không có "xin chào". Chắc bà ta lại cáu kỉnh ǵ đây. Matt ngán ngẩm nghĩ. Nàng công chúa Tuyết đang ngọc thể bất an. "Giờ tôi phải lên đấy một lát", Matt nói với mọi người.
Ông rời khỏi văn pḥng, đi dọc theo hành lang, nơi có hàng trăm nhân viên bận rộn với công việc. Ông đi thang máy lên Tháp Ngà và bước vào pḥng làm việc sang trọng, rộng răi của Leslie. Khoảng nửa tá Trưởng ban biên tập đă tụ hội đông đủ ở đó.
Leslie đang ngồi sau chiếc bàn to tướng của nàng ngửng lên khi Matt bước vào và nói, "Nào chúng ta bắt đầu thôi".
Nàng triệu tập một cuộc họp các biên tập viên. Matt vẫn c̣n nhớ như in lời nàng nói. "Ông sẽ điều hành tờ báo, c̣n tôi sẽ không nhúng tay vào". Đáng lẽ ông phải biết hơn cả nàng chứ. Nàng không có quyền triệu tập một cuộc họp như thế này. Đây là việc của ông cơ mà. Nhưng mặt khác, nàng lại là chủ bút và chủ sở hữu và Washington Tribune, và nàng có quyền làm bất cứ điều ǵ ḿnh thích.
Matt Baker nói. "Tôi muốn nói chuyện với bà về bài báo viết về tổ ấm t́nh yêu bí mật của Tổng thống Russel ở Washington Post, tờ báo cạnh tranh với họ. "Các anh đă xem nó chưa?".
Matt đă xem. "Rồi, nhưng chỉ là..."
"thời gian gần đây tờ này được mọi người gọi là người mang tin sốt dẻo đấy. Ông và các phóng viên của ông ở đâu khi tờ Post săn được tin hả?".
Ḍng chữ nổi bật trên trang nhất của tờ Post: Người vận động hành lang thứ hai bị phát hiện đă hối lộ bộ trưởng nội vụ. "Tại sao không phải là chúng ta có tin này?"
"Bởi v́ đó là tin không chính thức, tôi sẽ kiểm tra nó. Chỉ là..."
"Tôi không muốn là kẻ chạy sau đít người khác".
Matt Baker thở dài và ngồi xuống. Người đàn bà này sắp gieo sấm sét đây.
"Chúng ta sẽ là tờ báo số một, hoặc là chúng ta không là ǵ cả". Leslie tuyên bố. "Và nếu đă không là ǵ cả th́ chúng ta cũng không có việc cho bất kỳ ai ở đây, đúng vậy không?"
Leslie quay sang Arnie Cohn, Trưởng ban biên tập của Đặc san chủ nhật. "Khi người ta tỉnh dậy vào sáng chủ nhật, chúng ta muốn họ đọc đặc san này chứ không muốn họ ngủ tiếp. Bài vở của tuần vừa rồi nhạt nhẽo lắm".
Cohn nghĩ thầm, bà ta là đàn ông th́ ta sẽ... "Xin lỗi", ông nói nhỏ, lần tới tôi sẽ cố gắng".
Leslie quay lại Jeff Connors, Trưởng ban biên tập thể thao. Connors khá đẹp trai, khoảng 35 tuổi, cao lớn, có dáng dấp của một vận động viên điền kinh, tóc vàng, đôi mắt xám, thông ḿnh. Anh là người luôn biết ḿnh phải làm ǵ cho tốt.
"Anh viết rằng Fielding sắp bị bán cho Pirates".
"Người ta bảo tôi là..."
"Người ta bảo ǵ anh cũng nghe ư? Nó sai hoàn toàn. Tờ Tribune đă cho đăng một tin không bao giờ là sự thật cả".
"Tôi đă kiếm được tin đó từ người quản lư của Fielding", Jeff Connors nói, không hề bối rối, "ông ta bảo tôi rằng..."
"Lần sau phải kiểm tra kỹ nguồn tin, và phải kiểm tra đi kiểm tra lại". Leslie quay lại và chỉ một tờ báo đă ố vàng, được đóng khung treo trang trọng trên tường. Đó là trang nhất tờ Chicago Tribune, ra ngày 3 tháng mười một năm 1948. Ḍng tít rất rơ chạy qua mặt tờ báo: DEWAY đă đánh bại TRUMAN.
"Đây là điều tồi tệ nhất mà một tờ báo có thể gây ra", Leslie nói, "là việc tạo nên tin giả. Chúng ta đang làm cái công việc đ̣i hỏi luôn phải đăng tin chính xác".
Nàng liếc nh́nđồng hồ. "Thôi, chỉ có vậy. Tôi mong là các anh chị làm công việc của ḿnh tốt hơn".
