Phía Bên Kia Nửa Đêm   Sidney Sheldon Pages Previous  1  2  3  4  Next   
Chương 12

CATHERINE
Washington 1945-1946


Một buổi sáng ngày 7 tháng Năm năm 1945, tại Reims nước Pháp, Đức quốc xă đă đầu hàng vô điều kiện trước quân đội Đồng Minh. Ách thống trị kéo dài hàng ngàn năm của Đế chế thứ Ba kia đă chấm hết. Những người trong cuộc đă từng biết đến cuộc tàn phá khốc lệt của Pearl Harbour, những người đă từng chứng kiến trận Dunkirk suưt nữa lỡ cơ hội đi vào lịch sử như một trận Waterloo của nước Anh và khả năng pḥng thủ lỏng lẻo của London đến mức nào nếu vấp phải một cuộc tấn công toàn diện của không quân Đức Luftwaffe. Tất cả những người như vậy đều thấy được hàng loạt kỳ tích mang lại thắng lợi cho quân đội Đồng minh,

Dịch giả: Bá Kim 

đồng thời cũng biết rơ ranh giới giữa thắng bại rất chống chênh nếu tiến hành khác đi. Những thế lực của cái ác hầu như đă nổi lên đắc thắng, và quan điểm này thật là phi lư, thật là quá mâu thuẫn với đạo đức của đạo Cơ đốc là cái Thiện phải chiến thắng, cái ác phải quy thuận, đến nỗi bọn chúng đă sợ
 hăi làm ngơ đi và cảm ơn Chúa đă phù hộ và che giấu những việc làm xằng bậy của bọn chúng, không để cho các thế hệ mai sau được biết, trong hàng đống những hồ sơ được ghi dấu TỐI MẬT.
Thế giới tự do lúc này đă chuyển sự chú ư sang phía Viễn Đông. Những người Nhật với thân h́nh ngắn cũn, mắt cận thị, mặt vẻ hài hước, đang sống mái bảo vệ từng tấc đất họ chiếm giữ được, cuộc chiến có vẻ sẽ c̣n kéo dài và tổn phí nhiều xương máu.
Thế rồi sau đó vào ngày 6 tháng Tám, một trái bom nguyên tử đă ném xuống Hiroshima. Sự tàn phá vượt quá sức tưởng tượng. Chỉ sau vài phút đồng hồ, phần lớn dân cư của thành phố lớn này đă nằm chết la liệt, họ là nạn nhân của một cuộc tàn sát c̣n lớn hơn tất cả các cuộc chiến tranh và dịch bệnh ở thời Trung cổ gộp lại.
Ba ngày sau, ngày 9 tháng Tám, quả bom nguyên tử thứ hai lại được ném xuống đất Nhật, lần này xuống Nagasaki. Kết quả c̣n tồi tệ hơn nữa. Cuối cùng nền văn minh đă đạt tới thời điểm đẹp nhất. Người ta có thể đạt tới nạn diệt chủng mà tính được bằng tỷ số số nhân những triệu người trong một giây đồng hồ. Đối với người Nhật, thế là quá đủ rồi, và ngày 2 tháng Chín năm 1945, trên tàu chiến Missouri, tướng Mỹ Douglas Mac Arthur đă nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Chính phủ Nhật Bản.
Cuộc thế chiến thứ hai đă chấm dứt.
Khi tin tức loan đi, toàn thế giới nín thở một lúc lâu, sau đó rộ lên tiếng tung hô nhiệt thành vui mừng. Các thành phố và làng mạc trên khắp hành tinh rầm rộ những cuộc tuần hành sôi sục của dân chúng tổ chức chào mừng chiến tranh chấm dứt, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến, chấm dứt mọi cuộc chiến…
Ngay ngày hôm sau, thông qua một nguồn tin kỳ lạ mà Bill Fraser không bao giờ giải thích cho Catherine rơ, ông có thể làm một cú phôn tới Larry Douglas đang đóng trên một ḥn đảo ở Nam Thái B́nh Dương. Làm như vậy mới khiến cho Catherine ngạc nhiên. Fraser bảo nàng nán đợi ông tại văn pḥng nàng để trưa hôm đó họ sẽ đi ăn cùng nhau. Vào lúc 2 giờ 30 chiều, nàng gọi cho Bill qua máy bộ đàm.
- Anh định đưa em đi đâu ăn trưa thế? - Nàng hỏi - Sắp đến giờ ăn chiều rồi c̣n ǵ.
- Cứ ngồi yên đợi - Fraser đáp - Anh sẽ đến chỗ em ngay bây giờ.
Năm phút sau, ông gọi cho nàng:
- Có một cú phôn cho em ở đường dây số một đấy.
Catherine nhấc ống nghe lên:
- Allô!
Nàng nghe có tiếng xoẹt xoẹt và rào rào như tiếng sóng từ một đại dương xa xăm. Nàng nhắc lại.
Một giọng nam nói:
- Bà Larry Douglas đấy phải không?
- Vâng - Catherine lúng túng đáp - Ai đấy?
- Xin bà đợi cho một lát.
Qua ống nghe, nàng nhận thấy một giọng rất cao. Lại tiếng rào rào, sau đó là tiếng nói:
- Cathy đấy à?
Nàng ngồi, tim đập mạnh, không thể nói nên lời:
- Larry? Anh Larry?
- Đúng đấy, cưng ạ.
- Trời ơi, anh Larry? - Nàng bật khóc, toàn thân nàng run rẩy.
- Em thế nào, hở cưng?
Nàng lấy móng tay ấn và cánh tay ḿnh cố làm cho ḿnh đau để ngăn chặn sự mừng rỡ thái quá đang bỗng nhiên ập đến với nàng.
- Em… em vẫn khỏe - Nàng đáp - Anh… anh đang ở đâu vậy?
- Nếu anh nói rơ nơi anh ở, anh sẽ bị "cúp" máy ngay. Anh đang ở một nơi giữa Thái B́nh Dương.
- Thế cũng là gần rồi? - Nàng cố kiềm chế giọng nói - Anh vẫn khỏe đấy chứ?
- Khoẻ.
- Bao giờ anh về nhà?
- Sắp rồi - Chàng hứa hẹn.
Catherine lại nước mắt lưng tṛng:
- Được, được chúng ta hăy… khớp giờ đồng hồ của nhau nhé.
- Em khóc đấy à?
- Đúng, em khóc đấy, anh ngốc ạ! Em mừng là anh không chứng kiến mặt em nước mắt đầm đ́a. Ôi, anh Larry… Larry…
- Anh nhớ em lắm, cưng ạ! - Chàng bảo.
Catherine nghĩ lại những đêm dài đằng đẵng, cô đơn kéo hết tuần này qua tháng nọ, năm kia mà vắng bóng chàng, không có ṿng tay của chàng, không được gần kề tấm thân khoẻ mạnh, tuyệt vời cửa chàng, thiếu sự vuốt ve, mơn trớn, yêu đương của chàng. Nàng bảo:
- Em nhớ anh vô cùng.
Một giọng đàn ông xen vào đường dây:
- Xin lỗi đại tá. Chúng tôi sắp phải cắt máy bây giờ.
- Đại tá ư?
- Thế mà anh không cho em biết là anh đă được vinh thăng.
- Anh ngại em sẽ băn khoăn lo lắng cho anh.
- Trời, anh yêu, em mà…
Tiếng gào của biển cả mỗi lúc một to hơn rồi đột nhiên im lặng, đường dây đă ngưng hoạt động. Catherine ngồi ở bàn, trừng trừng ngó nh́n vào máy điện thoại. Sau đó nàng gục xuống cánh tay, bật khóc nức nở.
Mười phút sau, giọng Fraser vang lên trong máy nội đàm.
- Cathy, tôi đă chuẩn bị xong rồi, đang đợi cô đây - Ông nói.
- Giờ th́ em rất sẵn sàng - Nàng vui vẻ đáp - Cho em mười phút chuẩn bị nhé.
Nàng mỉm cười nồng nhiệt khi nghĩ đến việc Fraser vừa mới thực hiện và chắc hẳn ông đă tốn rất nhiều công sức mới làm được như vậy. Ông là người thân yêu nhất trên đời mà nàng từng biết. Tất nhiên là phải xếp sau Larry rồi.
Catherine thường tưởng tượng quá nhiều đến ngày về của Larry cho nên chính cái ngày về đó lại trở nên quá b́nh thường. Bill Fraser giải thích cho nàng hay rằng Larry có thể trở về trên một chuyến máy bay vận tải hàng không hoặc cũng có thể là một máy bay MATS mà những chuyến bay này không có giờ giấc cố định như lịch bay của hăng hàng không thương mại. Chàng có thể cứ lên phắt một chuyến máy bay nào đó, rồi bất chấp sự việc ǵ xảy ra, không cần biết đường bay sẽ đi tới đâu miễn là bay đúng theo hướng chính đă định.
Catherine ngồi ở nhà suốt cả ngày để đợi chờ Larry. Nàng cố đọc sách song hồi hộp quá không đọc nổi. Nàng ngồi lại, nghe tin tức qua đài phát thanh và nghĩ đến việc Larry trở về, lần này chàng sẽ về vĩnh viễn. Tới nửa đêm vẫn chưa thấy tăm hơi chàng đâu. Đến hai giờ sáng, Catherine không c̣n căng mắt được nữa, nàng đă ngủ thiếp đi.
Nàng bị một bàn tay nắm lấy cánh tay nàng, lay nàng dậy và khi nàng mở mắt ra th́ chàng đang đứng đó. Larry của nàng đang đứng đó, cúi xuống nh́n nàng, bộ mặt đen xạm, gầy guộc nở toét một nụ cười và như một tia chớp Catherine lao ngay vào ṿng tay chàng. Mọi lo âu, cô đơn, buồn phiền của bốn năm trời đă tan hết sạch trơn giữa niềm vui tràn trề như sóng lớn, dường như thấm đến từng đường gân thớ thịt trên cơ thể nàng. Nàng gh́ chặt lấy chàng cho đến khi nàng có thể làm gẫy xương nàng mới thôi. Nàng muốn cứ như thế này măi không bao giờ cho chàng ra đi lần nữa.
- Nghỉ chút đă, em nhé - Cuối cùng Larry bảo. Chàng đẩy nàng ra xa nụ cười vẫn c̣n tươi rói trên môi.
- Báo chí mà viết như thế này th́ nghe ra ngộ thật đấy chứ: "Phi công chiến đấu trở về nhà an toàn, song lại bị vợ ôm gh́ đến chết ngạt".
Catherine bật hết đèn lên, không sót một ngọn nào, làm cho căn pḥng sáng trưng để nàng có dịp nh́n ngắm chiêm ngưỡng nuốt chửng lấy chàng. Khuôn mặt chàng lại có thêm một vẻ trưởng thành mới. Quanh khóe mắt và miệng chàng đă xuất hiện những đường nhăn mà trước đây không hề có. Ấn tượng này lại khiến chàng thêm đẹp trai hơn.
Catherine lắp bắp nói:
- Em muốn đi đón anh quá, song không biết đón ở đâu. Em có gọi cho Phi đoàn song họ không cho em biết một tin tức ǵ v́ vậy em phải ngồi đợi ở nhà và thế là…
Larry tiến đến sát nàng và chặn lời nói giữa chừng của nàng bằng một chiếc hôn. Chiếc hôn mạnh mẽ về thể xác đối với chàng song nàng ngạc nhiên v́ nhận ra việc làm này không phải như vậy. Nàng rất yêu Larry song nếu nàng chỉ ngồi đó chuyện tṛ với chàng nàng thấy càng hài ḷng hơn chứ không phải làm chuyện ân ái như nàng đang háo hức đ̣i hỏi. Nàng đă chôn vùi những cảm xúc t́nh dục lâu quá rồi đến mức chúng bị chôn chặt quá sâu và phải mất một số thời gian mới có thể khơi dậy và lôi chúng ra được. Song Larry không cho nàng có đủ th́ giờ làm việc đó. Chàng giật phăng quần áo nàng ra, mà bảo:
- Cathy, lạy Chúa, em không biết là anh mong chờ giây phút này như thế nào. Anh phát điên lên được. Bây giờ gặp lại em, anh thấy em c̣n xinh đẹp hơn h́nh ảnh anh ghi nhớ rất nhiều.
Nàng có cảm giác như một kẻ xa lạ đẩy nàng lăn ra giường, và thật đáng tiếc là Larry không cho nàng đủ th́ giờ để làm quen với cảnh chàng có mặt trong nhà. C̣n Larry không qua những động tác chuẩn bị trước, cứ xấn xổ làm tới mà nàng biết là nàng chưa chuẩn bị ǵ cho chàng, nàng cắn tay để khỏi bật lên tiếng khóc.
- Thế là chồng nàng đă về nhà.
Một tháng liền sau đó, do ân sủng của Fraser, Catherine đă được vắng sở để ở nhà. Nàng cùng Larry hầu như lúc nào cũng cặp kè bên nhau. Nàng nấu cho chàng ăn tất cả những món chàng thích, họ cùng nhau nghe đĩa hát rồi ngồi tṛ chuyện liên miên không dứt cố để bù đắp những khoảng trống của những năm họ đă bị mất mát.
Tối tối họ đi dự tiệc tùng, đi nhà hát và khi về đến nhà, họ lại cho nhau những ân ái vợ chồng. Bây giờ thân xác nàng đă sẵn sàng dành cho chàng và nàng lại phát hiện ở chàng một người t́nh đầy hấp dẫn như ngày xưa. Song vẫn gần như xưa thôi.
Nàng không dám thừa nhận dù chỉ là với bản thân nàng, song nàng thấy Larry đă có thay đổi thế nào đó, khó xác định nổi. Chàng chỉ đ̣i hỏi nhiều mà ít chiều chuộng nàng. Trước khi ân ái vẫn có những chuẩn bị, song chàng làm như một cái máy, tuồng như đó là nghĩa vụ phải làm trước khi chàng lao vào cuộc tấn công. Và đó là một cuộc tấn công man thú, một cuộc chiếm đoạt dữ dội, như cơ thể chàng t́m đến sự trả thù về một chuyện ǵ đó, trừng phạt việc ǵ đó. Cứ mỗi lần họ làm xong th́ Catherine cảm thấy thâm tím, đau nhừ người như nàng vừa qua một trận đ̣n. Nàng biện hộ cho chàng rằng có lẽ nguyên nhân là v́ đă lâu chàng không đi lại với một người đàn bà nào.
Ngày trôi qua, chuyện ân ái của chàng vẫn thế và cũng chính v́ vậy mà cuối cùng Catherine chỉ mong mỏi có những sự thay đổi ở Larry. Nàng cố t́m hiểu chàng một cách b́nh tĩnh, cố quên đi một sự kiện rằng chàng là người chồng mà nàng vẫn yêu quư. Nàng nhận thấy đây là một người đàn ông cao lớn, vững chăi, tóc đen với đôi mắt đen và sâu, một khuôn mặt đẹp đáng sợ. Song có lẽ không nên dùng chữ "đẹp" vào chỗ này. Những đường hằn quanh miệng đă làm cho vẻ mặt của chàng thêm thô ráp. Khi nh́n con người xa lạ này, Catherine thường nghĩ. Đây có thể là một con người ích kỷ, tàn nhẫn, lạnh lùng. Tuy nhiên nàng lại tự nhủ rằng nàng đang có một nhận định lố bịch. Đây là chàng Larry đáng yêu tốt bụng và sâu sắc cơ mà.
Nàng rất hănh diện khi giới thiệu chàng với tất cả các bạn bè của nàng và những người cùng làm với nàng, tuy nhiên họ có vẻ chỉ quấy rầy chàng mà thôi. Trong các buổi tiệc chàng thường lẩn tránh ra xa một góc và cả buổi tối chỉ uống rượu. Catherine có cảm giác rằng chàng không muốn cố gắng thân mật chan hoà với mọi người. Một buổi tối nàng cố tranh căi với chàng về chuyện này th́ bị chàng quật lại:
- Việc ǵ phải như vậy. Lúc anh phải giơ "gáo" ra cho chúng phạt th́ tất cả cái lũ béo ú này đang chui lẩn ở đâu vậy.
Đôi ba lần Catherine có đề cập đến việc Larry dự định sẽ làm ǵ trong tương lai. Nàng tưởng rằng chàng muốn ở lại trong Phi đoàn Không quân, song không ngờ việc làm đầu tiên của Larry sau khi chàng trở về là chàng xin được giải ngũ.
- Quân đội là nơi dành cho bọn nịnh bợ. Người ta chỉ có mỗi một lối thoát là đi xuống - Chàng nói.
Hầu như vẫn cái phong cách nhạo đời như trong lần đầu tiên nàng nói chuyện với chàng tại Hollywood. Chỉ khác là lúc đó chàng nói bông đùa.
Catherine phải t́m cách trao đổi việc này với ai đó, và cuối cùng nàng quyết định nói chuyện với Bill Fraser.
Nàng thuật lại cho ông nghe những sự việc đang làm nàng băn khoăn, tất nhiên không đề cập đến những chuyện riêng tư kia. Fraser động viên:
- Nếu như em coi đây là một điều an ủi, th́ em cần nhớ rằng trên khắp thế giới này có hàng triệu phụ nữ cũng đang trải qua những điều như em trải qua lúc này. Chuyện này cũng đơn giản thôi, Catherine ạ. Em đang có một người chồng xa lạ đó thôi.
Catherine nh́n ông, không nói ǵ cả.
Fraser ngừng lại để nhồi thuốc vào tẩu rồi châm lửa hút.
- Em sẽ không thể hy vọng lấy lại được những ǵ em đă bỏ dở khi Larry ra đi cách đây bốn năm. Cái khoảng trống đó không c̣n tồn tại nữa. Em đi qua rồi mà Larry cũng qua rồi. Sự thành công của một cuộc hôn nhân một phần chính là do ở chỗ người chồng và người vợ có những kinh nghiệm chung với nhau. Họ trưởng thành bên nhau và cuộc hôn nhân của họ cũng trưởng thành. Em sẽ phải t́m kiếm lại mảnh đất chung cho cuộc tái ngộ này.
- Anh Bill ạ, ngay cả khi thảo luận chuyện đó em cũng cảm thấy không tự tin ở ḿnh.
Fraser mỉm cười, nhắc nàng:
- Anh biết em trước nhất. Em có nhớ không nhỉ?
- Em nhớ.
- Anh tin rằng Larry cũng có cách riêng của anh ấy. Anh ấy đă sống chung với hàng ngàn đàn ông trong bốn năm trời và bây giờ lại phải tập làm quen với việc sống bên một người phụ nữ.
Nàng mỉm cười:
- Những điều anh nói ra đều đúng cả. Lẽ ra em phải được nghe người khác góp ư cho như vậy.
Fraser nhận xét:
- Ai cũng có những lời khuyên hữu ích để chăm sóc cho người bị thương tổn, song có những vết thương không bộc lộ ra ngoài. Đôi khi nó lắng vào trong. - Ông nh́n thẳng vào mắt Catherine, rồi nói thêm rất nhanh - Tôi không có ư ám chỉ chuyện ǵ nghiêm trọng đâu mà chỉ muốn nói về những nỗi kinh hoàng mà những người lính chiến đấu thường trải qua. Trừ phi con người ta hoàn toàn điên khùng không nói làm ǵ, c̣n th́ nhất định sự kinh hoàng để lại một hiệu quả to lớn đối với thế giới quan của người ta. Cô có hiểu tôi định nói ǵ không?
Catherine đáp:
- Em hiểu. Song vấn đề ở đây là ảnh hưởng như thế nào?
Cuối cùng Catherine trở lại sở làm việc, mọi người ở công ty gặp lại nàng đều hết sức mừng rỡ. Trong ba ngày đầu trở lại làm việc nàng hầu như chỉ rà soát lại các chương tŕnh vận động, mở những tài khoản mới và nắm lại các tài khoản cũ. Nàng làm việc từ sáng sớm tới khuya để bù lại những thời gian đă mất, sách nhiễu những người viết quảng cáo và các hoạ sĩ phác thảo và thuyết phục các khách hàng dao động. Nàng rất có khiếu trong công tác bởi nàng cũng yêu thích công việc này.
Tối tối Larry thường đợi Catherine trở về nhà. Lúc đầu nàng c̣n hỏi han xem lúc nàng đi vắng chàng làm những công việc ǵ, song dần dần câu trả lời của chàng lúc nào cũng chung chung và cuối cùng nàng cũng thôi không hỏi nữa. Chàng dựng nên một bức tường và nàng không biết làm cách nào để xuyên qua được. Chàng lấy làm phật ư hầu như với bất kỳ chuyện ǵ mà Catherine nói ra, thế rồi họ thường xuyên căi vă v́ những chuyện không đâu vào đâu. Thỉnh thoảng họ ăn tối với Fraser và nàng luôn luôn cố hết sức ḿnh để làm sao những buổi tối này được thú vị và vui vẻ khiến cho Fraser khỏi nghĩ đến việc gia đ́nh nàng đang có ǵ không ổn.
Song Catherine phải đối diện với một sự thật là đang có chuyện ǵ đó rất phiền toái. Nàng cảm thấy một phần là do nàng đă thất bại. Nàng vẫn c̣n yêu Larry. Nàng yêu h́nh dáng của chàng, yêu cái cảm giác về chàng và cả những hồi ức cũ về chàng song nàng nhận thấy rằng nếu như chàng cứ tiếp tục nhù vậy t́nh h́nh sẽ đưa cả hai người đến chỗ tan vỡ.
Lúc này nàng đang ngồi ăn trưa với William Fraser:
- Larry thế nào? - Ông hỏi.
Phản xạ không điều kiện kiểu Pavlov thúc đẩy nàng trả lời liền là "tốt", sau đó nàng ngừng lại và đáp hững hờ:
- Anh ấy cần một việc làm.
Fraser ngả người ra sau, gật đầu:
- Anh ấy có thấy buồn bực khi không có việc ǵ làm không?
Nàng ngập ngừng, song không muốn nói dối ông.
- Anh ấy chẳng thích làm ǵ cả - Sau đó thận trọng nói thêm - Cần phải t́m một việc thích hợp.
Fraser chăm chú quan sát nàng, cố t́m ra ư nghĩa thực sự đằng sau những lời nàng nói.
- Cậu ấy có thích làm phi công không?
- Anh ấy không muốn trở lại không quân nữa.
- Tôi đă nghĩ đến khả năng làm cho một hăng hàng không. Tôi hiện có một người bạn đang điều hành hăng Pan American. Được một phi công giàu kinh nghiệm như cậu ấy th́ họ may mắn lắm đấy.
Catherine ngồi ngẩn người ra suy nghĩ về chuyện này, nàng cố đặt ḿnh vào địa vị Larry. Chàng yêu nghề lái máy bay hơn bất cứ chuyện ǵ trên đời. Nàng đáp thận trọng:
- Nghe ra… cũng hay đấy. Liệu anh có thể kiếm việc đó cho anh ấy không, anh Bill?
- Để tôi cố thử xem. Nhưng trước hết cô hây thăm ḍ Larry đi để xem cậu ấy phản ứng ra sao.
- Vâng, em sẽ làm - Catherine nắm lấy tay ông, tỏ vẻ biết ơn - Cảm ơn anh rất nhiều.
- Về chuyện ǵ? - Fraser hỏi lại, hững hờ.
- Về chuyện anh luôn luôn có mặt mỗi khi em cần đến anh.
Ông đặt tay lên bàn tay nàng:
- Trong phạm vi của anh mà thôi.
Tối hôm đó, khi Catherine thuật lại cho Larry về điều Bill Fraser gợi ư, chàng bảo:
- Từ hôm anh về đến giờ mới được nghe một ư kiến hay như vậy.
Và hai ngày sau chàng có cuộc tiếp kiến với Carl Eastman tại trụ sở của hăng Pan American ở Manhattan.
Catherine đă là lại một bộ com lê cho Larry, chọn một chiếc sơ mi, một chiếc cà vạt và đánh bóng đôi giày của chàng cho đến khi gần như soi gương được trên lớp da giày mới thôi.
- Anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay để cho em biết t́nh h́nh ra sao.
Chàng hôn nàng, nở một nụ cười ngây thơ kiểu cười của chàng rồi bỏ đi.
Catherine nghĩ: Larry vẫn giống như một đứa trẻ. Chàng có thể hay nóng nảy, cáu bẳn, song chàng vẫn là người đáng yêu và hào hiệp. Ḿnh thật là hên - Catherine thở phào - Ḿnh đáng ra phải là một người hoàn hảo nhất trên đời.
Trước mắt nàng đang có một chương tŕnh làm việc bận rộn, song nàng không hề nghĩ được ǵ khác ngoài Larry và cuộc gặp gỡ của chàng. Đây không chỉ đơn thuần là một công việc. Nàng có cảm giác rằng toàn bộ cuộc hôn nhân của nàng phụ thuộc vào những ǵ sắp xảy ra.
Ngay hôm đó là một ngày dài nhất trong cuộc đời nàng.
                                                        ***
Trụ sở của Pan American đặt trong một cao ốc hiện đại ở Đại lộ số Năm và Phố số Năm mươi ba. Văn pḥng của Carl Eastman rộng răi, với đồ đạc tiện nghi. Rơ ràng ông ta giữ một địa vị quan trọng trong hăng:
Khi Larry bước vào pḥng, ông ta chào hỏi:
- Xin mời vào, mời ông ngồi.
Eastman khoảng ba mươi lăm tuổi, đầu cắt gọn, má hơm, đôi mắt xanh xoi mói không bỏ qua chi tiết nào. Ông ta đưa Larry tới một chiếc tràng kỷ sau đó ngồi xuống chiếc ghế tựa đối diện với chàng.
- Ông dùng cà phê?
- Không, xin cảm ơn - Larry đáp.
- Tôi biết là ông muốn làm việc cho hăng chúng tôi.
- Vâng, nếu ở đây có chỗ trống.
- Hiện đang có chỗ khuyết - Eastman đáp - Nhưng có đến một ngàn chàng dô kề cao ngỏng đâm đơn vào - Ông lắc đầu ảo năo - Thật khó mà tin được. Ngành Không quân đào tạo ra hàng ngàn thanh niên thông minh để đi lái những loại máy bay hết sức phức tạp từ trước đến nay. Rồi đến khi họ làm được việc, mà làm rất tốt nữa kia th́ Không quân lại sa thải họ, không tạo cho họ việc ǵ để làm nữa - Ông ta thở dài - Khó mà tin được những người lũ lượt kéo tới đây suốt một ngày. Không thiếu ǵ những phi công cự phách, loại "át chủ" như ông. Chỉ có một chỗ khuyết mà có một ngàn đơn đâm vào… và tất cả các hăng hàng không khác cũng đang diễn ra một t́nh trạng như vậy.
Larry cảm thấy thất vọng tràn trề:
- Thế tại sao ông c̣n hẹn gặp tôi? - Chàng hỏi xẵng.
- V́ hai lư do. Một là cái ông ở trên kia bảo tôi phải làm.
Larry thấy giận bừng bừng.
- Tôi không cần…
Eastman ngả người về phía trước:
- Thứ hai là v́ ông có thành tích bay rất cừ.
- Cảm ơn - Larry đáp hờ hững.
Eastman quan sát kỹ chàng:
- Ông sẽ qua một chương tŕnh đào tạo tại đây. Sự thể cũng giống như trở lại nhà trường ấy.
Larry lưỡng lự, không biết là câu chuyện đang đi về đâu.
- Xem chừng cũng được - Chàng thận trọng đáp.
- Ông sẽ dự lớp huấn luyện ở New York, ngoại ô La Guardia.
Larry gật đầu, chờ đợi.
- Sẽ có bốn tuần học ở trường dưới đất, sau đó một tháng huấn luyện bay.
- Vậy là lái loại DC-4 sao? - Larry hỏi.
- Chính thế. Bao giờ xong lớp huấn luyện, chúng tôi sẽ trả cho ông ba trăm năm mươi đô-la hàng tháng.
Thế là chàng đă có việc làm. Gă khốn nạn này đă đưa ra hàng ngàn phi công xếp hàng sau chàng để doạ chàng. Nhưng chàng vẫn có việc làm rồi? Chàng lo lắng về chuyện ǵ kia chứ? Không một phi công nào trong cái binh chủng Không quân khốn khiếp kia có được một thành tích cao hơn chàng cơ mà.
Larry cười ngượng:
- Ông Eastman, tôi bắt đầu bằng công việc hoa tiêu cũng không sao, song nên nhớ tôi là phi công. Thế bao giờ th́ bắt đầu.
Eastman thở dài:
- Các hăng máy bay đang được hợp nhất. Cách duy nhất để cho người ta tiến lên là phải có nhiều thâm niên. Phía trước anh c̣n rất nhiều người. Anh có muốn thử không?
Larry gật đầu:
- Tôi có ǵ để mất đâu?
- Đúng thế - Eastman nói - Tôi sẽ thu xếp mọi thủ tục cho anh. Tất nhiên anh sẽ phải qua kiểm tra sức khoẻ.
- C̣n vấn đề ǵ nữa không?
Larry cười:
- Bọn Nhật không phát hiện ra ở tôi một thiếu sót nào.
- Sớm nhất th́ đến bao giờ anh có thể đi làm?
- Ngay chiều nay có sớm quá không?
- Thôi để thứ hai nhé - Eastman viết cái tên lên một tấm thiếp rồi trao cho Larry - Đây. Họ sẽ đợi anh vào lúc chín giờ sáng thứ hai tới.
Larry gọi điện cho Catherine kể lại cho nàng về cái tin vừa qua, song giọng nói của chàng quá xúc động khiến Catherine không hiểu ǵ một hồi lâu. Nàng nhận thấy rằng mọi chuyện sẽ đâu vào đó.