Khi họ đứng dậy chuẩn bị ra ngoài, Leslie nói với Matt Baker. "Tôi muốn ông ở lại".
"Được thôi", ông ngồi xuống ghế và nh́n những người khác đang rời khỏi pḥng.
"Tôi có quá khắc nghiệt với họ không?". Nàng hỏi ông.
"Bà cứ làm những ǵ ḿnh muốn. Tất cả bọn họ đều là những người làm thuê".
"Ông biết rằng chúng ra đến đây không phải là để kết bạn, mà là để làm báo". Nàng ngẩng đầu lên nh́n lại tờ báo đóng khung treo trên tường. "Ông tưởng tượng xem, chủ bút của tờ báo kia sẽ cảm thấy thế nào khi nó ra mắt bạn độc và Truman th́ trở thành Tổng thống nước Mỹ? Tôi không bao giờ muốn có cảm giác đó, Matt. Không bao giờ".
"Cứ cho là sai đi". Matt nói. "Câu chuyện về Tổng thống Russell trên trang nhất sẽ thích hợp hơn với một tờ báo lá cải đấy. Sao bà cứ chăm chăm moi móc ông ta vậy? Thử cho ông ta một cơ hội đi".
Leslie nói với vẻ mơ màng bí mật. "Tôi cho ông ấy một cơ hội rồi". Nàng đứng bật dậy và trở lại tỉnh táo. "Tôi có linh cảm là Tổng thống sẽ không thông qua luật thuế mới đánh vào viễn thông. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể thanh toán đựơc hai cái trạm ở San Diego và Omaha".
"Chúng ta chẳng thế làm được ǵ chuyện này".
"Th́ đúng vậy chứ sao. Tôi mốn ông ta bị bật ra khỏi văn pḥng đó. Matt. Tôi muốn một người khác sẽ vào nhà trắng, một người biết ḿnh phải làm ǵ".
Matt không muốn đi vào bất kỳ một cuộc tranh luận nào với Leslie về chuyện Tổng thống. Nàng là người vô cùng quyết liệt trong vấn đề này.
"Ông ta không xứng đáng với vị trí đó. Và tôi sẽ làm tất cả những ǵ có thể để chắc chắn rằng ông ta không thể tái cử ở nhiệm kỳ sau".
Philip Cole, trưởng ban tin tức quốc tế, chạy vội vàng đến pḥng làm việc của Matt Baker khi ông chuẩn bị về. Nét ông ta đầy vẻ lo lắng: "Chúng ta có chuyện rồi. Matt ạ".
"Có thể để đến ngày mai không? Tôi đang muộn giờ..."
"Chyện về Dana Evans".
Matt hỏi giật. "Chuyện ǵ về cô ấy?"
"Bị bắt rồi".
"Bị bắt?" Ông hỏi một cách ngờ vực. "Nhưng v́ sao cơ?"
"V́ tội làm gián điệp. Ông có muốn tôi...
"Không, tôi sẽ tự ḿnh lo vụ này". Matt Baker chạy vội đến bàn làm việc và bấm số, số điện thoại của văn pḥng chính phủ.


Chương 15

Nàng bị lôi sềnh sệch từ xà lim đến một khoảng sân tối om và lạnh lẽo. Nàng chống trả điên cuồng, cố thoát khỏi hai người đàn ông đang lôi tay ḿnh, nhưng chẳng kết quả ǵ. Sáu tên lính đă chờ sẵn, tay lăm lăm súng trường và mặc nàng gào thét, chúng kéo nàng đến cột gỗ được chôn sẵn dưới đất. Đại tá Gordan đứng nh́n bọn lính trói nàng vào cột.
"Sao ông dám làm nhục tôi, tôi không phải là gián điệp". Nàng la hét, nhưng tiếng la của nàng bị nuốt chửng bởi tiếng súng cối ở đâu đó.
Gă đại tá bước ra xa và gật đầu ra lệnh cho bọn lính. "Chuẩn bị, nhằm...".
"Câm mồm đi".
Có bàn tay thô ráp lắc mạnh. Dana mở mắt, tim đập như trống thúc. Nàng đang nằm trên giường, trong cái xà lim chật hẹp và tối tăm. Đại tá Divjak đứng sững trước mặt.
Dana hoảng sợ, ngồi bật dậy, cố giũ khỏi cơn ác mộng. "Ông... định làm ǵ tôi?"
Đại tá Divjak nói lạnh lùng. "Đáng lẽ cô phải bị xử bắn, nhưng thật không may tôi được lệnh thả cô ra".
Tim Dana đập mạnh.
"Cô phải rời khỏi đây trong chuyến bay đầu tiên", gă dừng lại nh́n sâu vào mắt cô, gằn giọng, "và đứng bao giờ quay trở lại nữa".
Bộ Ngoại giao và thậm chí cả tổng thống Mỹ đă phải tạo sức ép để Dana Evans được thả ra. Khi Peter Tager biết được vụ bắt giữ Dana, ông ta đă t́m gặp tổng thống.