Chương 13

NOELLE
Athens, 1946


Constantin Demiris có cả một máy bay để sử dụng riêng song niềm tự hào của ông đặt vào chiếc Hawker Siddeley có thể chở được mười sáu hành khách với những tiện nghi sang trọng, bay với tốc độ ba trăm dặm một giờ và có một đội bay bốn người. Có thể gọi đó là một toà lâu đài bay cũng đúng, Ferderick Sawrin đă phụ trách việc trang trí nội thất, c̣n Chagall vẽ những tranh trang trí trên tường. Thay vào chỗ những chiếc ghế máy bay thông thường là những ghế bành và những divan tiện lợi đặt khắp trong ca bin. Ngăn phía sau được biến đổi thành một pḥng ngủ sang trọng. Phía trước, ngay sau buồng lái là một căn bếp hiện đại. Mỗi khi Demiris hoặc Noelle đi trên máy bay đều có một đầu bếp đi theo.
Demiris đă chọn tuyển những phi công riêng của ông trong đó có một người Hy Lạp tên là Paul Metaxas và một cựu phi công chiến đấu trong không quân Hoàng gia người Anh tên là Ian Whitestone. Metaxas là một người lùn mập dễ thương, trên môi luôn luôn nở một nụ cười cởi mở, dễ lây sang người khác. Anh vốn là một thợ máy rồi bằng con đường tự học đă biết lái máy bay và phục vụ trong không quân Hoàng gia Anh, chiến đấu trên đất Anh, tại đây anh đă gặp Ian Whitestone. Whitestone người cao, tóc đỏ hoe, gầy g̣ đến thảm hại, tính t́nh khó khăn như một ông hiệu trưởng bước vào ngày đầu tiên của học kỳ mà lại ở một trường học hạng hai cho những học tṛ con trai cứng đầu cứng cổ. Song khi lên trời, Whitestone là một người khác hẳn. Anh có một kỹ năng tự nhiên hiếm có của một người phi công bẩm sinh, một giác quan mà không bao giờ có thể ai dậy hoặc học được. Whitestone và Metaxas đă bay cùng nhau ba năm trời chiến đấu với Không quân Đức Luffwaffe và người nọ đều trân trọng đánh giá cao người kia.
Noelle thường đi những chuyến đi trên chiếc phi cơ lớn này, đôi khi đi công chuyện với Demiris, cũng có khi chỉ để du hư. Nàng đă làm quen với phi công song không hề chú ư đặc biệt đến họ.
Thế rồi một hôm nàng nghe lỏm được câu chuyện họ ôn lại một việc đă xảy ra hồi họ trong không quân Hoàng gia.
Từ phút đó trở đi Noelle bỏ ra một phần thời gian trên một chuyến bay để vào trong buồng lái tṛ chuyện với hai phi công hoặc mời một trong hai người ra ngồi với nàng trong ca bin. Nàng gợi cho họ kể lại những chuyện chiến đấu cũ, và tuy không bao giờ trực tiếp đặt ra câu hỏi song dần dần nàng biết được Whitestone đă từng là sĩ quan liên lạc trong phi đội của Larry Douglas trước khi chàng từ biệt không quân Hoàng gia, c̣n Metaxas măi sau này mới gia nhập phi đoàn nên không gặp Larry. Noelle bắt đầu tập trung vào viên phi công người Anh.
Thấy cô bồ của ông chủ quan tâm động viên, khuyến khích và tâng bốc, Whitestone kể lể thoải mái về quăng đời trước đây và những dự kiến trong tương lai. Anh ta kể với Noelle rằng anh ta thường quan tâm đến ngành điện tử. Người anh rể của anh ta mở một hăng điện tử nhỏ ở Úc và muốn Whitestone sang tham gia, song Whitestone thiếu vốn liếng.
Anh ta vừa nói vừa cười với Noelle:
- Cứ như cách sống của tôi bây giờ, th́ đến mạt kiếp tôi cũng không có tiền.
Noelle vẫn tiếp tục viếng thăm Paris mỗi tháng một lần để gặp Christian Barbet. Barbet đă thiết lập quan hệ với những hăng thám tử tư ở Washington, cho nên những bản tường tŕnh về Larry Douglas đổ về liên tục. Để thử Noelle, gă thám tử người nhỏ con đề nghị được gửi các bản tường tŕnh cho nàng tại Athens, song nàng bảo là nàng thích đến tận nơi để nhận. Barbet gật đầu ranh mănh, rồi nói bằng giọng của kẻ đồng loă.
- Tôi hiểu, thưa cô Page.
Vậy là nàng không muốn cho Constantin Demiris biết rằng nàng quan tâm tới gă Larry Douglas. Những khả năng tống tiền chập chờn trong đầu óc Barbet.
Noelle bảo:
- Ông Barbet, ông là người rất đắc lực. Và cũng rất kín đáo.
Y cười toe toét:
- Cảm ơn cô Page. Nghề của tôi là phải kín đáo mà.
- Đúng thế - Noelle đáp - Tôi biết rằng ông rất kín đáo bởi Constantin Demiris chưa hề bao giờ nhắc đến tên ông cho tôi biết. Chừng nào ông ta nhắc tới ông th́ tôi cũng sẽ lập tức yêu cầu ông ta tiêu diệt ông ngay.
Giọng của nàng vẫn b́nh thản, dễ thương, song hiệu quả của nó mạnh như một trái bom nổ.
Ông Barbet choáng váng trợn tṛn mắt nh́n nàng một lúc lâu liếm đôi môi. Ông ta lo lắng lấy tay găi bụng rồi lắp bắp:
- Tôi… tôi xin đảm bảo với tiểu thư rằng tôi… tôi sẽ không… không bao giờ.
- Tôi tin là ông sẽ không làm như thế - Noelle đáp xong, bỏ ra về.
Trên chuyến bay thương mại đưa nàng trở lại Hy Lạp, Noelle đọc bản tường tŕnh mật đặt trong chiếc phong b́ bằng giấy gai có gắn xi:
"HĂNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 phố "D"
Washington, D.C.
Về việc: 2-179-210 ngày 2 tháng Hai 1946
Ông Barbet kính mến
Một trong số các cộng tác viên của hăng chúng tôi đă nói chuyện với một nhân viên mới ở pḥng nhân sự của hăng Pan American, được biết: Đối tượng được coi là một phi công chiến đấu tài nghệ, tuy nhiên họ đang thắc mắc liệu anh ta có đủ tính kỷ luật để làm việc tốt trong một hăng lớn có tổ chức chặt chẽ hay không.
Cách sống trong đời tư của đối tượng vẫn giống như t́nh h́nh chúng tôi đă tường thuật trước đây. Chúng tôi đă theo y đến những ngôi nhà của nhiều người đàn bà khác nhau mà y cặp bồ. Tại đó y thường dừng lại từ một giờ đến lâu nhất là năm giờ, và chúng tôi giả định rằng y có hàng loạt quan hệ tính giao với những người phụ nữ đó (Nếu ông cần biết th́ tên và địa chỉ của họ có trong hồ sơ).
Về vấn đề công việc mới của đối tượng, có thể lối sống này sẽ phải thay đổi. Chúng tôi sẽ theo dơi nếu phía ông có yêu cầu.
Chúng tôi xin gửi kèm theo đây giấy thanh toán.
Rất trân trọng.
R. Ruttengerg Giám đôc quản trị"
.
Noelle đặt bản tường tŕnh trở lại phong b́, rồi ngả người về phía sau ghế, nhắm mắt lại. Nàng h́nh dung ra Larry, một cơn người hoạt động, không lúc nào chịu ngồi yên, lấy phải một phụ nữ mà chàng không yêu và bị kẹt trong cái bẫy mà miếng mồi chính là nhược điểm của chàng.
Công việc mới của chàng ở hăng máy bay kia có thể làm tŕ hoăn kế hoạch của nàng một chút, song nàng biết kiên nhẫn chờ đợi. Sẽ đến lúc nàng đem Larry trở lại với nàng. Trong lúc này có những bước đi mà nàng phải tiến hành dần dần.
Ian Whitestone rất thích thú khi được mời ăn trưa với Noelle Page. Lúc đầu anh ta lấy làm đắc ư v́ cho rằng nàng đă say anh ta, thế nhưng tất cả những cuộc gặp gỡ của họ đều diễn ra một cách dễ chịu song rất nghiêm túc khiến anh ta hiểu rằng thân phận anh chỉ là kẻ làm thuê, c̣n nàng là một tiểu thư khuê các không đụng tới được. Anh thường băn khoăn không rơ Noelle cần ǵ ở ḿnh. Whitestone là một người thông minh cho nên anh có một cảm giác kỳ lạ rằng những cuộc chuyện tṛ bâng quơ giữa họ h́nh như có ư nghĩa nhiều đối với nàng hơn là đối với anh.
Trong cái ngày đặc biệt này, Whitestone và Noelle đă đi ô tô tới một thị trấn nhỏ bên bờ biển gần Cafe Sumon.
Họ ăn trưa tại đây, Noelle mặc một chiếc áo trắng mùa hè và đi dép. Mái tóc vàng hoe mềm mại của nàng bay phất phơ, nàng đẹp hơn bất kỳ lúc nào. Ian Whitestone đă đính hôn với một cô người mẫu ở London, cô khá xinh, song vẫn không thể sánh với Noelle được. Whitestone chưa từng gặp một cô gái nào xinh đẹp bằng nàng, anh thấy ghen với Constantin Demiris, song dường như Noelle chỉ gợi lên ở anh những thèm muốn ngày trước mà thôi. Khi Whitestone đi cùng với nàng, anh cảm thấy hơi ngại ngùng. Bây giờ Noelle quay lại với đề tài về những dự định tương lai của anh và đây không phải là lần đầu tiên, anh thắc mắc không biết có phải là theo lệnh của Demiris mà nàng đi sâu t́m hiểu để phát hiệu xem anh có trung thành với ông chủ của ḿnh hay không.
- Tôi yêu thích công việc của tôi lắm - Người phi công già khẳng định một cách nhiệt thành với Noelle - Tôi muốn giữ công việc này cho đến chừng nào tôi già quá không c̣n biết ḿnh bay đi đâu nữa.
Noelle quan sát anh một lúc và nhận ra những điều anh đang nghi hoặc.
- Tôi thật thất vọng - Nàng buồn bă bảo - Tôi tưởng anh có những hoài băo lớn hơn kia.
Whitestone đăm đăm nh́n nàng:
- Tôi không hiểu.
- Anh chẳng đă từng nói với tôi rằng một ngày nào đó anh muốn có riêng một công ty điện tử cơ mà?
Anh đă t́nh cờ nhắc đến chuyện đó với nàng, thật không ngờ nàng vẫn nhớ măi.
- Đó cũng chỉ là một giấc mơ viển vông - Anh đáp - Phải có nhiều tiền lắm mới nổi.
Noelle đáp:
- Một người với khả năng như anh không nên để cho t́nh trạng túng quẫn chặn đứng sự nghiệp.
Whitestone ngồi ngây người, băn khoăn không biết Noelle Page đang chờ đợi anh phát biểu ǵ đây. Anh không thích công việc của ḿnh. Anh đang kiếm được nhiều tiền hơn bất kỳ lúc nào trong cuộc đời, giờ giấc làm việc thuận lợi, công việc rất thú vị. Song mặt khác, anh lại phải ngồi ở một xó nhà mà chờ đợi gă tỉ phú tính t́nh kỳ cục đ̣i tới. Gă ta lúc nào cũng bắt anh phải sẵn sàng có mặt bất kể giờ giấc nào, bất kể ban ngày hay ban đêm. Đời sống cá nhân của anh coi như địa ngục rồi c̣n ǵ. Và người vợ chưa cưới của anh chẳng thích thú ǵ với công việc anh làm, dù lương bổng có hậu hĩnh hay không.
- Tôi đă nói chuyện với một người bạn tôi về anh. Ông ta thích đầu tư vào các công ty mới.
Nàng cố kiềm chế giọng nói không tỏ ra vồ vập. Nàng quá hồi hộp trước điều nàng sắp nói ra, nhưng lại phải thận trọng để khỏi đẩy anh ra quá xa. Whitestone ngước mắt lên, bắt gặp cái nh́n của nàng.
- Ông ấy rất quan tâm đến anh - Nàng nói tiếp.
Whitestone nuốt nước bọt.
- Tôi… tôi không biết nói sao đây, thưa cô Page.
- Tôi không trông chờ anh phải nói điều ǵ lúc này - Noelle khẳng định với anh như vậy - Tôi chỉ mong anh suy nghĩ về việc đó.
Anh ta ngồi lặng một lúc, suy tính, cuối cùng hỏi:
- Thế ông Demiris có biết chuyện này không?
Noelle mỉm cười đồng loă:
- Tôi e rằng ông Demiris sẽ không bao giờ tán thành. Ông ấy không muốn bị mất những người làm, đặc biệt là những người làm đắc lực. Tuy nhiên… - Nàng ngừng một chút - … theo tôi th́ một người như anh sẽ phải toàn tâm toàn ư cả một đời với công việc. Tất nhiên phải trừ trường hợp anh muốn tiếp tục làm việc với một ai khác trong phần c̣n lại của đời ḿnh.
- Tôi không thể.
Whitestone nói rất nhanh rồi bất ngờ anh nhận ra rằng ḿnh đă để lộ ư nghĩ của ḿnh. Anh lại quan sát kỹ nét mặt Noelle để xem có biểu hiện ǵ tỏ ra đây là một cái bẫy hay không, song anh chỉ nhận thấy một sự hiểu biết đầy thông cảm.
- Bất kỳ người nào có bản lĩnh đều muốn làm chủ công việc của ḿnh - Anh chống chế như vậy.
- Tất nhiên - Noelle tán thành - Anh cứ suy nghĩ thêm đi chúng ta sẽ trao đổi lại sau - Rồi nàng cảnh cáo thêm - Chuyện này chỉ giữa chúng ta thôi đấy.
- Được thôi - Whitestone đáp - Xin cảm ơn cô. Nếu sự việc tiến triển tốt th́ thật thú vị.
Noelle gật đầu:
- Tôi có cảm giác là mọi việc sẽ tiến triển tốt.