"Bộ ngoại giao vừa thông báo cho tôi. Dana Evans bị bắt v́ họ cho rằng cô ấy là gián điệp. Chúng đang định hành h́nh cô ấy".
"Chúa ơi, thật kinh khủng, chúng ta không được để chuyện đó xảy ra".
"Đúng vậy, cho phép tôi sử dụng danh nghĩa của anh".
"Được, hăy làm bất cứ điều ǵ mà anh cho là cần thiết".
"Tôi sẽ làm việc với bộ ngoại giao. Nếu chúng ta gỡ được vụ này, có thể Tribune sẽ nhẹ nhàng hơn với anh".
Oliver lắc đầu. "Tôi chẳng trông mong ǵ chuyện ấy. Chúng ta phải t́m mọi cách để đưa Dana ra khỏi đó ngay".
Sau hàng tá những cú điện thoại khẩn cấp cộng với sức ép từ pḥng bầu dục, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ và cả thậm chí Tổng thư kư liên hiệp quốc, bon bắt Dana mới miễn cưỡng thả nàng ra.
Biết được tin này, Peter chạy vội báo cho Oliver. "Dana được thả rồi. Cô ấy đang trên đường về Mỹ".
"Tuyệt vời".
Hắn nghĩ về Dana trên đường đi dự một cuộc họp vào buổi sáng hôm đó. Ḿnh thật vui v́ đă cứu được cô ấy.
Hắn không hề biết rằng sau này hắn sẽ phải trả giá bằng cả cuộc sống bằng hành động này.
Khi biết chuyến bay của Dana hạ cánh xuống sân bay quốc tế Dulles, Matt Baker cùng hàng tá phóng viên từ các hăng thông tấn, báo chí, phát thanh và truyền h́nh đă chờ sẵn để chào đón nàng. Dana không hề tin nổi khi nh́n thấy đám đông. "Chuyện ǵ...?"
"Đi lối này, Dana, cười lên nào".
"Cô đă bị đối xử ra sao? Có thô bạo không?"
"Cô cảm thấy thế nào khi trở về nhà?"
"Hăy cho chúng tôi chụp một bức ảnh"
"Cô có ư định quay lại đó không?"
Tất cả như nói cùng một lúc. Dana đứng đó, ch́m ngập trong những câu hỏi dồn dập.
Matt Baker xô đẩy đám đông, đưa Dana vào chiếc xe limousine chờ sẵn và phóng đi.
"Có... chuyện ǵ xảy ra vậy?" Dana hỏi.
"Cô đang là nhân vật nổi tiếng đấy".
Nàng lắc đầu. "Tôi không cần, Matt. Rồi nàng nhắm nghiềm mắt lại một lúc lâu. "Cảm ơn ông đă cứu tôi ra khỏi đó".
"Cô phải cám ơn tổng thống và ngài Peter Tager. Họ là người gỡ nút cho toàn bộ chuyện này. Cô cũng nên cám ơn Leslie Stewart nữa".
Khi Matt cho Leslie biết tin Dana bị bắt, nàng đă nói với ông. "Bọn chó má, chúng dám đối xử thô bạo như thế đối với phóng viên của Tribune à. Tôi muốn anh phải làm mọi cách, mọi giá để chúng thả cô ấy ra. Cứ làm mọi việc có thể đưa cô ấy ra khỏi nơi đó".
Dana nh́n ra ngoài cửa xe. Người ta đi lại nói cười trên đường phố. Không có âm thanh của súng nổ, không có tiếng bom đầy chết chóc. Thật kỳ lạ.
"Trưởng ban biên tập chương tŕnh Nhà đất đă t́m được một căn hộ cho cô. Giờ tôi sẽ đưa cô tới đó. Cô cứ nghỉ ngơi, bao lâu cũng được. Khi nào khoẻ hẳn, bọn tôi sẽ lại đón cô trở lại làm việc". Ông nh́n vào mắt cô. "Cô khoẻ chứ? Nếu cô muốn đi khám bệnh, bọn tôi sẽ sắp xếp..."
"Không, tôi khoẻ, tôi đă được khám bệnh ở Paris rồi".
Căn hộ nằm trên đường Calvert, nội thất được bài trí hài hoà với một pḥng ngủ, pḥng khách, bếp, nhà tắm và cả một pḥng làm việc nhỏ.
"Được chứ?", Matt hỏi.
"Rất đầy đủ, cảm ơn ông, Matt".
"Rôi cô c̣n phải họp báo để tường thuật lại mọi chuyện đấy. Tôi sẽ lo vụ đó cho cô".