Chương 14

CATHERINE
Washington 1946


Lúc chín giờ sáng thứ Hai Larry Douglas đến tŕnh diện với phi công trưởng, đại uư Hai Sakowits tại văn pḥng của hăng Pan American ở sân bay La Guardia ở New York. Khi Larry bước vào cửa, Sakowits nhặt bản sao lư lịch quân nhân của Larry mà ông ta đă nghiên cứu kỹ lâu nay, rồi ấn vội nó vào trong ngăn kéo bàn.
Đại uư Sakowits là một người chắc nịch, nét vẻ gồ ghề, mặt đầy sẹo, đượm vẻ phong trần, đôi bàn tay rất to, Larry chưa từng thấy ai có bàn tay như thế bao giờ, Sakowits quả là một trong những tay lăo tướng trong ngành hàng không.
Ông bắt đầu vào nghề từ những ngày c̣n những đội phi cơ du hành, bay các máy bay đưa thư một động cơ cho chính phủ, đă từng làm phi công dân sự trong hai chục năm trời và là phi công trưởng của Pan American trong năm năm qua.
- Tôi rất vui mừng được thấy anh đến cộng tác với chúng tôi, anh Douglas ạ - Ông ta nói.
- Tôi cũng lấy làm mừng được có mặt tại đây - Chàng đáp.
- Anh nóng ḷng được lên lại máy bay chứ ǵ?
- Ai cần máy bay nào? - Larry toét miệng cười - Cứ chỉ tôi lên trời, tôi sẽ cất cánh ngay lập tức.
Sakowits chỉ một chiếc ghế tựa.
- Mời ngồi. Tôi rất muốn làm quen với các bạn trẻ đến dây để thế chân cho tôi.
Larry cả cười:
- Ông lại khéo đuổi tôi.
- Ồ, tôi không trách bất kỳ ai trong số các anh. Các anh đều là những loại phi công liều mạng, các anh có thành tích chiến đấu, khi bước vào đây đều nghĩ rằng "nếu thằng già Sakowits này có thể làm phi công trưởng th́ người ta phải cho ḿnh làm chủ tịch Ban điều hành mới đáng". Không có một anh nào dự định làm hoa tiêu lâu. Đây chỉ là một bước đệm để tiến đến vị trí phi công. Cũng được. Con đường đi phải như thế!
- Tôi rất mừng v́ ông nói ra như vậy - Larry nói.
- Song có một điều anh cần phải biết trước, Larry ạ, tất cả chúng ta đều thuộc một liên đoàn và việc đề bạt phải tuân thủ chặt chẽ theo thâm niên công tác.
- Tôi hiểu.
- Điều duy nhất có thể là anh không hiểu nổi đó là v́ sao những công việc này rất "bẫm" và ngày một nhiều người lao vào hơn số rút ra. V́ thế khả năng được đề bạt giảm đi.
- Tôi sẽ t́m kiếm cơ hội - Larry đáp.
Cô thư kư của Sakowits mang cà phê và bánh ngọt vào, hai người c̣n ngồi chuyện tṛ, làm quen với nhau thêm một giờ nữa. Tác phong của Sakowits cởi mở, ôn tồn, nhiều câu hỏi của ông có vẻ vu vơ, vụn vặt, song đến khi ra về để đi dự giờ học đầu tiên, Sakowits đă biết được nhiều điều về Larry Douglas.
Larry vừa đi khỏi được mấy phút, Carl Eastman bước vào văn pḥng.
- Công việc thế nào? - Eastman hỏi.
- Tốt lắm.
Eastman nh́n ông chăm chú:
- Ông nghĩ thế nào, ông Sak?
- Chúng tôi thử thách anh ta.
- Tôi hỏi là ông nghĩ thế nào?
Sakowits nhún vai:
- Được thôi, tôi sẽ nói với ông. Theo tôi có lẽ y là một tay phi công cự phách. Với chiến tích như vậy th́ đích thị là cự phách rồi. Nếu đưa anh ta một chiếc máy bay, hàng đàn máy bay địch lao vào anh, tôi chắc sẽ không ai hơn được anh ta đâu - Ông ta ngập ngừng.
- Cứ nói tiếp đi - Eastman giục.
- Vấn đề ở đây là trên vùng trời Manhattan này không có những máy bay chiến đấu của địch. Tôi quen biết nhiều gă như Douglas v́ lư do ǵ tôi không rơ, cuộc đời của họ đă gắn với hiểm nguy. Họ làm nhiều việc điên rồ như trèo lên các đỉnh núi cao không ai leo lên được rồi nhào xuống biển, cũng có thể họ c̣n lao vào những nguy hiểm quái quỷ ǵ nữa chứ. Khi có chiến tranh nổ ra, họ nổi lên như lớp kem trong tách cà phê nóng rẫy - Ông ta xoay chiếc ghế ngồi, quay người nh́n ra ngoài cửa sổ.
Eastman đứng yên lặng chờ đợi.
- Anh Carl ạ, tôi có linh tính về Douglas. Rằng y có chuyện ǵ đó không ổn. Có lẽ nếu y là trưởng cơ của một chiếc máy bay hăng ta, y được lái, y có thể làm nên chuyện. Song tôi không tin rằng y có đủ phẩm cách tâm lư để chấp hành lệnh của một kỹ sư, một sĩ quan số một và của một phi công, đặc biệt khi y cho rằng y có thể bay giỏi hơn tất cả bọn họ.
Ông xoay lại, nh́n thẳng vào mặt Eastman:
- Và cái điều trớ trêu nhất lại là ở chỗ y có thể làm được.
- Anh làm tôi thấy băn khoăn đấy. – Eastman nói.
- Cả tôi nữa chứ - Sakowits thú thật - Tôi cho rằng y không… (ông ngừng lại, t́m một chữ cho đúng)… vững vàng. Khi nói chuyện với y, tôi có cảm giác y như một thùng thuốc nổ, sẵn sàng nổ tung lên.
- Thế ông muốn giải quyết ra sao?
- Chúng tôi đang làm đây. Y sẽ đến trường huấn luyện và chúng tôi sẽ theo dơi y chặt chẽ.
- Có thể y sẽ nhụt nhí. - Eastman nói.
- Anh chưa hiểu được loại người này. Y sẽ là gă đứng đầu lớp đấy.
Điều Sakowits dự đoán thật là chính xác. Khoá huấn luyện gồm bốn tuần lễ học trên mặt đất, sau đó thêm một tháng nữa tập bay. V́ các học viên đều đă từng là những phi công giàu kinh nghiệm đă có nhiều năm bay cho nên khoá học nhằm hai mục đích: trước hết là học các môn như hàng không, thông tin liên lạc, đọc bản đồ và học các thiết bị bay để cho các phi công có dịp ôn lại kiến thức cũ và xác định những thiếu sót của họ, mục đích thứ hai là giới thiệu cho họ làm quen với những thiết bị mới mà họ sắp phải sử dụng.
Môn thiết bị bay được tiến hành trên một thiết bị tập luyện. Đó là một buồng nhỏ có h́nh dạng buồng lái của máy bay, được đặt trên cái bệ chuyển động tạo những điều kiện cho người phi công ngồi trong khoang lái có thể điều khiển máy bay theo bất kỳ thao tác nào bao gồm động tác nhào tắt máy, nhào xoáy ốc, xoay tṛn và bay ṿng tṛn. Người ta đặt một nắp che màu đen trên đỉnh khoang lái để phi công không nh́n thấy ǵ trong khi bay và chỉ sử dụng những thiết bị trước mặt người phi công. Huấn luyện viên ở bên ngoài pḥng luyện tập sẽ ra mệnh lệnh cho người phi công, ra chỉ dẫn cho anh ta cất cánh và hạ cánh trong t́nh h́nh tốc độ gió mạnh, có băo tố, có những rặng núi trước mặt và cứ cách một lần lại đến một lần xuất hiện một nguy hiểm tưởng tượng phải giải quyết. Đa số các phi công ít kinh nghiệm khi mới bước vào pḥng luyện tập có cảm giác đầy tự tin, song ngay lập tức họ nhận ra rằng khoang luyện tập nhỏ bé khó thao tác hơn nhiều so với điều kiện người ta tưởng. Trong một buồng lái nhỏ người ta thấy xuất hiện một cảm giác cô đơn lạ lùng, họ cảm thấy bị tách rời hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài.
Larry là một học viên có năng khiếu. Chàng rất chăm chú nghe giảng trong lớp và lĩnh hội mọi điều người ta truyền đạt. Chàng làm hết toàn bộ các bài tập ở nhà và làm hết sức đầy đủ, cẩn thận. Chàng không hề tỏ ra nóng ruột, bứt rứt hoặc chán ngán ǵ cả. Trái lại, chàng là một học sinh rất chăm chỉ trong khoá học và chắc chắn là học sinh xuất sắc nhất. Chỉ có một lĩnh vực mới mẻ đối với Larry đó là thiết bị phi cơ DC-4. Những loại máy bay qua tay Douglas là loại máy bay dài, bóng láng với một số thiết bị chưa từng có khi chiến tranh bắt đầu. Larry bỏ ra nhiều giờ để khảo sát các máy bay, từng inch một, nghiên cứu cách lắp ráp chúng với nhau và cách thức chúng hoạt động. Tối tối chàng cặm cụi với hàng chục cuốn sách giáo khoa về sử dụng máy bay.
Một đêm khuya sau khi tất cả các học viên đă rời khỏi xưởng để máy bay, Sakowits c̣n bắt gặp Larry ngồi trong một chiếc DC-4, chàng đang nằm ngửa ra dưới buồng lái để xem xét hệ thống dây điện.
- Thú thực với anh là thằng khốn nạn này đang t́m cách tranh việc của tôi đấy - Sáng hôm sau Sakowits bảo với Carl Eastman như vậy.
Eastman cười.
- Cứ như cách y đang làm th́ rồi đây y có thể đạt được đấy.
Kết thúc tám tuần lễ, người ta tổ chức một lễ nho nhỏ mừng tốt nghiệp. Catherine đầy tự hào đáp máy bay tới New York để chứng kiến việc người ta gắn cho Larry phù hiệu đôi cánh của người hoa tiêu lên áo của chàng.
Chàng cố tỏ ra xem thường việc này.
- Cathy ạ, cái mảnh vải họ treo cho anh chỉ là chuyện vớ vẩn, cần phải nhớ rằng cái chính là công việc khi bước vào khoang lái.
- Ấy anh chớ nói vậy - Nàng bảo - Em đă trao đổi với đại uư Sakowits, ông ấy cho biết rằng anh là học viên xuất sắc.
- Cái thằng Ba Lan ngậm hột thị đó biết ǵ mà nói! - Larry bảo - Thôi ta đi tổ chức ăn mừng đi.
Tối hôm đó Catherine và Larry cùng với bốn học viên cùng lớp với Larry và các bà vợ của họ đi tới ăn tối tại câu lạc bộ Hai mươi mốt ở phố Năm mươi hai Đông. Căn pḥng lớn đông nghịt người, chủ tiệm cho họ hay rằng nếu không có việc đặt trước th́ sẽ không có bàn.
- Cái tiệm khốn nạn? - Larry bảo - Thôi ta sang tiệm Toots Shor bên cạnh.
- Khoan đă - Catherine nói. Nàng tiến đến người bồi trưởng, hỏi xin gặp Jerry Berns.
Một lát sau, một người thấp bé, gầy g̣ với đôi mắt xám xoi mói, hối hả tiến ra, nói:
- Tôi là Jerry Berns. Bà cần ǵ tôi giúp ạ?
Catherine giải thích:
- Vợ chồng chúng tôi cùng mấy người bạn, chúng tôi có mười người cả thẩy.
Ông ta lắc đầu:
- Nếu như các vị không đặt chỗ trước…
- Tôi là cộng sự của ông William Fraser - Catherine nói.
Jerry Berns nh́n sang nàng trách móc.
- Thế mà bà không nói ngay cho tôi hay. Xin đợi cho mười lăm phút để tôi thu xếp.
- Cảm ơn ông - Catherine đáp, vẻ biết ơn.
Nàng quay lại chỗ cả tốp kia đang đứng đợi.
- Lạ chưa? - Catherine nói - Chúng ta có bàn rồi đấy?
- Em làm thế nào xoay sở được thế? - Larry hỏi.
- Dễ thôi mà. Em nhắc đến tên của William Fraser. - Nàng nh́n thấy cái nh́n là lạ trong đôi mắt Larry. - Anh ấy thường tới đây. - Catherine nói tiếp rất nhanh - Và anh ấy có dặn em nếu như có đến đây, cần bàn ăn ngay th́ cứ nhắc đến tên anh ấy.
Larry quay lại những người kia:
- Thôi, chuồn khỏi đây ngay. Chỗ này chỉ dành cho các đôi uyên ương.
Tốp người tiến ra cửa. Larry quay lại Catherine:
- Đi chứ?
Catherine lưỡng lự nói:
- Th́ đi. Em chỉ muốn cho họ biết rằng chúng ta không…
- Mẹ cha chúng nó? - Larry nói to - Em có đi không nào?
Mọi người đổ dồn nh́n về phía họ. Catherine cảm thấy mặt đỏ bừng.
- Vâng - Nàng đáp. Nàng quay lại, bước theo sau Larry ra cửa.
Họ tới một tiệm ăn Italia ở Đại lộ thứ Sáu và ăn một bữa rất tồi. Bề ngoài Catherine tỏ ra như không hề có chuyện ǵ xảy ra, song bên trong nàng giận sôi người.
Nàng giận Larry v́ chàng đă cư xử như con nít và v́ đă nhục mạ nàng giữa chỗ đông người.
Khi họ về đến nhà, nàng đi thẳng và pḥng ngủ không nói một lời, cởi xống váy, tắt đèn, đi ngủ ngay. Nàng nghe thấy Larry ở pḥng khách đang pha rượu uống.
Mười phút sau, chàng bước vào pḥng ngủ, bật đèn lên rồi tiến tới bên giường:
- Cô định tự hành hạ ḿnh đấy à? - Chàng hỏi.
Nàng ngồi dậy, nổi đoá:
- Anh đừng bắt em phải tự vệ. Thái độ của anh tối hôm nay không thể tha thứ được. Cái ǵ len vào anh vậy?
- Th́ cũng cái thằng đó len vào cô đấy.
Nàng trừng mắt nh́n lại:
- Sao?
- Tôi đang nói đến cái ông toàn thiện toàn mỹ Bill Fraser đấy.
Nàng nh́n chàng, ngơ ngác không hiểu:
- Bill chỉ làm những việc ǵ giúp đỡ cho chúng ta thôi.
- Đừng có giả bộ ngớ ngẩn - Chàng nói - Cô nhờ hắn mà có việc làm. Tôi cũng nhờ hắn mới có việc làm. Bây giờ hai ta không thể vào tiệm ăn nếu không được Fraser cho phép. Đấy, tôi đă ớn với việc hắn găng họng tôi ra hằng ngày.
Catherine choáng váng trước giọng nói của Larry hơn là nội dung chàng nói ǵ. Cái giọng đó đầy vẻ chán chường, bất lực và lần đầu tiên nàng nhận thấy chắc hẳn là chàng bị dày ṿ đau khổ lắm. Chứ sao nữa? Bốn năm đi chiến đấu trở về chàng lại phát hiện ra vợ chàng cùng hội cùng thuyền với người t́nh cũ. Tồi tệ hơn nữa, nếu không có sự can thiệp của Fraser chàng không thể tự kiếm ra được việc làm.
Catherine nh́n Larry, phút giây đó nàng chợt nhận ra đây là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời vợ chồng của họ. Nếu như nàng c̣n ở lại với chàng, th́ chàng phải là trước hết, trước cả công việc của nàng, trước hết thảy mọi thứ. Lần đầu tiên Catherine cảm thông thật sự với Larry.
Dường như đọc được ư nghĩ của nàng. Larry nói với vẻ ăn năn:
- Anh xin lỗi. Tối nay anh hành động như một thằng khùng. Nhưng khi chúng ta không kiếm được bàn ăn mà em vừa nhắc đến cái tên Fraser kỳ diệu kia th́ anh… anh bất ngờ lộn ruột lên như thế đấy.
- Em cũng xin lỗi, anh Larry ạ - Catherine nói - Em sẽ không bao giờ làm cho anh phải khó chịu nữa đâu.
Khi họ ôm chặt nhau, Larry bảo:
- Đừng bỏ anh, Cathy nhé.
Catherine cảm thấy nàng đă đạt tới hạnh phúc, nàng gh́ chặt lấy chàng:
- Em sẽ không bao giờ bỏ anh đâu, cưng ạ.
***
Đợt đi công tác đầu tiên. Larry làm hoa tiêu trên chuyến bay 147 từ Washington đi Paris. Sau mỗi chuyến bay chàng ở lại Paris bốn mươi tám tiếng đồng hồ, sau đó trở về nhà nghỉ ba ngày rồi lại bay chuyến khác.
Một buổi sáng Larry gọi đến văn pḥng của Catherine giọng đầy phấn kích:
- Này em, anh đă kiếm được một nhà hàng rất tuyệt dành cho chúng ḿnh. Em có thể bỏ đó mà đi ăn trưa nay được không?
Catherine nh́n đống công văn phải thảo và đem duyệt trước buổi trưa nay, rồi đánh bạo:
- Được thôi.
- Mười lăm phút nữa anh sẽ tới đón em.
Lucia, người trợ lư của nàng than thở:
- Chị không thể bỏ mặc tôi được đâu. Ông Stuyvesant sẽ làm tùm lum lên ngay nếu như chúng ta không chuẩn bị cuộc vận động này trong ngày hôm nay.
- Cứ xếp đó đă Catherine bảo - Tôi phải đi ăn trưa với chồng tôi.
Lucia nhún vai:
- Tôi không trách chị. Bao giờ chị chán anh ta th́ nhớ cho tôi hay.
Catherine cười khẩy:
- Chị già quá rồi, không được đâu.
Larry đón Catherine lên xe ở trước sở làm việc.
- Anh làm cho công việc của em ngày hôm nay thêm căng thẳng phải không? - Chàng ranh mănh bảo.
- Đâu có.
Chàng cả cười:
- Tất cả cái bọn hành chính đó sẽ bị một vố choáng váng.
Larry lái xe về phía phi trường.
- Nhà hàng có xa không? - Catherine hỏi. Chiều nay nàng có năm cuộc hẹn làm việc, bắt đầu từ lúc hai giờ.
- Không xa lắm… Chiều nay em bận à?
- Không - Nàng chối liền - Không có ǵ quan trọng.
- Tốt.
Khi họ rời đường rẽ vào phi trường, Larry lái xe quẹo vào đó.
- Nhà hàng ở trong phi trường?
- Ở cuối đằng kia - Larry đáp.
Chàng đỗ xe lại, nắm lấy tay Catherine và dẫn nàng vào cổng của hăng Pan American. Một cô gái đầy hấp dẫn ngồi sau bàn chào Larry bằng đích danh chàng.
- Đây là vợ tôi - Larry nói đầy tự hào - C̣n đây là Amy Winston.
Họ chào nhau.
- Nào ta đi - Larry nắm lấy cánh tay nàng và họ về phía đường dốc xuất phát.
- Ḱa anh Larry… Đi đâu…
- Chà, em là cô gái nhiễu sự nhất mà anh đưa đi ăn trưa đấy.
Họ tiến tới đến cửa 37. Hai người ngồi sau quầy bán vé cho hành khách lên phi cơ. Có một tấm bảng thông báo ghi: "Chuyến bay 147 đi Paris - Xuất phát 1 giờ chiều".
Larry tiến tới chỗ một người ngồi sau bàn:
- Nàng đây rồi, Tony - Chàng trao cho người kia một tấm vé máy bay - Cathy, đây là anh Tony Lombardi. C̣n đây là Catherine.
- Tôi đă được nghe nói chiều về chị - Gă đàn ông cười toe toét - Vé của chị đă xong rồi - Y trao cho nàng tấm vé.
Catherine kinh ngạc nh́n tấm vé:
- Thế này là thế nào?
Larry mỉm cười:
- Anh đă dối em đấy. Anh không đưa em đi ăn trưa đâu mà đi Paris đấy. Sang nhà hàng Maxim.
Giọng Catherine lạc hẳn:
- Ma… Maxim? Ở Paris? Bây giờ?
- Đúng thế?
- Em không đi được - Catherine than văn - Không thể đi Paris bây giờ được.
- Đi được mà - Chàng cười ha hả - Anh đă lấy hộ chiếu cho em rồi.
- Larry! Anh điên rồi sao? Em không mang theo quần áo Có hàng tỉ cuộc hẹn làm việc. Em…
- Đến Paris anh sẽ mua quần áo cho em. Miễn tất cả cuộc hẹn đó. Trong vài ba ngày tới không có em, Fraser vẫn có thể xoay sở được.