Nàng đang đứng trên một chiếc cầu, nghe thấy tiếng súng nổ và nh́n những thân thể trương ph́nh trôi lập lờ phía dưới. Nàng tỉnh giấc và khóc nức nở. Đó là giấc mơ của nàng ở nơi đây nhưng lại là thực tế đang xảy ra ở nơi kia. Những con người vô tội đă bị tàn sát dă man, bất kể họ là ai, đàn ông, đàn bà, hay người già, trẻ em. Nàng nhớ lại lời giáo sư Staka. "Cuộc chiến này bản chất là không thể hiểu được". Và điều nàng tưởng như không thể tin nổi là người ta hầu như không quan tâm đến nó. Nàng không dám ngủ nữa, sợ nhưng cơn ác mộng sẽ có cơ hội ập đến với ḿnh. Nàng đứng dậy, bước lên cửa sổ, nh́n ra ngoài. Thành phố thật yên tĩnh, không súng đạn, không có những người la hét, nó có vẻ như không tự nhiên. Nàng tự hỏi không biết bây giờ Kemal ra sao và liệu nàng c̣n được gặp cậu bé nữa không. Biết đâu giờ này nó quên mất ḿnh rồi.
Cả buổi sáng hôm sau Dana đi mua sắm quần áo. Tại bất cứ nơi nào nàng đến, mọi người đều nh́n nàng chằm chằm. Dana nghe thấy họ th́ thầm với nhau: "Đấy, cô ấy đấy, Dana Evans". Những người bán hàng cũng nhận ra nàng, nàng đă nổi tiếng, và nàng ghét điều đó.
Dana bỏ ăn sáng và cũng chẳng ăn trưa. Nàng đói nhưng không sao nuốt được. Nàng thấy quá căng thẳng, như đang chờ đợi một tai họa nào đó rơi xuống đầu. Khi đi trên phố, nàng cố gắng thu người lại, lẩn tránh ánh mắt của những người lạ v́ thấy nghi ngờ tất cả. Trong tai nàng như luôn có tiếng súng nổ. Ḿnh không ghể cứ sống măi thế này được. Dana nghĩ.
Buổi trưa, Dana đến văn pḥng của Matt Baker.
"Cô làm ǵ ở đây thế? Cô đang trong thời gian nghỉ mà".
"Tôi muốn trở lại làm việc, Matt ạ".
Matt nh́n Dana và nhớ lại người con gái trẻ trung ông gặp cách đây một vài năm. "Tôi làm việc ở đây. Tất nhiên, tôi đă có một chỗ ở đây rồi. Nó giống như một cuộc chuyển giao, phải không?... Tôi có thể bắt đầu ngay bây giờ...". Và cô gái ấy c̣n làm được nhiều hơn cả lời hứa lúc đầu. Giá mà ḿnh có được một đứa con gái...
"Sếp của chúng ta muốn gặp cô đấy". Matt bảo nàng.
Họ cùng đến văn pḥng của Leslie Stewart.
Hai người phụ nữ gặp nhau. "Chúc mừng cô đă trở về, Dana".
"Cảm ơn bà".
"Hai người ngồi xuống đi". Dana va Matt kéo ghế ngồi đối diện với Leslie.
"Tôi tới để cảm ơn bà v́ đă cứu tôi ra khỏi chỗ đó".
"Chắc ở đó kinh khủng lắm nhỉ. Tôi xin lỗi", nang quay sang Matt Baker, "chúng ta sẽ xếp cô ấy vào chỗ nào bây giờ hả Matt?"
Ông quay sang Dana. "Chúng tôi đang muốn bổ nhiệm lại vị trí phóng viên của chuyên mục Nhà Trắng. Cô thích việc đó không, Dana?"
Đó là vị trí uy tín nhất trong truyền h́nh.
Khuôn mặt Dana bừng sáng. "Có, tôi rất thích".
Leslie gật đầu. "Được, vậy là cô sẽ theo dơi ở đó".
Dana đứng dây. "Xin một lần nữa cảm ơn bà".
"Chúc may mắn".
Dana và Matt rời văn pḥng của Leslie. "Chúng ta sẽ đi xem chỗ làm việc mới của cô nhé". Ông dẫn nàng đến toà nhà số 4, nơi mọi người đang chờ để chào đón nàng. Phải mất đến mười lăm phút Dana mới rời được đám đông những người đầy thiện chí ấy.
"Dana là phóng viên mới ở mục nhà trắng của anh đấy". Matt nói với Philip Cole.
"Tuyệt, tôi sẽ chỉ cho cô xem văn pḥng của cô".
"Cô đă ăn trưa chưa?" Matt hỏi.
"Chưa, tôi..."
"Tại sao chúng ta không cùng ăn nhỉ?"
Pḥng ăn dành cho nhân viên nằm ở tầng sáu. Nó thật rộng răi, thoáng đăng và kê rất nhiều bàn ghế.
Matt đưa Dana đến một bàn ở góc pḥng. "Bà Stewart có vẻ dễ thương nhỉ?" Dana nói.