Catherine trừng trừng nh́n chàng, không biết nói ǵ nữa. Nàng nhớ lại những điều nàng đă quyết định phải làm. Larry là chồng nàng kia mà. Chàng phải được ưu tiên số một. Catherine nhận ra rằng điều quan trọng đối với Larry không phải là việc đưa nàng sang Paris. Chàng muốn trổ tài cho nàng thấy, cho nên mới chèo kéo nàng đi trên chuyến phi cơ do chàng dẫn đường. Thế mà suưt nữa nàng làm hỏng hết cả dự định này. Nàng nắm lấy tay chàng, nh́n chàng, mỉm cười:
- Chúng ta c̣n đợi ǵ nữa nhỉ? Em đến chết đói bây giờ!
Paris không thiếu ǵ tṛ du hư. Larry đă bố trí nghỉ phép một tuần. Catherine có cảm tưởng là bất kể ngày hoặc đêm, giờ nào nàng cũng có việc để làm. Họ lưu trú tại một khách sạn nhỏ xinh xắn ở bên bờ tả ngạn sông Senie.
Ngay buổi sáng đầu tiên ở Paris, Larry đưa Catherine tới một nhà hàng ở Champs Elyséls, tại đây chàng cố t́m mua rất nhiều hàng cho nàng. Song nàng chỉ mua những thứ mà nàng cần v́ những thấy choáng váng trước t́nh h́nh thứ ǵ ở đây cũng đắt.
- Em có biết em được thoải mái chọn không? - Larry hỏi - Em quá áy náy về chuyện tiển nong đấy. Nhưng em đang đi hưởng tuần trăng mật cơ mà.
- Vâng, thưa ngài. - Nàng đáp. Song nàng từ chối mua một chiếc áo dài dạ hội v́ nàng thấy không cần. Khi nàng hỏi gặng xem Larry lấy đâu ra nhiều tiền như vậy th́ Larry gạt đi không chịu giải thích, song cuối cùng nàng cứ một mực đ̣i được biết.
- Anh được tạm ứng lương - Larry bảo - Cũng khá đấy chứ?
Nhưng Catherine không dám bày tỏ ư kiến ǵ. Về vấn đề tiền nong, chàng như một đứa trẻ, rộng răi, vô tư lự, và một phần t́nh h́nh thoải mái của chàng là ở đây. Tính cách này cũng thấy được ở cha nàng trước đây.
Larry đi tham quan một ṿng quanh Paris, thăm bảo tàng Louvre, Tuileries và Les Invalides, thăm mộ chí của Napoléon. Chàng đưa nàng tới một nhà hàng trang trí sặc sỡ ở gần Sorbonne. Họ đi tới Les Halles, đến chợ nhiều tầng của Paris, ngắm nh́n cảnh rau quả và thịt tươi được mang từ các nông trại khắp nước Pháp tới đây. Họ trải qua buổi chiều chủ nhật cuối cùng tại Versailler, sau đó ăn tối tại khu vườn tuyệt đẹp ở Cog Hardi ngoại ô Paris. Thật là một tuần trăng mật tuyệt đẹp lần thứ hai của họ.
Hai Sakowits đang ngồi trong văn pḥng, mở xem các báo cáo nhân sự hàng tuần. Trước mặt ông lúc này là báo cáo về Larry Douglas. Sakowits ngả người ra sau, nghiên cứu bản báo cáo, bặm môi suy nghĩ. Cuối cùng ông lại nhổm dậy và bấm náy nội đàm, bảo:
- Cho anh ta vào.
Một lát sau, Larry bước vào, trong bộ đồng phục của hăng Pan American, khoác theo một chiếc túi bay. Chàng mỉm cười với Sakowits, nói:
- Xin chào sếp.
- Mời ngồi.
Larry nặng nhọc ngồi xuống ghế đối diện chiếc bàn rồi châm điếu thuốc, hút. Sakowits bảo:
- Tôi có trong tay một báo cáo cho biết rằng thứ hai tuần trước ở Paris anh đă đăng kư để xin chuyến bay chậm hơn ấn định bốn mươi lăm phút.
Nét mặt Larry bỗng biến sắc:
- Tôi bị kẹt v́ một cuộc diễu binh ở Champs Elysées. Song chiếc phi cơ vẫn cất cánh đúng giờ. Tôi không biết là ở đây người ta quản lư một trại con trai tồng ngồng.
- Chúng tôi quản lư một hăng máy bay - Sakowits lặng lẽ nói - Và chúng tôi quản lư theo điều lệnh.
- Thôi được - Larry bực dọc đáp - Từ nay tôi sẽ không đến gần Champs Elysées nữa. C̣n ǵ nữa không?
- C̣n đại uư Swift cho rằng anh đă làm một hai ly trước khi cất cánh trong hai chuyến bay gần đây.
- Hắn nói xạo? - Larry quát lại.
- Cớ ǵ mà hắn phải nói xạo?
- Bởi v́ hắn sợ tôi sẽ tranh mất việc của hắn - giọng Larry càng thêm bực dọc - Thằng chó đẻ đó chỉ đáng là một con mụ đầy tớ già bẽn lẽn, đáng ra phải về hưu cách đây mười năm rồi.
- Anh đă từng bay với bốn trưởng cơ khác nhau, Sakowits nói - Vậy anh thích bay với ai nhất?
- Chẳng thằng nào hết - Larry đáp lại. Chàng nhận ra cái bẫy, song đă quá muộn. Lập tức, chàng vớt vát lại. - À, không… Họ đều tốt cả. Tôi không có ǵ phản đối họ.
- Họ cũng chẳng thích bay với anh đâu - Sakowits nói đều đều - Anh làm cho họ luôn lo lắng.
- Nói thế là quái ǵ?
- Nghĩa là khi có t́nh huống khẩn cấp, anh cần phải đảm bảo cho người ngồi ở ghế bên cạnh anh. Người ta không tin anh.
- Lạy Chúa? - Larry nổi khùng - Tôi đă từng sống qua bốn năm trong t́nh trạng khẩn cấp trên bầu trời nước Đức và vùng Nam Thái B́nh Dương, hàng ngày phải giơ cái "gáo" ra hứng đạn, trong khi đó bọn chúng ru rú ngồi nhà, hưởng lương bẫm béo múp míp, thế mà bây giờ bọn chúng lại không tin tôi? Anh muốn giỡn tôi đấy hả?
- Ai cũng biết là anh rất xuất sắc trên máy bay tiêm kích rồi - Sakowits đáp nhỏ nhẹ. - Nhưng ở đây chúng ta đang điều khiển các máy bay hành khách. Đây là một cuộc chơi bóng kiểu khác.
Larry ngồi, hai tay nắm chặt, cố kiềm chế cơn giận dữ:
- Thôi được - Chàng cau có nói - Tôi đă nhận được thông điệp bay. Ông đă trao đổi xong chưa để tôi c̣n cho chuyến bay cất cánh sau vài ba phút nữa.
- Đă có người khác tiếp quản việc đó rồi - Sakowits nói - Anh đă bị sa thải.
Larry nh́n ông ta, kinh ngạc:
- Tôi làm sao?
- Douglas ạ, xét về một phương diện nào đó th́ đây chính là lỗi tại tôi. Lẽ ra ngay từ đầu tôi không được thuê mướn anh mới phải.
Larry đứng vụt dậy, đôi mắt chàng bừng lên lửa giận dữ.
- Thế tại sao ông lại thuê tôi? - Larry gặng hỏi.
- Bởi v́ vợ anh có một người bạn tên là Bill Fraser.
Larry bước sang phía bên kia bàn, chàng giáng thẳng vào mặt Sakowits một trái đấm. Cú đấm đă làm Sakowits lảo đảo đập vào tường. Ông dùng sức bật trở lại đấm Larry hai cú liền, sau đó lùi lại thế thủ. Ông quát lên:
- Cút ngay khỏi đây! Cút ngay!
Larry nh́n ông ta trừng trừng, mặt chàng méo xệch v́ căm giận, thét lên:
- Đồ chó đẻ. Mày có lạy tao tao cũng không quay về lại cái hăng máy bay của mày nữa!
Chàng quay người, lao nhanh ra khỏi văn pḥng.
Sakowits đứng nh́n theo. Cô thư kư của ông vội vào văn pḥng, trông thấy chiếc chế tựa bị đổ và môi Sakowits chảy máu.
- Ông có sao không?
- Thật kinh khủng. Cô mời ông Eastman đến cho tôi gặp.
Mười phút sau Sakowits kể cho Cart Eastman nghe về sự việc vừa rồi.
- Anh thấy Douglas có ǵ không ổn? - Eastman hỏi.
- Nói thực nhé? Tôi nghĩ hắn là một thằng bị bệnh tâm thần.
Eastman nh́n ông bằng cặp mắt xanh, xoi mói:
- Nhận định hơi nặng đấy, Sak ạ. Trong khi bay, hắn không say bao giờ. Mà cũng chưa có ai chứng minh được rằng khi ở dưới đất hắn cũng uống rượu. Vả lại người ta ai cũng có lúc chậm trễ chút đỉnh.
- Nếu chỉ có vậy th́ tôi đă không sa thải hắn Carl ạ. Douglas có điểm sôi thấp. Thú thật với anh hôm nay tôi đă cố t́nh chọc tức hắn, và cũng không khó ǵ. Giá như hắn chịu đựng được áp lực, có thể tôi đă liều một phen giữ hắn lại xem sao. Anh có biết tôi băn khoăn chuyện ǵ không?
- Chuyện ǵ?
Sakowits kể:
- Cách đây vài hôm, tôi có gặp một thằng bạn cũ đă từng bay với Douglas hồi trong không quân Hoàng gia Anh. Y có kể cho tôi nghe một chuyện rất điên rồ. H́nh như hồi Douglas ở phi đoàn Phượng hoàng, hắn có yêu một cô bé người Anh, mà cô ả lại đính hôn với một thằng cha tên là Clark ở cùng phi đoàn với Douglas. Douglas t́m hết cách để len vào, song cô ả không chịu. Trước hôm cô ả với Clark tổ chức đám cưới một tuần, phi đoàn có bay đi làm nhiệm vụ yểm trợ cho một tốp máy bay B-17 tiến hành oanh tạc vùng Dieppe. Douglas bay ở cuối Phi đoàn. Sau khi các pháo đài bay đă trút hết bom, họ quay trở về căn cứ. Khi bay qua biển Manche th́ họ đụng phải lũ Messerschmidt và Clark bị bắn rơi.
Nói tới đây, Sakowits dừng lại suy nghĩ. Eastman chờ đợi ông nói tiếp. Cuối cùng Sakowits nh́n thẳng vào Eastman:
- Theo như thằng bạn tôi cho biết, khi Clark bị bắn rơi th́ không hề có một chiếc Messerschmidt nào bay bên cạnh.
Eastman nh́n ông trừng trừng không tin:
- Lạy Chúa? Anh muốn nói là Larry Douglas…
- Tôi không nhận định ǵ cả. Tôi chỉ thuật lại cho anh nghe một chuyện lư thú mà tôi nghe được. Có thế thôi.
Ông ta lại lấy khăn tay chấm lên môi. Máu đă ngừng chảy Khó có thể khẳng định chuyện ǵ đă xảy ra trong trận không chiến đó. Có thể Clark đă bị hết nhiên liệu cũng nên. Chỉ có một điều khẳng định là hắn đă bị xui.
- Chuyện ǵ đă xảy ra với cô ả?
- Douglas đă chuyển đến sống với ả cho đến khi hắn về Mỹ th́ hắn cũng cho ả rơi luôn - Ông ta nh́n Eastman vẻ đăm chiêu. - Tôi xin cam đoan với ông một điều. Tôi thấy thương hại cho cô vợ của Douglas.
                                               ***
Catherine đang ở trong pḥng họp giữa lúc có cuộc họp toàn thể công nhân viên th́ cửa pḥng bật mở, Larry bước vào.
Mắt chàng thâm tím, và sưng vù, một bên má bị rách toạc Nàng vội đi ra phía chàng hỏi:
- Anh Larry, chuyện ǵ thế?
- Anh bỏ việc rồi - Chàng lẩm bẩm.
Catherine đang ở trong pḥng, tránh những cặp mắt ṭ ṃ nh́n theo của những người khác. Nàng đắp một miếng vải mát lên mắt và má chàng. Nàng cố kiềm chế nỗi bực tức trước việc người ta gây cho chàng, rồi hỏi:
- Anh hăy kể em nghe xem nào.
Cathy ạ, bọn chúng theo dơi anh một thời gian rồi.
Anh nghĩ chúng ghen tức với anh v́ anh đă đi chiến đấu c̣n chúng th́ không. Dù sao, hôm nay cũng là ngày cao điểm. Sakowits gọi anh tới, cho anh biết lư do duy nhất để chúng đuỏi anh trước hết chính là v́ em là bồ của Bill Fraser.
Catherine nh́n chàng, im lặng.
- Anh đánh hắn - Larry nói - Anh không chịu được.
- Thế hả? - Catherine bảo - Em rất tiếc.
- Sakowits c̣n ân hận hơn - Larry đáp - Anh đă nện hắn rất đau. C̣n việc hay mất việc, chẳng thành vấn đề. Anh không thể để cho bất kỳ đứa nào nói về em như thế?
Nàng ôm chầm lấy chàng, an ủi:
- Thôi anh đừng bận tâm làm ǵ. Anh có thể đi làm cho bất kỳ hăng hàng không nào trong toàn quốc, lo ǵ.
Điều dự đoán của Catherine rất ít có cơ sở. Larry đă xin việc tất cả các hăng hàng không, một vài hăng cho anh được phỏng vấn, song không đưa lại kết quả ǵ.
Bill Fraser ăn trưa cùng với Catherine và nàng đem chuyện vừa rồi ra kể cho ông nghe. Fraser không nói ǵ, song ông suy nghĩ rất nhiều trong suốt bữa ăn. Có đôi lần nàng cảm thấy ông muốn nói với nàng điều ǵ, nhưng lại thôi ngay. Cuối cùng ông mới lên tiếng:
- Anh quen biết rất nhiều người, Cathy ạ. Em có đồng ư để anh giới thiệu Larry đến một nơi khác nữa không?
- Cảm ơn anh - Catherine đáp - Nhưng theo em không cần thiết. Để bọn em tự quyết định lấy.
Fraser nh́n nàng một lúc lâu gật đầu:
- Bao giờ em thay đổi ư kiến, em hăy cho anh biết ngay.
- Vâng! - Nàng tán thành - Có vẻ như cứ khi nào em có vấn đề là em lại t́m đến cầu cứu anh.
                                           ***
HĂNG AN NINH TUYỆT ĐốI
2402 phố "D"
Washington, D. C.
Về vụ việc 2-179- 210
Ngày 1 tháng Tư năm 1946
Ông Barbet kính mến,
Cảm ơn ông về lá thư đề ngày 15 tháng ba năm 1946 cùng tấm hối phiếu của ông.
Kể từ sau lần tôi báo cáo với ông gần đây, đối tượng đă t́m được việc làm phi công cho Công ty vận tải Flying Whees, đó là một công ty nhỏ, độc lập, hoạt động ở Long Island. Một cuộc kiểm tra qua cơ quan Dun và Bradstreet cho thấy vốn của họ là 750.000 đô-la. Trang bị của họ gồm một máy bay B-26 và một máy bay DC3 được cải tiến dùng cho dân sự. Họ có số dư nợ ngân hàng là 400.000 đô-la.
Ngài Phó chủ tịch ngân hàng Paris đóng trụ sở ở New York, nơi mà họ có tài khoản chính tại đây, khẳng định với tôi rằng công ty này có tiềm năng và tương lại phát triển rất tốt. Ngân hàng đang xem xét khả năng cấp tín dụng cho họ đủ tiền mua thêm máy bay dựa trên thu nhập hiện nay của họ là 80.000 đô-la mỗi năm với mức tăng dự kiên hằng năm là 30% trong thời gian năm năm tới.
Nếu ông muốn biết thêm chi tiết về triển vọng tài chính của công ty này, xin ông báo cho tôi hay.
Đối tượng đă bắt đầu làm việc vào ngày 19 tháng ba năm 1946. Ông giám đốc phụ trách nhân sự (cũng là một trong số các chủ của công ty này) đă cho cộng tác viên của tôi biết ông cảm thấy rất may mắn có được một phi công như đối tượng làm việc cho ông. Tôi sẽ cung cấp thêm chi tiết sau.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị
Banque De Paris
Thành phố New-York, bang New York
Philipe Chardon Chủ tịch Ban quản trị
Cô Noelle thân mến(1)
Cô thật là ác! Tôi không biết người đó đă có hành động ǵ với cô, nhưng dù thế nào chăng nữa, người ta cũng đă trả tiền thuê anh ta rồi. Hăng Flying Wheels đă mở rộng cửa đón anh ta, và ông bạn tôi có cho tôi biêí rằng anh đang gặp khủng hoảng cần được giúp đỡ.
- Tôi mong có dịp tới Athens và được gặp cô.
Mặc dù tôi có những quan hệ bằng hữu với Costa, song tôi mong cô hăy ban cho một chút ân huệ nhỏ là hăy giữ kín chuyện bí mật giữa chúng ta.
Thương yêu.
Philipe
                                            ***
HĂNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 Phố "D"
Washington D.C
Về việc 2-179-210
Ngày 22 tháng 5 năm, 1946
Ông Barbet kính mến,
Đây là báo cáo tiếp theo của tôi đề ngày mùng 1 tháng năm 1946.
Ngày 14 tháng Năm năm 1946, đối tượng bị sa thải khỏi công ty Vận tải Flying Wheels. Tôi đă t́m hết cách khéo léo điều tra nguyên nhân, song lần nào cũng vấp phải một bức tường đá. Không một ai muốn nhắc đến việc đó.
Tôi chỉ có thể giả định rằng đối tượng đă làm việc ǵ đó tự bôi nhọ ḿnh v́ thế họ không muốn nhắc đến.
Đối tượng đang cố t́m một công việc trong hàng không, song rơ ràng trước mặt hiện nay chưa có triển vọng ǵ.
- Tôi sẽ cố gắng thu nhập thêm tin tức về lư do tại sao y bị sa thải.
Kính chào ông,
R. Ruttenberg Giám đốc quản trị
                                              ***
Ngày 29, tháng Năm 1946
ĐIỆN TÍN
Christian Barbet Cable Christbar
Paris, France
Đă nhận được tin điện, Sẽ chấm dứt ngay việc điều tra lư do đối tượng bị sa thải. Sẽ tiếp tục các công việc khác như cũ.
Kính R. Ruttenberg
 HĂNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1 402 Phố "D"
Washington, D. C.
Về việc 2-179-210
Ngày 16 tháng Sáu, 1946
Kính gửi ông Barbet,
Cảm ơn ông về lá thư của ông đề ngày 10 tháng 6 và tấm hồi phiếu của ông.
Ngày 15 tháng Sáu, đối tượng đă nhận việc làm phi công bay kép của hăng Global Airways, hăng máy bay tiếp vận khu vực hoạt động giữa Washington, Boston và Philadelphia.
Hăng Global Airways là một hăng mới, nhỏ với trang bị ba chiếc máy bay quân sự được cải tiến thành dân dụng và theo những tin tức tôi có thể khẳng định họ chưa đủ vốn và đang mắc nợ. Ông phó chủ tịch công ty nay cho tôi biết Ngân hàng Quốc gia số một Dallas có hứa cấp tín dụng trong ṿng sáu mươi ngày nữa, với số tiền này họ có đủ vôn củng cố và phát triển sự nghiệp công ty.
Đối tượng được người ta đề cao và có lẽ sẽ có tương lai tốt đẹp tại đây.
Xin ông cho hay ông có cần tin tức ǵ thêm về Golbal Airways nữa không.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị.
                                          ***
HĂNG AN NINH TUYỆT ĐỐI
1402 Phố "D"
Washington, D.C.
Về việc 2-197-210
Ngày 20 tháng 7, 1946
Kính gửi ông Barbet, Hăng Golbal Airways bất ngờ tuyên bố phá sản và sắp chấm dứt hoạt động. Theo tôi biết, động tác này là do tác động của việc Ngân hàng Quốc gia số một Dallas đă từ chối không cho họ vay tiền đă hứa trước. Đối tượng lại một lần nữa bị mất việc và quay về với kiểu hành vi như tôi đă nêu ra trong các báo cáo trước đây.
Tôi sẽ không theo đuổi việc điều tra lư do tại sao ngân hàng lại từ chối không cho vay cũng như điều tra các khó khăn tài chính của Golbal Airways, trừ phi ông đặc biệt đề nghị tôi tiến hành việc này.
Kính chào ông, R. Ruttenberg Giám đốc quản trị.