Matt định nói điều ǵ đó, nhưng lại thôi.
"à, ừ, chúng ta gọi món đi".
"Tôi không đói".
"Cô đă ăn rồi à?".
"Chưa".
"Thế cô có ăn sáng không?".
"Không".
"Dana... thế cô ăn bữa gần nhất là lúc nào?".
Nàng lắc đầu. "Tôi không nhớ, nhưng điều đó chẳng có ǵ quan trọng cả".
"Không được. Tôi không thể để một phóng viên mới của chuyên mục nhà trắng lại chết v́ đói được".
Người phục vụ đến bên bàn. "Ông đă sẵn sàng gọi món chưa, ôn Baker?"
"Rồi". Ông lướt nh́n thực đơn. "Cô Evans đây sẽ dùng thịt hun khói, rau diếp và bánh nhân thịt, cà chua", ông quay sang nàng, "cô dùng bánh ngọt hay kem?"
"Kh...ô..ng".
"C̣n tôi th́ cho món ḅ chiên".
"Vâng, thưa ông".
Dana ngó xung quanh. "Mọi thứ ở đây như không phải là thật. Mọi chuyện ở kia mới là cuộc sống. Matt ạ. Thật kinh khủng. Không ai ở đây thèm quan tâm đến nơi đó".
"Đừng nói vậy, Dana. Mọi người ở đây tất nhiên là có quan tâm. Nhưng chúng ta không phải là tên sen đầm quốc tế. Chúng ta chỉ cố gắng ở mức có thể mà thôi".
"Thế th́ chưa đủ", Dana giận dữ la to.
"Dana..." Matt khựng lại. Cô ấy h́nh như đang không ở đây, mà ở một nơi rất xa, rất xa; như đang nghe thấy những âm thanh mà ông không thể nghe, nh́n thấy những cảnh tượng mà ông không thể nh́n. Họ cứ ngồi lặng đi như thế cho đến khi người phục vụ mang đồ ăn tới.
"Đây rồi".
"Matt, tôi thực sự không đói mà..."
"Cô sẽ ăn hết", Matt ra lệnh.
Jeff Connors đang tiến lại gần bàn. "Chào Matt"
"Ô, chào Jeff".
Jeff nh́n Danna. "Xin chào cô".
Matt nói với nàng. "Dana, đây là Jeff Connors. Cậu ta là trưởng ban biên tập mục Thể thao".
Dana gật đầu.
"Tôi là người rất hâm mộ cô, cô Evansa. Rất mừng là cô đă được cứu thoát".
Dana gật đầu lần nữa.
Matt mời. "Cậu có muốn nhập bọn không?"
"ồ, rất hân hạnh". Anh ta kéo ghế nói với Dana. "Tôi đă không bỏ lỡ một chương tŕnh nào của cô cả. Chúng thật xuất sắc".
Dana lầm bầm. "Cảm ơn".
Jeff là một vận động viên nổi tiếng ở công ty chúng ta đấy, Dana. Cậu ấy chơi trong đội bóng chày".
Lại một cái gật đầu nhẹ.
"Nếu cô rỗi, Jeff nói, "thứ sáu này, đội Orioles sẽ chơi với đội Yankees ở Baltinmore đấy. Nó..."
Và lần đầu tiên Dana quay sang nh́n thẳng vào anh ta. "Nghe sôi động nhỉ. Mục đích của cuộc chơi chỉ là đánh quả bóng và sau đó chạy ṿng quay sân trong khi đội kia cố gắng chặn anh lại phải không?"
Jeff nh́n nàng bối rối. "Vâng, nhưng..."
Dana đứng bật dậy, giọng nàng run lên. "Tôi đă nh́n thấy người ta chạy ṿng quanh một cái sân, nhưng không phải v́ trờ chơi, mà v́ chính mạng sống của ḿnh, bởi có kẻ đang nhả đạn vào họ. Nàng như bị kích động. "Đó không phải là tṛ chơi và càng không phải là tṛ bóng chày ngu ngốc của các anh".
Mọi người trong pḥng đều quay lại cả nh́n nàng.
"Anh cút đi". Dana nức nở lao ra khỏi pḥng.
Jeff quay sang Matt Baker. "Tôi... tôi thành thật xin lỗi. Tôi không có ư..."
"Đó không phải là lỗi của anh. Cô ấy vẫn chưa b́nh tĩnh lại được. Chỉ có Chúa mới biết cô ấy đă phải chịu đựng những ǵ".
Dana lao về văn pḥng ḿnh và đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống, cố gắng giữ cho ḿnh b́nh tĩnh lại. Ôi trời ơi! Ḿnh đă cư xử như một con điên. Họ sẽ mắng ḿnh, và thế th́ cũng đáng. Tại sao ḿnh lại gay gắt với anh ta. Tại sao ḿnh lại gây nên một chuyện tồi tệ như thế. Đây không phải là chỗ của ḿnh nữa rồi. Chẳng c̣n chỗ nào dành cho ḿnh nữa rồi. Nàng gục đầu xuống bàn, khóc nức nở.