***
 
Noelle cất giữ toàn bộ các báo cáo và những tin cắt từ các báo trong một chiếc túi da đặc biệt và chỉ có nàng có ch́a khoá duy nhất. Chiếc túi đó lại cất trong một valy khoá kỹ và đặt phía sau chiếc tủ áo trong pḥng ngủ của nàng, sợ Demiris tọc mạch những tài liệu của nàng bởi v́ nàng biết ông rất thích âm mưu vụng trộm. Đây là mối tử thù riêng của Noelle, nàng muốn rằng Demiris sẽ đóng một vai trong vở kịch báo thù của nàng, song ông không bao giờ biết ǵ cả. Noelle nh́n lại lần cuối cùng bản mục lục giấy tờ rồi khoá lại, đầy vẻ thoả măn.
Nàng đă sẵn sàng bắt tay vào việc.
Bắt đầu là một cú điện thoại.
***
Catherine và Larry đang ngồi ăn tối trong một không khí im lặng bứt rứt. Gần đây Larry rất ít khi trở về nhà, và mỗi khi trở về nhà, chàng lại cau có, thô bạo. Catherine thông cảm với sự bất hạnh của chàng.
- Cứ như có quỷ dữ bám sau lưng anh vậy - Chàng đă nói như thế với nàng khi hăng Golbal Airways bị phá sản.
Mà đúng thế thật. Chàng đă gặp vận xui liên tục khó mà tin được. Catherine cố t́m cách động viên Larry, cố ôn lại thời kỳ chàng c̣n là một phi công đại tài và những ai có được chàng đến cộng tác th́ thật là đại phúc. Nhưng Catherine cũng cảm thấy nàng đang sống bên một con sư tử bị trọng thương. Nàng không biết trước lúc nào th́ chàng sẽ lớn tiếng chừi mắng nàng và v́ nàng không muốn làm cho Larry rối chí, nàng cố t́m hiểu những cơn giận dữ điên khùng của chàng và cố gạt chúng sang bên.
Lúc nàng đang dọn món tráng miệng th́ có tiếng chuông điện thoại. Nàng nhắc ống nghe nói lên.
- Alô.
Đầu dây đằng kia là một giọng nói của người Anh:
- Larry Douglas có nhà không ạ? Tôi là Ian Whitestone đây.
- Ông đợi cho một lát - Nàng giơ ống nói ra cho Larry - Họ gọi anh đấy, Ian Whitestone.
Chàng nhíu mày, lúng túng:
- Ai nhỉ? Đột nhiên nét mặt chàng rạng ngời - Lạy Chúa tôi. Chàng tiến lên cầm ống nói từ tay Catherine - Ian đấy à? - Lạy Chúa, thế là đă gần bảy năm rồi đấy nhỉ? Làm thế nào mà cậu lùng ra được tớ?
Catherine quan sát thấy Larry gật đầu và mỉm cười trong lúc nghe điện thoại. Sau khoảng năm phút mới thấy chàng đáp:
- Bồ ạ, nghe hay đấy. Được, ḿnh làm được. Ở đâu thế? - Chàng lại nghe - Được. Nửa giờ nữa nhé. Ḿnh sẽ gặp cậu sau.
Chàng đặt ống nghe xuống, vẻ trầm tư suy nghĩ
- Bạn cũ của anh? - Catherine hỏi.
Larry quay lại phía nàng:
- Không, không hoàn toàn như vậy. Thế mới lạ chứ.
- Hắn là một thằng cùng bay với anh hồi trong không quân Hoàng gia. Chưa bao giờ hai đứa hợp với nhau. Thế mà bây giờ hắn nói hắn có một việc làm cho anh.
- Việc ǵ thế? - Catherine hỏi.
Larry nhún vai:
- Lúc anh trở về anh sẽ cho em rơ.
Gần ba giờ sáng Larry trở về nhà. Catherine đang ngồi trong giường đọc sách. Larry xuất hiện ở cửa pḥng ngủ.
- Chào em!
Có chuyện ǵ đó đă xảy ra làm chàng vui mừng phấn chấn khác thường, một tâm trạng đă lâu lắm Catherine không thấy được ở chàng. Chàng tiến đến bên giường.
- Cuộc gặp mặt của anh ra sao?
- Theo anh th́ tuyệt vời - Larry nói có cân nhắc - thực tế là rất tuyệt đến mức anh không thể tin nổi. Có lẽ anh sẽ kiếm được một việc làm.
- Làm cho Ian Whitestone?
- Không. Ian chỉ là một phi công. Anh đă kể với em là bọn anh đă từng bay với nhau.
- Vâng.
- Số là sau chiến tranh, một thằng bạn người Hy Lạp của hắn đă kiếm cho hắn công việc làm phi công tư cho Demiris.
- Đại tư bản ngành tàu biển?
- Demiris thống trị nửa thế giới. Cả tàu biển, khai thác dầu lửa và vàng. Whitestone đă có một chỗ êm ấm ở đó.
- Rồi sao?
Larry nh́n nàng, cười ha hả:
- Whitestone đă bỏ việc. Hắn sắp sang Australia. Một người quen sắp dựng cho hắn một doanh nghiệp riêng bên đó.
- Em vẫn chưa hiểu - Catherine nói - Thế nhưng chuyện như vậy có liên quan ǵ đến anh?
- Whitestone có nói với Demiris rằng anh sẽ thế chân hắn: Hắn bỏ đi rồi. Demiris không có cơ hội nào để t́m ra người thay thế. Whitestone cho rằng anh rất sẵn sàng nhận công việc này - Chàng ngập ngừng Cathy ạ, em không biết được công việc này sẽ có ư nghĩa với anh như thế nào đâu.
Catherine nhớ lại những lần khác, những công việc khác và nàng nhớ lại người cha nàng, nhớ đến những giấc mơ trống rỗng của ông, nàng cố giữ một giọng b́nh thản không muốn làm cho Larry phải nuôi hy vọng giả tạo, tuy nhiên nàng cũng không muốn dội một gáo nước lạnh lên sự nhiệt t́nh của chàng.
- Anh chẳng nói là anh với Whitestone trước đây không phải là bạn bè thân thiết đặc biệt sao?
Chàng ngập ngừng:
- Đúng thế?
Một thoáng ưu tư gợn lên trên trán chàng. Quả thực chàng và Ian Whitestone chưa bao giờ mến nhau. Cú phôn tối nay khiến chàng hết sức ngạc nhiên. Trong cuộc gặp mặt này, Whitestone tỏ ra bồn chồn một cách lạ lùng. Khi anh giải thích hoàn cảnh, Larry bảo:
- Ḿnh ngạc nhiên rằng tại sao cậu lại nghĩ đến ḿnh.
Im lặng lúng túng một lát, Whitestone bảo:
- Demiris cần có phi công xuất sắc và người đó phải là cậu.
Dường như Whitestone ấn công việc đó cho chàng và Larry làm việc này là làm một ân huệ. Anh ta có vẻ rất thoải mái khi Larry nói rằng chàng quan tâm đến công việc và sau đó anh ta có vẻ bồn chồn ra về ngay. Tóm lại đó là một cuộc gặp mặt rất kỳ quặc.
- Đây có thể là một cơ hội cho cả cuộc đời - Larry bảo - Demiris đă trả cho Whitestone mười lăm ngàn drachma(2) một tháng. Tức là năm trăm đô-la và anh ta đă sống như một ông hoàng ở bên đó.
- Thế nghĩa là anh sẽ phải sống ở bên Hy Lạp?
- Chúng ta sẽ sang sống bên Hy Lạp - Larry sửa lại lời Cathy - Với số tiền như vậy th́ chỉ sau một năm chúng ta có thể tiết kiệm đủ sống độc lập. Anh đă nhận lời rồi đấy.
Catherine ngập ngừng, thận trọng t́m lời để nói:
- Larry ơi, bên đó quá xa, hơn nữa anh lại không hiểu con người Constantin Demiris ra làm sao. Ở đây cũng có công việc cho anh chứ…
- Không! - Giọng chàng trở nên hung tợn. - Ở đây chẳng có đứa chó nào biết giá trị của một phi công giỏi như thế nào. Chúng chỉ chăm chăm vào việc người ta đă đóng bao nhiêu tiền vào quỹ nghiệp đoàn chết tiệt của chúng. Ở bên đó anh sẽ hoạt động độc lập Cathy ạ, anh mơ ước điều đó đă từ lâu rồi. Demiris có cả một đội phi cơ, em không thể tưởng tượng nổi, và thế là anh lại được bay, cưng ạ. Anh chỉ cần làm vừa ḷng có mỗi một người, đó là Demiris, và theo như Whitestone nói th́ ông ta yêu quư anh lắm.
Nàng lại nhớ đến chuyện Larry đă làm cho hăng Pan American và những hy vọng chàng đă ấp ủ với hăng đó, rồi những thất bại của chàng với các hăng máy bay nhỏ. Nàng nhủ thầm: Lạy Chúa! Ḿnh phải tham gia vào đó như thế nào? Như thế có nghĩa là nàng phải từ bỏ sự nghiệp mà nàng đă gây dựng và nếu như nàng muốn giữ vững cuộc hôn nhân này, nàng sẽ phải đến sống cùng một chỗ với chàng. Nếu công việc suôn sẻ th́ thật là đẹp biết bao.
Chàng sẽ trở lại là một Larry như trước đây. Một người đàn ông mà lúc cưới nàng, chàng đáng yêu, hấp dẫn, tuyệt diệu biết nhường nào. Nàng phải liều một phen xem sao.
Catherine nói:
- Tất nhiên em sẽ theo anh chứ. Anh bay sang gặp Demiris xem sao. Nếu công việc ổn thoả, em cũng sẽ bay sang với anh ngay.
Chàng mỉm cười, nụ cười tươi tỉnh như con nít:
- Anh biết là em đáng tin cậy mà, cưng - Em cởi chiếc áo ngủ ra hay để anh làm cho vậy.
Trong lúc Catherine từ từ cởi áo, nàng nghĩ đến việc ngày mai nàng phải nói ǵ với Bill Fraser.
Sáng hôm sau, Larry bay sang Athens để gặp Constantin Demiris.
Suốt mấy ngày liền sau đó Catherine không hề bắt được tin tức ǵ của chàng. Một tuần trôi qua, nàng nghĩ rằng công việc ở bên Hy Lạp không suôn sẻ và Larry sắp quay về. Thậm chí chàng có t́m được việc làm ở chỗ Demiris chăng nữa, cũng không thể nói trước công việc kéo dài bao lâu. Chắc chắn chàng có thể t́m được một việc ở ngay trên đất Hoa Kỳ.
Larry đi được sáu ngày. Catherine nhận được một cú phôn từ hải ngoại gọi về.
Catherine đấy à?
- Alo, chào anh.
- Chuẩn bị hành lư lên đường. Em đang nói chuyện với phi công tư mới được Constantin Demiris tuyển dụng đây.
Mười ngày sau Catherine lên đường sang Hy Lạp.