Vài phút sau, có ai đó mở cửa bước vào. Dana ngước lên. Đó là Jeff Connors. Anh ta bưng một khay đựng thịt hun khói, rau diếp, một lát bánh kẹp thịt, cà chua và một khoanh pho mát.
Cô đă quên bữa trưa này", anh nói thật nhẹ nháng. Dana lau nước mắt, gắng sức nói.
Tôi... tôi xin lỗi. Tôi thực sự xin lỗi. Tôi không có quyền..."
"Cô có quyền", anh nói khẽ, "dù sao đi nữa, ai cần đi xem cái tṛ bóng chày cổ lỗ kia làm ǵ, phải không?" Anh đặt khay lên bàn. "Tôi ăn trưa cùng cô nhé".
"Cám ơn, nhưng tôi không đói".
Anh thở dài. "Cô lại đặt tôi vào thế khó xử rồi, cô Evans. Matt nói cô phải ăn, cô không muốn làm tôi mất việc đấy chứ?"
Dana cố tạo nên nụ cười. "Không đâu", nàng bẻ nửa chiếc bánh xăng-đuưch và cắn một miếng nhỏ.
"To hơn nào". Dana cắn một miếng nhỏ nữa.
"To hơn nữa đi". Nàng ngước mắt nh́n anh.
"Anh thực ḷng muốn tôi ăn bánh này à?"
"Đúng thế đấy", anh ngắm nàng cắn một miếng to hơn nữa. "Tốt rồi, à, tiện đây, nếu cô không làm ǵ tối thứ sau, tôi không biết ḿnh đă nói chưa, nhưng có trận giữa Oriles và Yankees. Cô đi chứ?"
Dana nh́n anh và gật đầu. "Vâng".
Ba giờ chiều hôm đó, khi Dana bước vào cổng Nhà trắng, người hướng dẫn bảo nàng. "Ngài Tager muốn gặp cô, cô Evans. Tôi sẽ cho người đưa cô đến văn pḥng của ông ấy".
Dana đi theo người dẫn đường qua một hành lang dài hun hút đến văn pḥng của Peter Tager. Ông ta đang chờ nàng. "Ngài Tager..."
"Tôi không ngờ được gặp cô sớm thế, cô Evans. Người ta không cho cô nghỉ ngơi một chút sao?"
"Không phải, mà v́ tôi không muốn nghỉ", Dana nói. Tôi... tôi cần phải làm việc".
"Mời cô ngồi", nàng ngồi xuống ghế đối diện, "Tôi có thể mời cô uống ǵ đây?"
"Không, cám ơn ngài, tôi vừa ăn trưa". Nàng thầm cười khi nghĩ đến anh chàng Jeff Connors. "Ngài Tager, tôi muốn cảm ơn ngài và Tổng thống Russell v́ đă cứu tôi thoát chết".
Nàng ngập ngừng. "Tôi biết là Tribune đă không được thiện chí lắm với Tổng thống, và tôi..."
Peter khoát tay. "Chà, đó là chuyện chính trị. Tổng thống sẽ không tha thứ cho bọn chúng vụ này đâu. Cô có biết chuyện về nàng Helen thành Troy không?"
"Có ạ".
Ông ta mỉm cười. "ờ, mà có lẽ chúng tôi cũng sẽ gây chiến với cô đấy. Cô là một người quan trọng".
"Tôi không thấy thế".
"Tôi muốn cô biết rằng cả tôi và Tổng thống đều rất hài ḷng khi biết cô sẽ làm việc tại Nhà trắng".
"Cảm ơn ngài".
Peter nói tiếp. "Tiếc là Tribune không hoà hợp với Tổng thống Russell và cô lại chẳng làm được ǵ để thay đổi t́nh h́nh đó. Nhưng dù vậy, ở cấp độ cá nhân, nếu có ǵ Tổng thống hoặc tôi có thể giúp... chúng tôi đánh giá cô rất cao".
"Cảm ơn ngài, tôi xin ghi nhớ".
Cửa pḥng mở. Oliver bước vào. Dana và Peter đứng dậy.
"Ôi, ngồi xuống đi". Tổng thống nói. Ông bước về phía Dana. "Mừng cô trở về".
"Cảm ơn Tổng thống, và tôi thực sự muốn cảm ơn ngài".
Oliver cười. "Nếu không bảo vệ được sinh mạng của một con người th́ làm Tổng thống mà làm ǵ. Tôi nói thẳng với cô nhé, cô Evans, không ai trong chúng tôi hâm mộ tờ báo của cô đâu, nhưng chúng tôi lại hâm mộ cô đấy".