Chú thích:
(1) Đoạn thư này nguyên văn bằng tiếng Pháp (người dịch).
(2) Đơn vị tiền Hy Lạp.


Chương 15

NOELLE VÀ CATHERINE
Athens 1946


Con người tạo dựng nên một số thành phố, một số thành phố tạo dựng nên con người. Athens là một chiếc xe đă chịu đựng chiếc búa thời gian nhiều thế kỷ nện xuống.
Thành phố đă bị chiếm đóng và phá hoại bởi người Saracen, người Anglo, người Turk, và sau đó mỗi lần như vậy nó lại kiên nhẫn sống lại. Athens nằm ở cực nam của đồng bằng lớn Attica ở trung tâm, và dốc thoai thoải về phía vịnh Saronic ở hướng tây nam và nh́n sang phía đông là tỉnh Hymettus hùng vĩ. Bên dưới lớp mốc meo của thành phố người ta c̣n thấy một làng quê đầy những ma quỷ ngày xưa và một truyền thống phong phú với những vinh quang đời đời, tại đây các công dân của thành phố này sống trong khung cảnh quá khứ cùng hiện tại. Thật là một thành phố đầy những điều ngạc nhiên, những phát hiện và xét đến cùng là một thành phố đầy những ẩn số.
Larry ra phi trường Hellenikon để đón chuyến bay của Catherine. Nàng trông thấy chàng đi vội trên đoạn đường dốc, nét mặt hăm hở phấn khởi khi chàng chạy lao về phía nàng. Chàng trông đen và gầy hơn so với lần cuối cùng nàng gặp, nhưng coi bộ chàng được cởi bỏ những ưu tư căng thẳng.
- Anh nhớ em lắm, Cathy ạ. - Chàng nói vậy khi nhấc bổng nàng trên đôi cánh tay.
- Em cũng nhớ anh lắm.
Khi nàng nói ra điều này, nàng nhận thấy điều đó có ư nghĩa nhiều đối với nàng. Nàng đă quên mất cái ấn tượng mạnh mẽ về thân xác mà Larry gây cho nàng sau một thời gian lâu lâu họ không gặp nhau và cứ mỗi lần như vậy nó lại khiến nàng thêm đau đớn.
- Bill Fraser phản ứng ra sao khi hắn nghe tin này? - Larry hỏi nàng khi chàng giúp nàng làm thủ tục hải quan.
- Anh ấy rất vui vẻ trước việc này.
- Hắn không có con đường nào khác - Larry nói, mỉa mai.
Catherine nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa nàng và Bill Fraser. Ông nh́n thẳng vào nàng, sững sờ:
- Thế là em sắp sang sống ở Hy Lạp? Những tại sao em lại phải như vậy?
- Như vậy mới phù hợp với tờ hôn thú của em - Nàng nhẹ đáp.
- Anh muốn hỏi rằng tại sao Larry không thể kiếm được việc làm ngay ở đây, Catherine?
- Em không biết lư do tại sao, anh Bill ạ. Hầu như không có chỗ nào yên ổn cả. Nhưng nếu anh ấy sang Hy Lạp làm việc, có lẽ anh ấy cảm thấy công việc suôn sẻ ở bên đó.
Sau những phản ứng ban đầu, Fraser xử sự rất đẹp. Ông tạo mọi điều kiện cho nàng và nhắc đi nhắc lại rằng nàng cần quan tâm đến hoạt động của công ty, ông nói:
- Em sẽ không đi vắng măi măi, phải không?
Catherine nhớ lại lời của Bill trong lúc nàng đứng nh́n Larry thu xếp cho một nhân viên khuân vác chuyển hành lư của nàng ra một chiếc xe du lịch.
Chàng nói chuyện với người nhân viên bằng tiếng Hy Lạp. Catherine rất ngạc nhiên trước khiếu ngoại ngữ dễ dàng của Larry.
- Em đợi rồi em sẽ gặp Constantin Demiris - Larry bảo nàng - Ông ta đúng là một ông vua. Hầu như tất cả các vị chúa tể ở châu Âu phải dành thời gian để nghĩ cách làm như thế nào để cho ông ta được vui ḷng.
- Em mừng là anh thấy mến ông ấy.
- Và ông ấy cũng mến anh đấy.
Nàng chưa từng bao giờ thấy chàng vui vẻ, phấn khởi như bây giờ. Thật là một điềm tốt.
Trên đường tới khách sạn, Larry miêu tả cuộc gặp gỡ lần đầu tiên của chàng với Demiris. Larry đă được một người tài xế ăn vận sắc phục riêng ra tận sân bay đón. Larry yêu cầu được đi xem một lượt đội phi cơ của Demiris và người tài xế đă lái xe đưa chàng tới một nhà khổng lồ chứa máy bay ở tận cuối phi trường. Có ba chiếc phi cơ tất cả và Larry đă khảo sát từng chiếc một với cặp mắt xét nét. Chiếc Hawker Siddeley là chiếc rất đẹp, chàng mong mỏi được ngồi sau tay lái để điều khiển nó bay lên trời.
Chiếc thứ hai là chiếc Piper có sáu chỗ ngồi trong điều kiện hảo hạng. Chàng ước tính nó có thể dễ dàng bay với tốc độ ba trăm dặm một giờ. Chiếc phi cơ thứ ba là chiếc L-5 hai chỗ ngồi đă cải tiến dùng cho dân sự, lắp động cơ Lycoming, đây là loại máy bay dùng để bay những đoạn đường ngắn rất thuận lợi. Thật là một đội phi cơ tư hùng hậu. Sau khi Larry khảo sát xong, chàng quay lại với người tài xế đang đứng theo dơi chàng. Larry nói:
- Được cả. Thôi ta đi.
Người tài xế lái xe đưa chàng tới một biệt thự ở Varkiza, một khu ngoại ô sang trọng ở cách Athens hai mươi lăm cây số.
- Em không thể nào tưởng tượng nổi chỗ của Demiris sang đến thế nào - Larry bảo Catherine.
- Thế nào hả anh? - Catherine háo hức hỏi.
- Không thể nào tả xiết. Nó rộng chừng mười acre với những cổng điện, người gác, chó becgiê và cái khối nhà đó. Biệt thự này bên ngoài là một cung điện c̣n bên trong là một bảo tàng. Nó có bể bơi trong nhà, có một sân khấu và một pḥng chiếu phim. Một ngày nào đó em sẽ được thấy tất cả.
- Ông ta có dễ mến không? - Catherine hỏi.
- Có thể tin chắc như vậy - Larry mỉm cười - Anh đă được đối xử như một thượng khách. Có lẽ do tiếng tăm trước đây nên anh được như vậy.
Thực ra Larry đă phải ngồi đợi trong pḥng tiền sảnh nhỏ ba giờ đồng hồ để chờ được gặp Constantin Demiris. Trước những hoàn cảnh thông thường khác, Larry chắc đă nổi khùng trước sự khinh thị này, song chàng hiểu rằng cuộc gặp gỡ này sẽ quyết định rất quan trọng cho nên chàng thấy hồi hộp nhiều hơn là bực tức. Chàng kể cho Catherine về tầm quan trọng của công việc này đối với chàng, song chàng không hề nhắc tới việc chàng đă phải lao vào công việc này gần như tuyệt vọng. Năng lực ưu việt nhất ở chàng là ở nghề lái máy bay mà nếu thiếu nó, chàng sẽ cảm thấy trống rỗng. Dường như cuộc đời chàng ch́m nghỉm trong vực sâu những cảm xúc chưa dự kiến trước được và rồi những áp lực đè lên chàng sẽ lớn vô cùng chàng không thể nào chịu được. Tất cả đều phụ thuộc vào công việc này.
Ba giờ trôi qua, cuối cùng người quản gia bước vào và tuyên bố rằng ngài Demiris sẵn sàng tiếp chàng. Ông ta đưa Larry vào một pḥng tiếp tân rộng cứ như trong cung điện Verseilles. Bốn bức tường lung linh ánh màu vàng, xanh lam và xanh lục với những tấm thảm Beauvais treo bằng những panel bằng gỗ hồng. Trên sàn nhà là một tấm thảm Savonnerie h́nh trái xoan tuyệt đẹp, bên trên cao là một chùm đèn pha lê De Roche và bằng đồng đỏ Doré.
Ở lối vào pḥng thư viện có một đôi cột bằng đá mă năo màu xanh lục với những chữ hoa bằng đồng mạ vàng. Riêng các thư viện cũng rất trang nhă do một nghệ nhân bậc thầy trang trí, các bức tướng được trạm trổ đóng khung gỗ. Ở giữa một bức tường có một chiếc kệ bằng đá cẩm thạch trắng với những trang trí mạ vàng. Trên đó có hai bức tường nhỏ xinh đẹp bằng đồng của Philippe Caffleri. Từ đỉnh kệ cho đến tận trần nhà nhô ra một tấm gương chạm trổ với một bức tranh của Jean Honoré Fragonard. Qua một cửa sổ thấp kiểu Pháp để ngỏ, Larry trông thấy một cái sân trống rất rộng nh́n ra một khuôn viên có nhiều tượng và giếng phun nước. Ở một phía xa của thư viện có một chiếc bàn rất to kiểu Bureau Flat (bàn giấy phẳng) và đằng sau nó là một chiếc ghế có tựa lựng cao oai vệ được phủ nệm Aubusson. Đằng trước bàn là hai chiếc ghế lót nệm Gobelin.
Demiris đang đứng gần bàn chăm chú nghiên cứu một tấm bản đồ lớn Mercator treo trên tường, đính trên đó là hàng chục chiếc đinh ghim màu. Ông quay lại khi nh́n thấy Larry bước vào, rồi x̣e tay ra, nói bằng một giọng rất khó phân biệt:
- Constantin Demiris.
Larry đă từng nh́n thấy những bức h́nh chụp ông ta đăng trên các tạp chí lâu đời, song không một tấm h́nh nào cho thấy hết sức sống sôi sục của con người này.
- Vâng, tôi biết - Chàng bắt tay ông ta - Tôi là Larry Douglas.
Demiris nh́n thấy Larry liếc mắt lên tấm bản đồ trên tường.
- Đế quốc của tôi đấy. Mời ông ngồi.
Larry ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với chiếc bàn.
- Tôi được biết ông và Ian Whitestone đă từng bay cùng nhau trong không lực Hoàng gia.
- Vâng.
Demiris dựa lựng vào ghế, chăm chú ngó nh́n Larry.
- Ian đánh giá ông rất cao.
Larry mỉm cười:
- Tôi đánh giá anh ta cũng rất cao. Anh ta mới thật là phi công cừ khôi.
- Anh ta cũng nói về ông như vậy, duy chỉ có điều là anh ta dùng chữ "đại tài".
Larry lại có cảm giác ngạc nhiên như chàng đă có lúc gặp Whitestone lần đầu tiên nêu ra đề nghị về công việc.
Rơ ràng là hắn ta đă tạo ra trước Demiris một h́nh ảnh hùng vĩ về chàng, điều này không cân xứng với quan hệ giữa chàng và Whitestone trước đây. Larry nói:
- Tôi chỉ là phi công tốt. Công việc của tôi đ̣i hỏi phải như vậy.
Demiris gật đầu:
- Tôi rất thích những người làm tốt công việc của ḿnh. Ông có thấy rằng đa số mọi người trên đời không tốt trong công việc của họ không?
Larry thú thật:
- Về chuyện đó, tôi không bao giờ nghĩ tới cả.
- Thế mà tôi lại hay suy nghĩ - Ông cười nhạt - Đối tượng công việc của tôi là con người. Phần lớn mọi người chán ghét công việc họ đang làm, ông Douglas ạ. Đáng lẽ phải t́m nhiều cách khác nhau để đi sâu vào những ǵ họ thích, họ lại cứ luẩn quẩn suốt đời giống như một đám sâu bọ không có trí khôn. T́m được một người yêu thích công việc của ḿnh không phải là dễ. Hầu như chắc chắn rằng nếu ta phát hiện ra một người như vậy, th́ người đó phải thuộc loại người thành đạt.
- Tôi thiết nghĩ đúng là như vậy - Larry khiêm tốn.
- Ông không phải là người thành đạt.
Larry nh́n thẳng vào Demiris, bỗng trở nên thận trọng:
- Ông Demiris ạ, điều đó c̣n tùy thuộc ở chỗ ông định nói thành đạt về phương diện nào.
Demiris nói trắng ra rằng:
- Tôi muốn nói rằng trong chiến tranh ông đă hành động xuất sắc, song trong hoà b́nh ông thực hiện công việc không được tốt lắm.
Larry cảm thấy cơ bắp ở hàm dưới của chàng thắt lại.
Chàng cảm thấy như đang như bị người ta châm chọc, song chàng vẫn kiềm chế cơn giận dữ. Đầu óc chàng đang căng ra cố t́m một cách nói nào đây để giành lấy cái công việc mà chàng đang rất tha thiết. Demiris chăm chú quan sát, đôi mắt đen màu ôliu lặng lẽ dơi theo, không bỏ qua một chi tiết nào trên người chàng.
- Ông Douglas, công việc của ông với hăng Pan American gặp trắc trở ǵ vậy?
Larry nhận thấy ông ta cười gằn, nụ cười mà chàng không thích chút nào:
- Tôi không thích cái ư kiến cho rằng ngồi một xó mười lăm năm trời để đợi trở thành phi công bay kép.
- V́ vậy ông đă nện người thủ trưởng của ông chứ ǵ.
Larry tỏ ra ngạc nhiên:
- Ai đă kể cho ông chuyện đó?
Demiris vội nói ngay:
- Thôi đi ông Douglas. Một khi ông đă đến làm việc cho tôi, mỗi lần bay cùng với ông là tôi đặt sinh mạng của tôi trong tay ông đấy. Bộ ông tưởng tôi có thể thuê ông mà không biết hết mọi điều về ông sao? Ông đă bị sa thải hai nơi nữa sau khi ông bị hăng Pan American sa thải - Demiris nói tiếp - Đó là một hồ sơ không hay ho ǵ.
Larry lại nổi giận đùng đùng, đập lại ngay:
- Chuyện đó không liên quan ǵ đến năng lực của tôi. Một công ty kinh doanh tŕ trệ, c̣n công ty kia th́ không được ngân hàng cho vay đâm ra phá sản. Tôi vẫn là một phi công hạng cừ.
Demiris ngắm nh́n chàng một lát, sau đó tủm tỉm cười nói:
- Tôi biết ông rồi. Ông chấp hành kỷ luật không được tốt chứ ǵ?
- Tôi không muốn bị những đứa ngu xuẩn, hiểu biết c̣n tồi tệ hơn tôi, lại ra lệnh cho tôi.
- Tôi tin rằng tôi không thuộc loại người như vậy - Demiris thản nhiên nói.
- Chừng nào ông không có ư bảo tôi điều khiển các máy bay của ông như thế nào, ông Demiris ạ.
- Không, đó là công việc của ông. Ông c̣n có một nhiệm vụ nữa là đảm bảo đưa tôi đến chỗ tôi cần đến, một cách có hiệu quả, thuận tiện và an toàn.
Larry gật đầu:
- Tôi sẽ hết sức cố gắng, thưa ông Demiris.
- Tôi tin là như vậy - Demiris nói - Ông đă đi thăm các phi cơ của tôi rồi?
Larry cố không lộ rơ sự ngạc nhiên trên nét mặt:
- Vâng.
- Ông có thích chúng không?
Larry không giấu được nhiệt t́nh của ḿnh:
- Đẹp tuyệt trần.
Demiris cũng tỏ ư tán đồng với vẻ nhiệt t́nh hiện trên nét mặt chàng.
- Ông đă từng bay loại Hawker Siddeley bao giờ chưa?
Larry lưỡng lự một lát, định khoác lác một chút rồi lại thôi.
- Chưa ạ.
Demiris gật đầu:
- Vậy theo ông, ông có thể học nhanh được không?
Larry cười:
- Nếu ông có sẵn phi công nào, chỉ cần rảnh rỗi chục phút chỉ vẽ cho tôi là xong.
Demiris nghiêng người ra phía trước đan chặt những ngón tay dài, gày g̣ vào nhau.
- Tôi có thể chọn ra một phi công từng quen thuộc với tất cả các máy bay của tôi.
- Song ông không nên làm như vậy, bởi ông sẽ c̣n có những máy bay mới nữa, và rồi ông cần đến một người nào đó có thể thích nghi với những cái ông sẽ mua.
Demiris gật đầu, nói:
- Ông nói đúng. Người tôi cần t́m ở đây là một phi công… một phi công thực thụ… một con người biết lấy việc điều khiển máy bay là việc hạnh phúc nhất đời.
Đến lúc này Larry tin chắc rằng công việc sẽ giao vào tay chàng. Larry không hề biết được rằng chỉ một chút xíu nữa là chàng không được người ta thuê mướn. Sự thành công rất nhiều ở Constantin Demiris lại chính nhờ vào bản năng hết sức tinh nhạy trước những rủi ro, chính cái bản năng này đă phục vụ đắc lực cho ông khiến ông ít khi dám coi thường nó. Khi Ian Whitestone đến báo cho ông hay rằng anh ta xin thôi việc th́ trong đầu óc Demiris vang lên hồi chuông báo động rất b́nh tĩnh. Điều đó là một phần do phong thái của Whitestone. Anh ta hành động không được tự nhiên và có vẻ bồn chồn như thế nào đó. Anh ta khẳng định với Demiris rằng vấn đề ở đây không phải ở tiền bạc.
Anh ta có một cơ hội để gây dựng nên một doanh nghiệp với người em rể ở Sydney và anh ta sẽ cố gắng thử sức xem sao. Sau đó anh ta giới thiệu một người phi công khác.
- Ông này là một người Mỹ, song chúng tôi đă từng bay với nhau trong không lực Hoàng gia Anh, ông ta không chỉ giỏi, mà là đại tài, ông Demiris. Tôi không biết một phi công nào tài hơn ông ta.
Demiris lặng lẽ ngồi nghe Ian Whitestone tiếp tục ca tụng phẩm cách của người chiến hữu cũ, ông cũng cố xét xem, có chỗ nào sai lệch không. Cuối cùng ông phát hiện ra Whitestone có phần hơi nhiều lời, song có lẽ đó là v́ anh ta lúng túng trước việc từ bỏ công việc quá đột ngột.
Demiris là người không bao giờ bỏ qua dù là những chi tiết nhỏ nhất khi có điều kiện đến tay, cho nên ông đă làm nhiều cú phôn tới mấy nước khác nhau sau khi Whitestone ra đi. Trước khi kết thúc buổi chiều đó, Demiris đă được khẳng định là có ai đó đă đóng góp tiền tài trợ cho Whitestone trong một công ty điện tử nhỏ ở Australia cùng với người em rể của anh ta. Ông cũng đă nói chuyện với một người bạn ở Bộ không quân Anh và hai giờ sau ông nhận được một báo miệng về Larry Douglas.
Người bạn ông cho biết: "Y ở dưới đất th́ hơi lập dị, song là một phi công kiệt suất". Sau đó Demiris đă gọi điện thoại sang Washington và New York và được cung cấp ngay những tin tức mới nhất về hoàn cảnh hiện nay của Larry Douglas.
Mọi chuyện bề ngoài dường như diễn ra hoàn toàn đúng như chúng cần phải có. Tuy nhiên Constantin Demiris vẫn cảm thấy một điều ǵ đó áy náy mơ hồ, một điều không hay. Ông thảo luận với Noelle và nêu ra ư kiến có lẽ ông sẽ cung cấp thêm tiền cho Ian Whitestone để giữ anh ta ở lại. Noelle chăm chú lắng nghe, sau đó bảo:
- Thôi. Cứ để cho hắn đi, anh Costa ạ. C̣n nếu hắn đă giới thiệu viên phi công Mỹ này với lời lẽ hay ho như vậy th́ để em thử tay nghề của y xem sao.
Và thế là cuối cùng ông chấp nhận chàng.
Từ lúc Noelle biết rằng Larry Douglas đang trên đường tới Athens, nàng không c̣n tâm trí nào để nghĩ đến những chuyện khác. Nàng nhớ lại bấy nhiên năm trời trôi qua, nghĩ đến việc lập các phương án một cách tỉ mỉ, kiên tŕ, tấm lưới giăng ra chậm chạp, dai dẳng, và nàng tin rằng Constantin Demiris chắc cũng phải hănh diện về nàng nếu như ông biết chuyện. Noelle lại nghĩ thật là chớ trêu. Giá như nàng không gặp Larry có thể nàng đă được hạnh phúc bên Demiris. Họ bù đắp cho nhau rất hoàn hảo, cả hai người đều say mê quyền lực và biết cách sử dụng quyền lực. Họ là những người nổi trội hơn những người thường khác. Họ là chúa tể, sinh ra để thống trị. Xét đến cùng họ không bao giờ chịu thua, bởi v́ họ có một ḷng kiên tŕ sâu sắc và như rất bí ẩn. Họ có thể mai phục vĩnh viễn. Song bây giờ, đối với Noelle, việc mai phục đó coi như đă chấm dứt.
Noelle bỏ ra cả ngày nằm trên chiếc vơng trong vườn để kiểm lại cái kế hoạch của nàng, đến lúc vầng thái dương lặn ở phía trời tây, nàng cảm thấy thoả măn: Nàng nghĩ thầm. Xét về một phía cạnh nào đấy, nàng lấy làm tiếc là trong sáu năm qua đă dành quá nhiều thời gian vào những phương án phục thù của nàng. Dường như nó trở thành động cơ cho từng phút giây nàng tỉnh táo, nó khiến cho cuộc đời nàng thêm nhựa sống, thêm hứng khởi, và bây giờ chỉ trong vài tuần ngắn ngủi nữa vấn đề sẽ đi đến chỗ kết thúc.
C̣n lúc này, khi nằm trong khu vườn xanh tươi, yên tĩnh lúc chiều tà, mặt trời lặn dần trên đất Hy Lạp, và những đợt gió hiu hiu bắt đầu thổi. Noelle không biết được rằng chuyện đó lại đang bắt đầu.
Đêm trước hôm Larry tới, Noelle không tài nào ngủ được Nàng nằm thao thức suốt, nhớ lại Paris, nhớ lại con người đă mang lại cho nàng tiếng cười, rồi lại tước đi mất của nàng. Nàng có cảm giác như đứa con của Larry nằm trong bụng nàng, nó chiếm lĩnh cơ thể nàng cũng giống như cha nó chiếm lĩnh tâm trí nàng. Nàng nhớ lại cái buổi trưa hôm đó trong căn nhà ảm đạm ở Paris và cơn đau đớn do chiếc mắc áo nhọn bằng kim loại xoáy mỗi lúc một sâu và trong da thịt nàng cho đến khi nó chạm đến đứa bé th́ cơn đau ê ẩm không thể chịu được đă khiến nàng phát cuồng lên và ḍng máy tuôn ra xối xả không ngừng. Nàng nhớ lại tất cả những chuyện này và làm chúng sống trở lại. Cả sự đau đớn, sự thống khổ và niềm uất hận…
Năm giờ sáng, Noelle thức dậy, vận quần áo, nàng ngồi trong pḥng nh́n ra ngoài, ngắm mặt trời như quả cầu lửa khổng lồ nhô lên trên biển Aegean. Nó gợi cho nàng nhớ đến một buổi sáng khác ở Paris, lần đó nàng cũng dậy rất sớm, vận quần áo và đợi Larry. Chỉ khác là lần này y sẽ tới đây. Bởi v́ nàng đă dự kiến rằng y thể nào cũng sẽ phải tới. Noelle trước đây cần y đến thế nào, th́ Larry bây giờ cũng cần đến nàng như vậy, cho dù y chưa nhận ra được điều này.
Demiris gởi tới pḥng Noelle một tin nhắn rằng ông muốn nàng đến dùng bữa điểm tâm với ông, song nàng cảm thấy phấn khích quá, nàng e rằng thái độ của nàng sẽ gây cho ông ṭ ṃ. Đă từ lâu rồi nàng nhận thấy ở Demiris có một sự tinh nhạy như một con mèo. Ông không bỏ qua một chi tiết nào. Cho nên, một lần nữa Noelle tự nhủ là nàng phải hết sức thận trọng. Nàng muốn quan tâm đến Larry theo cách riêng của nàng. Nàng đă suy tính rất lao lung về chuyện sẽ sử dụng Constantin Demiris như một công cụ mà ông không hề hay biết. Nếu như ông phát hiện ra điều này, chắc ông sẽ không thú ǵ.
Noelle uống nửa tách cà phê Hy Lạp loại đặc và ăn nửa chiếc bánh mới làm c̣n nóng sốt. Nàng chẳng thấy mùi ǵ cả. Tâm trí nàng c̣n đặt cả ở cuộc gặp mặt sẽ diễn ra trong vài ba giờ nữa. Nàng đă chú ư trang điểm một cách đặc biệt và chọn kỹ chiếc váy sẽ mặc và nàng biết là hôm nay nàng rất đẹp.
Quá mười một giờ một phút, Noelle nghe thấy tiếng xe hơi dừng lại ở trước nhà. Nàng hít một hơi thở sâu cố trấn tĩnh nỗi hồi hộp, sau đó từ từ đi về phía cửa sổ. Larry Douglas bước ra khỏi ra. Noelle theo dơi chàng tiến về phía cửa trước. Dường như năm tháng đă biến đâu hết cả hai người đang trở lại những tháng ngày ở Paris. Larry có phần nào chín chắn hơn trước, chiến tranh và đời sống đă làm cho chàng thêm những nếp nhăn mới trên mặt, song những nét đó chỉ làm cho chàng thêm đẹp hơn. Khi Noelle đứng ngắm chàng qua cửa sổ, cách xa gần chục mét, nàng vẫn có cảm giác một sức hút động vật, vẫn thấy sự thèm khát cũ, mỗi lúc một dâng cao, xen lẫn với ḷng căm thù cho tới khi nàng cảm thấy phấn chấn th́ lúc đó gần như đạt tới cực điểm. Nàng liếc nhanh nh́n lại ḿnh trong gương một lần cuối, sau đó đi xuống lầu để gặp con người mà nàng sẽ tiêu diệt.
Khi bước xuống thang, Noelle tự hỏi không biết phản ứng của Larry sẽ thế nào khi chàng gặp lại nàng. Liệu y có bốc phét với bạn bè của y, thậm chí có thể kể lể với vợ y rằng Noelle Page đă có một thời yêu y mê mệt không?
Nàng tự hỏi như vậy cũng giống như nàng đă tự hỏi nàng trăm lần trước đây, liệu y có làm sống lại những kỷ niệm kỳ diệu của những ngày đêm họ chung sống bên nhau ở Paris không? Và liệu y có ăn năn trước những việc mà y đă gây ra cho nàng không? Làm cách nào để y dằn vặt trước một sự thật là nàng đă trở thành một nhân vật nổi tiếng khắp thế giới, trong lúc đó th́ cuộc đời riêng của y đầy rẫy những thất bại cỏn con. Noelle muốn được thấy điều đó trong đôi mắt của Larry lần đầu tiên họ lại giáp mặt nhau sau gần bảy năm trời.
Khi Noelle xuống tới pḥng khách th́ cửa trước cũng vừa mở và người quản ǵa đưa chàng vào. Larry đang trừng trừng ngắm nh́n sảnh rộng mênh mông, vẻ kinh hoàng, chàng quay lại và trông thấy Noelle. Chàng nh́n nàng một hồi lâu, mặt tươi hẳn lên khi được chiêm ngưỡng một phụ nữ xinh đẹp.
- Chào bà - Chàng nói lịch thiệp - Tôi là Larry Douglas. Tôi có một cuộc hẹn với ông Demiris.
Trên mặt chàng không thấy xuất hiện một dấu hiệu ǵ chứng tỏ rằng chàng đă nhận ra nàng. Không một dấu hiệu nào.
***
Catherine ngồi trên xe hơi chạy dọc các phố xá Athens về khách sạn của họ, nàng kinh ngạc trước những đống hoang phế và tượng đài liên tục xuất hiện xung quanh họ.
Nàng thấy ở đằng trước một cảnh tượng ngoạn mục, đền Parthenon bằng đá cẩm thạch trắng nổi cao trên đỉnh đồi Acpropolis. Khách sạn và các dinh thự công sở ở khắp nơi, tuy nhiên Catherine có cảm giác kỳ quặc rằng những công tŕnh mới chỉ có tính chất tạm bợ, nhất thời, trong khi đền Karthinon sẽ vĩnh viễn bất tử giữa bầu không khí trong vắt.
- Hùng vĩ đấy chứ? - Larry cười nói - Cả cái thành phố này đều như vậy. Một đống hoang tàn khổng lồ và rất đẹp.
Họ đi ngang qua một công viên lớn ở trung tâm thành phố với những ṿi phun nước uốn éo ở công viên. Hàng trăm chiếc bàn với những cột màu xanh và da cam xếp dọc công viên. Bầu trời giăng giăng trên đầu họ như một tấm bạt xanh lớn.
Đây là quảng trường Nhấm Nháp(1) - Larry bảo.
- Cái ǵ cơ?
- Tên thực của nó là quảng trường Hiến Pháp. Song dân chúng thường ngồi ở bàn này suốt ngày uống cà phê Hy Lạp và ngắm nh́n sự đời diễn ra.
Hầu như ở khối nhà nào cũng có những quán cà phê ngoài trời ở các góc phố người ta bán những bọt biển mới bắt được. Đâu đâu cũng thấy người bán hoa, các quán hoa của họ đầy những loại hoa màu sắc rực rỡ.
Catherine nhận xét:
- Thành phố này trắng quá cho nên thật chói chang.
Căn pḥng kép ở cửa khách sạn rộng và duyên dáng, trông ra quảng trường Syntagina, một quảng trường rộng ở giữa thành phố. Trong pḥng có bầy nhiều hoa và một bát to đựng nhiều trái cây tươi ngon.
Sau khi đi xem một lượt căn pḥng, Catherine bảo:
- Em thích lắm.
Người trực tầng đặt những chiếc valy của nàng xuống.
Larry cho hắn tiền puốc boa, thằng bé nói:
- Parapobe.
- Parakelo - Larry đáp lại.
Thằng bé đi xa, khép cửa lại đằng sau nó.
Larry tiến lại, choàng tay ông lấy Catherine.
- Chúc mừng em đă tới Hy Lạp.
Chàng háo hức hôn nàng và áp sát toàn thân chàng vào người nàng. Nàng cảm nhận chàng đă nhớ nàng vô cùng, nàng thầm mừng như vậy. Chàng đưa nàng vào pḥng ngủ.
Trên chiếc bàn gương có một gói nhỏ, để lộ ra một chiếc hộp nhỏ, bên trong là một con chim bé xíu chạm bằng ngọc. Larry bận như vậy mà vẫn nhớ đến quà.
Catherine rất cảm động. Dù sao con chim này cũng là một tấm bùa, một điềm lành cho thấy mọi việc tiến hành suôn sẻ rằng những chuyện quá khứ đến dây là chấm dứt.
Trong lúc họ ân ái, Catherine thầm cầu nguyện, tỏ ḷng biết ơn v́ nàng được nằm trong ṿng tay người chồng mà nàng yêu dấu vô cùng, được sống ở một trong những thành phố thú vị nhất thế giới và bắt đầu một cuộc đời mới. Chàng Larry cũ lại đây rồi, và toàn bộ vấn đề của họ chỉ là làm sao củng cố cho cuộc hôn nhân của họ thêm bền chặt. Không có ǵ có thể khiến họ tổn thương được.
Sáng hôm sau Larry thu xếp với một công ty nhà cửa tới đưa Catherine đi xem một số căn nhà. Nhân viên đi cùng nàng là một người thấp lùn, da đen sẫm, ria mép dầy, tên là Dimitropolous. Ông ta nói liến thoáng bằng một thứ ngôn ngữ mà ông tin là tiếng Anh hoàn hảo, nhưng trong đó xen vào những từ Hy Lạp thỉnh thoảng lại kèm một cụm từ tiếng Anh mà không tài nào hiểu được nghĩa là ǵ.
Catherine cũng đành tùy thuộc vào ông ta thôi (sau này trong nhiều tháng nàng cũng thường áp dụng cách ứng xử như vậy) nàng đề nghị ông nói thật chậm để nàng có thể chọn ra một số từ tiếng Anh và cố đoán xem ông ta định diễn đạt cái ǵ.
Địa điểm thứ tư ông đưa nàng tới là một căn nhà gồm bốn pḥng sáng sủa, chói chang ánh nắng, sau này được biết nó nằm ở khu Kolonski một khu ngoài ô sang trọng ở Athens, với những ngôi nhà cư dân đẹp đẽ và những cửa hiệu lộng lẫy.
Tối hôm đó, khi Larry trở về khách sạn, Catherine kể cho chàng nghe về căn nhà đó và hai ngày sau họ dọn đến nhà mới.
Larry đi vắng suốt ngày nhưng chàng cố gắng có mặt ở nhà để ăn bữa chính với Catherine. Bữa chính ở Athens là vào quăng chín đến mười hai giờ trưa. Từ hai giờ đến năm giờ mọi người nghỉ ngơi, các cửa tiệm mở đến tận khuya. Catherine cảm thấy hoàn toàn bị thành phố này cuốn hút. Đến đêm thứ ba ở Athens, Larry đưa về một người bạn mới, đó là Bá tước George Pappas, người Hy Lạp tuổi trạc bốn lăm đầy hấp dẫn, dáng người cao gầy, mái tóc đen, nhưng điểm bạc hai bên thái dương. Ở ông ta có một vẻ đạo mạo kiểu cổ, hơi kỳ dị khiến Catherine thấy thích. Ông ta đưa họ đến ăn ở một nhà hàng nhỏ ở khu phố cổ Plaka rộng vài ba acre, dốc về phía trung Athens, với những ngơ hẻm ngoằn nghèo, những bậc thang cũ kỹ, sụt lở dẫn đến những ngôi nhà nhỏ xây dựng từ thời cổ Thổ Nhĩ Kỳ thống trị Hy Lạp và thành phố Athens c̣n là một làng quê. Khu Palaka là khu có những kiến trúc quét vôi trắng nằm rải rác đây đó, có những quầy bán hoa quả tươi, mùi cà phê rang thơm lừng trong không khí, những con mèo gầm gừ và những cuộc ẩu đả huyên náo phố xá, ấn tượng của khu này thật là quyến rũ. Catherine nghĩ: ở những thành phố khác th́ những khu như thế này đă trở thành một ổ chuột rồi. Thế mà ở đây lại là một tượng đài.