"Xin cảm ơn ngài".
"Peter sẽ dẫn cô đi một ṿng quanh đây. Nếu có vướng mắc ǵ, chúng tôi sẽ giúp cô".
"Ngài thật tốt quá".
"Nếu cô không ngại, tôi muốn cô gặp ông Werner, bộ trưởng bộ ngoại giao. Tôi muốn cô kể cho ông ta nghe t́nh h́nh ở Sarajevo rồi ông ta sẽ làm báo cáo vắn tắt cho tôi".
"Tôi rất vui được làm điều đó".
Khoản một tá người ngồi trong pḥng họp riêng của bộ trưởng bộ ngoại giao, lắng nghe Dana kể lại những ǵ nàng biết.
"Hầu hết nhà cửa ở Sarajevo đều bị phá hỏng hoặc huỷ hoại... không điện, không nước. Người ta tháo b́nh ắc quy ô tô để chạy tivi..
"Đường xá trong thành phố bị nghẽn lại bởi những chiếc ô tô, xe thồ, xe đạp bị trúng bom. Phương tiện giao thông duy nhất là đôi chân.
"Khi có mưa, mọi người lấy nước từ những cống rănh trên đường phố và trữ trong thùng...
"Không có bất kỳ sự tôn trọng nào đối với hội chữ thập đỏ hay các nhà báo. Trong cuộc chiến này đă có hơn bốn mươi nhà báo thiệt mạng và hàng tá người bị thương. Không biết liệu cuộc khởi nghĩa chống lại Slobodan Milosevic có thành công hay không, nhưng cảm nhận chung là thái độ của ông sẽ suy sụp thảm hại do chính cuộc sống của những người dân ở đây đă quá tồi".
Cuộc họp kéo dài khoảng hai tiếng. Đối với Dana, nàng vừa có cảm giác đau buồn lại vừa thấy phấn chấn. Bởi nàng đă miêu tả đựoc chân thực những ǵ xảy ra tại đó, nàng thấy như ḿnh đang sống lại khung cảnh sinh động ấy, nhưng đồng thời, nàng cũng thấy thật nhẹ nhàng v́ được kể nó ra.
Bộ trưởng ngoại giao nói. "Cảm ơn cô nhiều, cô Evans, v́ đă cho chúng tôi rất nhiều thông tin, ông ta mỉm cười. "Mừng cô trở về an toàn".
"Tôi cũng vậy, thưa bộ trưởng".
Tối thứ sau, Dana ngồi cạnh Jeff Connors trong khu vực dành cho giới báo chí, theo dơi trận bóng chày. Đây là lần đầu tiên kể từ khi trở về, nàng có thể nghĩ tới một cái ǵ đó không phải là chiến tranh. Vừa theo dơi diễn biến trên sân, nàng vừa nghe tiếng người tường thuật. "Đây là giờ phút gay go của trận đấu... Nelson đang ném bóng. Adomar đánh dọc xuống bên trái sân. Palmeiro đang lại gần anh ta. Tỷ số đang là 2 và 1. Nelson ném bóng vào giữa rồi... Palmeiro lao tới đón bóng... Một cú đánh tuyệt vời! Cứ như cả bức tường đă bay theo trái bóng... kết thúc... Palmeiro đang...".
ở lượt đấu thứ bảy, Jeff hỏi. "Cô có thích trận đấu này?".
Dana ngước mắt lên nh́n anh. "Vâng, tôi thích".
Sau trận đấu, họ trở lại D.C. và dùng bữa tối ở quán "Hai mươi - mười lăm".
Tôi muốn xin lỗi anh lần nữa v́ cách cư xử hôm trước". Dana nói. "Chỉ v́ tôi đă trải qua cuộc sống ở một nơi mà...", nàng dừng lại v́ không biết phải nói thế nào, "nơi mà người ta phải đối mặt giữa sống và chết. Tất cả thật kinh khủng, bởi không ai ngăn cản cuộc chiến đó cả, người dân không c̣n biết hy vọng vào cái ǵ nữa".
Jeff nhẹ nhàng. "Dana, cô đừng để ḿnh quá bị ám ảnh bởi cuộc chiến đó nữa. Cô phải tiếp tục sống, và sống ở đây".
"Tôi biết chỉ là ... không dễ dàng lắm".
"Tất nhiên là vâyl Tôi muốn giúp cô, cho phép tôi nhé?"
Dana nh́n anh một lúc lâu rồi đáp. "Xin hăy giúp em".
Hom sau, Dana lại hẹn đi ăn trưa với Jeff.
"Em tới đón anh nhé", anh đề nghị và cho nàng địa chỉ.
"Được thôi". Dana tự hỏi không biết Jeff đang làm ǵ ở đó. Vùng này nổi tiếng là một địa danh không lấy ǵ làm tốt đẹp cho lắm. Dana đă t́m được câu trả lời khi họ tới nơi. Hai đội bóng đang vây lấy Jeff, toàn những cầu thủ con nít từ 9 tuổi đến 13 tuổi trong những trang phục nhiều màu sắc Dana đậu xe ngoài ŕa để xem.
Jeff đang hướng dẫn lũ trẻ. "Nhớ là đừng có vội vàng. Khi người ta ném bóng, hăy tưởng tượng là quả bóng đến ta rất chậm, v́ thế nên ta có thừa thời gian để đánh. Hăy để cái đầu chỉ đạo cánh tay nhé...".
Jeff ngó ra và thấy Dana. Anh vẫy vẫy. "Thôi nhé, các chàng trai, hôm nay tạm thế nhé".
Một cậu bé hỏi. "Người yêu của chú đấy à, chú Jeff".
"ồ, nếu chú may mắn". Jeff mỉm cười. "Tạm biệt nhé". Anh bước đến bên xe Dana.
"Không khác ǵ một câu lạc bộ", nàng nhận xét.
"Chúng khá lắm. Anh đến đây hướng dẫn chúng tuần một lần".
Nàng mỉm cười. "Em cũng thích thế", và nàng đột nhiên tới Kemal. Không biết giờ này cậu bé có khoẻ không và đang làm ǵ.
Dần dần Dana nhận thấy ḿnh mỗi ngày một thích Jeff Connors hơn. Anh nhạy cảm, thông minh và hài hước. Nàng luôn được vui vẻ bên anh. Kư ức kinh hoàng về Sarajevo đang dần nhạt nhoà đi. Một buổi sáng, nàng thức dậy và không c̣n thấy ác mộng nữa. Khi nàng kể cho Jeff nghe điều này, anh cầm tay nàng th́ thầm. "Đó mới chính là người con gái của anh".
Dana băn khoăn không biết có nên hiểu xa hơn câu nói đó không.
Có một bức thư viết tay chờ Dana tại văn pḥng.
"Cô Evans, đừng lo lắng cho cháu, cháu đang hạnh phúc, không cô đơn chút nào. Cháu không nhớ ai cả. Và cháu sẽ gửi trả lại cô những bộ quần áo cô mua cho cháu v́ cháu không cần đến nữa. Cháu đă có quần áo của ḿnh rồi. Tạm biệt cô. Bức thư kư tên "Kemal".
Thư có dấu bưu điện ở Paris, đầu b́ thư có ḍng chữ "Ngôi nhà Xavier cho các cậu bé". Dana đọc đi đọc lại. Rồi nàng nhấc điện thoại. Phải đến bốn tiếng sau Dana mới gặp được Kemal.
Giọng cậu bé có vẻ ḍ xét. "Xin chào".
"Kemal, cô là Dana Evans đây. Không có tiếng trả lời. "Cô đă nhận được nhận được thư của cháu". Im lặng. "Cô chỉ muốn nó là cô mừng khi thấy cháu hạnh phúc và đang sống cuộc sống tốt đẹp". Dana chờ một lúc rồi tiếp tục. "Cô ước ǵ ḿnh cũng được hạnh phúc như cháu. Cháu có biết tại sao cô không hạnh phúc không? V́ cô nhớ cháu, cô nghĩ về cháu rất nhiều".
"Không, cô không nhớ cháu", Kemal kêu lên, "cô không thèm quan tâm đến cháu".
"Không đúng thế, vậy cháu có muốn đến Washington để sống với cô không?"
Im lặng thật lâu. "Cô có... có ư định đó sao?"
"Đúng, thế cháu có thích vậy không?"
"Cháu... cậu bé bật khóc.
"Cháu có thích không? Kemal?"
"Có... có, cô ạ".
"Cô sẽ thu xếp nhé".
"Cô Evans?"
"Ǵ hả cháu?"
"Cháu yêu cô"
Dana và Jeff đi bên nhau trong công viên West Potomac. "Em nghĩ là ḿnh sẽ sống với một người nữa", và nàng thông báo với anh, "cậu ta sẽ sống ở đây với em trong tuần tới".
Jeff nh́n nàng ngạc nhiên. "Cậu ta?"
Dana thấy ḿnh hài ḷng trước phản ứng của anh. "Vâng, tên cậu ấy là Kemal, mười hai tuổi".
Và nàng kể cho anh nghe câu chuyện.
"Cậu bé cậu có vẻ tuyệt vời đấy nhỉ?"
"Đúng thế, nó đă trải qua một địa ngục trần gian, Jeff ạ, em muốn nó quên đi".
Anh nh́n nàng và nói. "Anh cũng muốn giúp nó".
Đêm đó, lần đầu tiên họ ngủ cùng nhau.



o0o
 

 

Pages Previous  1  2  3  Next