Cái nhà hàng mà Bá tước Pappas đưa họ tới là nhà hàng lộ thiên nằm trên nóc một ngôi nhà nh́n ra khắp thành phố. Những người bồi phục vụ ở đây ăn mặc quần áo sặc sỡ
- Bà muốn dùng ǵ? - Ông bá tước hỏi Catherine.
Nàng xem kỹ bản thực đơn đầy lạ lùng và lúng túng:
- Ông làm ơn đặt món ăn giúp tôi. Tôi e rằng tôi gọi nhầm ra tên ông chủ tiệm cũng nên.
Bá tước Pappas đặt một tiệc thịnh soạn, ông ta chọn ra hàng loạt món ăn để Catherine có dịp nếm đủ mọi thứ.
Họ ăn món Dolmades, thịt băm viên cuộn trong lá nho, mousaka, món thịt nhồi cá béo ngậy, stiffado, thịt thỏ rô ti với hành - (măi đến khi nàng ăn được một nửa, nàng mới biết món này là món ǵ, và từ đó nàng không dám ăn nữa) và món taramosalata là món xà lách Hy Lạp trộn trứng, dầu ôliu và chanh. Ông Bá tước gọi một chai retsina.
- Đây là rượu vang bản địa của chúng tôi - Ông giải thích như vậy.
Ông ngồi ngắm Catherine nếm thử loại rượu này một cách thú vị. Nó có vị gắt của dứa. Catherine phải nhắm mắt nhắm mũi mới uống nổi. Nàng giật thót cả người. Ăn món ǵ bây giờ cũng đều mất ngon cả.
Trong lúc họ ăn, có ba nhạc công chơi nhạc Bozoukia. Tiếng nhạc vui vẻ, yêu đời và dễ gây cảm hứng, ba người ngồi ngắm những người khác bắt đầu đứng dậy bước ra sàn nhẩy theo tiếng nhạc. Điều khiến Catherine kinh ngạc là tất cả những người nhảy đều là nam giới và họ nhảy tuyệt vời. Nàng ngồi xem một cách thích thú.
Măi đến hơn ba giờ sáng họ mới ra về. Ông bá tước lái xe đưa hai vợ chồng về căn nhà mới của họ. Ông hỏi:
- Bà đă đi xem phong cảnh thành phố chưa?
- Thực ra là chưa. - Nàng thừa nhận - Tôi c̣n đợi Larry có thời gian nghỉ đă.
Ông bá tước quay sang Larry:
- Có lẽ trong lúc ông chưa tham gia được, tôi cứ đưa bà Catherine đi xem vài ba nơi trước, được không?
- Thế c̣n ǵ bằng - Larry đáp - Miễn là việc đó không quá phiền hà cho ông.
- Tôi rất vui ḷng được làm việc đó - Ông bá tước đáp, rồi quay sang Catherine - Bà có nhận tôi là người hướng dẫn cho bà không?
Nàng nh́n ông và chợt nhớ đến Dimitropolous, người nhân viên công ty nhà cửa, vóc dáng nhỏ bé, nói tiếng Anh liến thoắng, líu ríu chẳng nghe rơ ǵ.
- Tôi rất mong được như vậy - Nàng đáp lại một cách chân thành.
Mấy tuần tiếp sau đó là những tuần tuyệt diệu. Sáng nào Catherine cũng sắp sắp xếp nhà cửa, đến chiều, nếu Larry đi vắng th́ ông Bá tước lại đến đón nàng đi xem phong cảnh.
Họ đă tới núi Olimpia. Ông bá tước kể:
- Đây là nơi diễn ra những tṛ thể thao Olimpia đầu tiên. Những ngày hội đó được tổ chức hàng năm kéo dài trong một ngàn năm liền, bất chấp các cuộc chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói.
Catherine ngạc nhiên đứng ngắm cảnh hoang phế của một vũ đài lớn, nàng nghĩ đến những cuộc thi đấu huy hoàng đă từng được tổ chức tại đây trong những thế kỷ, nàng nghĩ đến những thắng lợi và thất bại.
- Nếu nhận xét những sân đấu ở Eton th́ nơi đây thật là chỗ khởi thủy cho tinh thần thượng vơ.
Ông Bá tước cười lớn:
- Tôi e rằng sự thực sẽ phần nào làm cho bà ngạc nhiên đấy.
Catherine chăm chú nh́n ông:
- Tại sao vậy?
- Cuộc thi xe chiến mă lần đầu tiên tổ chức ở đây đă có sắp đặt trước.
- Sắp đặt trước?
Ông Bá tước kể tiếp:
- Đúng thế đấy. Có một ông hoàng giàu sụ tên là Pelops lúc đó đang ân hận với đối thủ của ḿnh. Họ quyết định tổ chức một cuộc thi xe chiến mă để xác định xem ai thắng ai thua. Đêm trước cuộc thi Pelops đă thay bánh xe ở xe đối thủ của ḿnh. Khi cuộc thi bắt đầu dân chúng có mặt ở đây tung hô người ḿnh yêu mến. Ở ṿng đầu chiếc xe của đối thủ đă bị văng bánh, xe lật nhào. Đối thủ đă bị mắc giữa dây cương và bị ngựa lôi đi đến chết. Pelops về đích thắng cuộc.
- Thật là kinh khủng - Catherine nói - Thế họ đă làm ǵ với hắn ta?
- Quả thực đó là đoạn ô nhục nhất trong lịch sử. Ông Bá tước đáp - Ngày nay thiên hạ ai cũng biết hành động của Pelops. Y được coi là anh hùng vĩ đại và trên một trần tường lớn trên đền thờ Zeus ở Olimpia người ta vẫn đắp h́nh để suy tôn y. Hiện nay vẫn c̣n đó - Ông mỉm cười chua chát - Có lẽ tên đểu cáng này đă giễu thêm và sống sung sướng măi sau đó. Trên thực tế - Ông nói thêm - Cả một vùng ở phía nam Corinth được gọi theo tên của y là Peloponnesus.
- Hoá ra tội ác không bị trừng phạt ư? - Catherine thắc mắc.
Mỗi khi Larry có dịp rảnh, chàng cùng Catherine đi xem thành phố. Họ phát hiện ra những nhà hàng tuyệt vời mà ở đó họ có thể bỏ ra nhiều giờ để mặc cả và những nhà hàng bé nhỏ họ có thể ăn theo ư thích. Larry tỏ ra là một người vui vẻ, hấp dẫn đáng mến và Catherine thầm nghĩ rằng việc nàng bỏ công việc ở Hoa Kỳ để đi theo chồng sang Hy Lạp là hoàn toàn thoả đáng.
C̣n đối với Larry, chàng cũng chưa bao giờ được hạnh phúc đến như vậy. Công việc làm với Demiris thật là một giấc mơ trong cuộc đời chàng. Tiền lương rất hậu, song Larry không quan tâm đến những điều đó lắm. Điều chàng quan tâm nhiều là những chiếc phi cơ kỳ diệu mà chàng đang điều khiển. Để học lái chiếc Hawker Siddeley chàng mất đúng một tiếng đồng hồ và với năm chuyến bay nữa là chàng hoàn toàn làm chủ được nó. Phần lớn thời gian Larry bay cùng với Paul Metaxas, chàng phi công người Hy Lạp thấp bé, vô tư lự của Demiris. Metaxas rất ngạc nhiên trước việc Ian Whitestone đột ngột ra đi, rồi anh lại thấy lo lắng trước việc t́m người thay chân cho Whitestone: Anh đă từng nghe nhiều chuyện về Larry Douglas, song anh không tin Larry giống như h́nh ảnh qua các câu chuyện kể lại. Tuy nhiên, Douglas tỏ ra là có nhiệt t́nh thực sự đối với công việc mới mẻ của chàng và lần đầu tiên Metaxas bay cùng chàng, anh ta nhận thấy quả thực Larry là một phi công xuất chúng.
Dần dần Metaxas bớt phần cảnh giác và hai người trở thành đôi bạn thân thiết.
Mỗi khi không bay, Larry lại giành thời gian để nghiên cứu từng khuyết tật riêng của mỗi chiếc máy bay. Sau khi làm xong, chàng có thể điều khiển chúng lăo luyện hơn bất kỳ phi công nào đă từng bay chúng trước đây.
Sự phong phú của công việc khiến cho Larry thêm say mê: chàng thường đưa các nhân viên của Demiris đi công du tới Brindisi, Corfu và Rome, hoặc đón rước khách rồi đưa họ tới ḥn đảo riêng của Demiris để dự tiệc tùng hoặc đến nhà ván của ông ở Thuỵ Sĩ để truợt tuyết. Chàng đă quen với việc lái máy bay cho những nhân vật mà chàng thường xuyên thấy chân dung của họ trên các trang nhất của các báo chí, rồi chàng thích thú kể lại những chuyện về họ cho Catherine nghe. Chàng lái máy bay chở Tổng thống của một nước vùng Balkan, chở thủ tướng Anh, một ông vua dầu lửa Ả Rập và toàn bộ các cung phi của ông ta. Chàng đă chở những danh ca opera, một đoàn múa Balê và cả một đoàn diễn viên trong một vở kịch của hăng Broadway tŕnh diễn ở London chỉ duy nhất có một buổi mừng ngày sinh của Demiris. Chàng đă chở các chánh án toà án tối cao, một thượng nghị sĩ và cựu Tổng thống Hoa Kỳ. Trong suốt chuyến bay Larry dành phần lớn thời gian ngồi trong buồng lái, song thỉnh thoảng chàng cũng ghé qua cabin để kiểm tra lại xem các hành khách có được thoải mái dễ chịu không. Thỉnh thoảng chàng cũng nghe đôi đoạn trong những cuộc thảo luận giữa các trùm tư bản về những công ty hỗn hợp đang đe doạ vận mệnh của kẻ khác hoặc việc buôn bán chứng khoán. Lẽ ra chàng có thể lợi dụng được những tin tức mà chàng nghe lỏm được song chàng chẳng quan tâm ǵ. Cái mà chàng bận tâm nhiều lại là chiếc máy bay chàng đang bay, sao cho nó mạnh mẽ, sống động và nằm dưới sự kiểm soát của chàng.
Phải hai tháng sau Larry mới lái máy bay cho Demiris. Họ đang ở trên chiếc Piper. Larry lái máy bay chở ông chủ của ḿnh từ Athens tới Dubrovnik. Đó là một ngày trời đầy mây, có tin báo gió băo ǵật từng cơn dọc trên đường bay. Larry đă cẩn thận vạch ra một lộ tŕnh ít gặp gió băo nhất, song không khí vẫn đầy những vùng gió xoáy không tài nào tránh nổi.
Một giờ sau khi ra khỏi Athens chàng đă bật đèn báo thắt dây lưng an toàn và nói với Metaxas:
- B́nh tĩnh, Paul nhé. Chuyến bay này có thể là thử thách cả sự nghiệp của chúng ta đấy.
Larry lấy làm ngạc nhiên khi thấy Demiris xuất hiện trong buồng lái, nói:
- Cho tôi vào chỗ các anh nhé.
- Xin ông cứ tự nhiên - Larry đáp - Chuyến bay này sẽ khó khăn đây.
Metaxas nhường chỗ cho Demiris để cho ông ngồi vào đó. Larry lúc này chỉ muốn có người phi công bay kép của ḿnh ngồi cạnh để khi có sự cố ǵ th́ c̣n phản ứng cho kịp, tuy nó là máy bay của Demiris.
Trận băo kéo dài gần hai tiếng đồng hồ. Larry lái ṿng quanh một núi mây khổng lồ cuồn cuộn dâng lên ở trước mặt họ một màu trắng dễ chịu song cũng đầy đe doạ.
- Đẹp quá chừng - Demiris b́nh phẩm.
- Những đám mây này chết người đấy - Larry nói - Mây tích điện đấy - Lư do mà chúng trông đẹp đẽ và bồng bềnh như vậy v́ có gió ở bên trong thổi thốc lên. Máy bay mà lọt vào trong đó th́ chỉ không đầy mười giây là bị xé tan tành. Người ta có thể vọt lên hoặc rơi xuống ba chục ngàn foot trong không đầy một phút và không c̣n điều khiển được máy bay của ḿnh nữa.
- Tôi tin rằng anh sẽ không cho việc đó xảy ra - Demiris b́nh tĩnh đáp.
Gió quật vào máy bay, cố đẩy nó sang một phía song Larry vật lộn để nắm quyền điều khiển chiếc máy bay.
Chàng quên cả Demiris đang có mặt ở đó, tập trung toàn bộ chú ư vào chiếc máy bay chàng đang lái và vận dụng mọi kỹ năng mà chàng biết từ trước tới giờ. Cuối cùng họ đă ra khỏi vùng băo tố. Larry quay lại, lau mồ hôi và nhận thấy Demiris đă rời buồng lái từ bao giờ. Metaxas đang ngồi trên ghế.
- Paul ạ, chuyến bay đầu tiên với ông chủ khốn nạn thế đấy! - Larry than thở - Ḿnh có lẽ sẽ bị rầy rà đây.
Chàng đang cho máy bay hạ cánh xuống một sân bay nhỏ nằm giữa vùng đồi núi ở Dubrorvnik th́ Demiris xuất hiện ở buồng lái, ông bảo với Larry:
- Ông đă nói có lư. Tôi thấy hài ḷng v́ ông rất tài nghệ qua những việc ông đă làm.
Rồi Demiris bước ra.
Một buổi sáng Larry đang chuẩn bị cho một chuyến bay sang Marốc, Bá tước Pappas gọi điện thoại tới xin đề nghị được đưa Catherine đi chơi xe hơi về vùng nông thôn.
Larry nhất định bảo nàng phải đi.
- Bộ anh không ghen? - Nàng hỏi.
- Ghen với ông Bá tước? Larry cười rũ rượi.
Và Catherine bỗng hiểu ra cả. Trong suốt thời gian nàng với ông Bá tước đi chơi với nhau, ông ta chưa có một hành vi nào không đúng với nàng, thậm chí nh́n nàng một cách gợi t́nh cũng không. Nàng hỏi:
- Ông ấy bị bệnh đồng tính luyến ái?
Larry gật đầu:
- Chính v́ vậy anh mới để cho em được ông ấy chăm sóc ân cần như vậy.
Ông Bá tước đến đón Catherine rất sớm, rồi họ khởi hành theo hướng nam về vùng đồng bằng Thessaly rộng răi. Những người phụ nữ nông dân ăn vận quần áo đen bước dọc trên đường, trên lưng buộc những bó củi nặng trĩu Catherine thấy vậy hỏi:
- Tại sao nam giới không làm những công việc nặng nề này thay cho họ?
Ông Bá tước nh́n nàng bằng một cách nh́n thích thú rồi đáp:
- Phụ nữ không muốn nam giới làm những việc đó bởi v́ họ muốn chồng họ khoẻ khoắn lúc ban đêm để làm những việc khác.
Catherine chua chát nghĩ thầm: âu cũng là một bài học cho tất cả chúng ta.
Đến lúc chiều tà họ tới vùng núi Pindus trông ghê rợn với những mỏm đá vươn lên cao tận trời. Con đường bị tắc nghẽn bởi một đàn cừu được một người thợ cừu và một con chó săn gầy ốm chăn dắt. Bá tước Pappas phải dừng, đợi cho đàn cừu tản ra khỏi đường. Catherine ngắm nh́n con chó cắn vào chân những con cừu đi lạc đường bắt chúng đi vào hàng và theo hướng mà con chó muốn dắt dẫn.
Catherine tỏ ư thán phục:
- Con chó cứ như người vậy
Ông Bá tước nh́n nàng rất nhanh. Trong cái nh́n đó có điều ǵ đó khiến nàng thấy khó hiểu. Nàng hỏi:
- Sao vậy?
Ông Bá tước ngập ngừng:
- Câu chuyện này không hay ho ǵ.
- Yên chí, thần kinh tôi vững lắm.
Ông Bá tước kể:
- Đây là một vùng hoang dă. Đất đai ở đây toàn sỏi đá, cằn cỗi. Mùa màng có tốt nhất cũng chỉ được lèo tèo chút đỉnh mà thôi, mà nếu thời tiết xấu th́ chẳng thu hoạch được ǵ, đói to ngay lập tức - Giọng ông lạc hẳn đi.
Catherine vội nhắc:
- Ông cứ kể tiếp đi.
- Cách đây vài năm có trận băo lớn xảy ra tại đây, mùa màng hỏng hết cả. Mọi người cạn hết thức ăn. Toàn bộ lũ chó chăn cừu vùng này đă nổi loạn. Chúng bỏ các trang trại và tụ tập thành một đàn rất lớn - Ông kể tiếp, song cố giữ giọng nói không mang vẻ kinh hăi - Chúng bắt đầu tiến công các trang trại.
- Và giết hết cừu? - Catherine hỏi dồn.
Im lặng một lúc, ông ta đáp:
- Không. Chúng cắn xé và ăn thịt các người chủ của chúng.
Catherine sửng sốt nh́n ông.
- Người ta phải phái quân đội liên bang từ Athens về đây lập lại sự cai trị của con người. Mất gần một tháng.
- Thật là ghê rợn.
- Nạn đói đă gây ra những chuyện ghê rợn như vậy - Bá tước Pappas khe khẽ nói.
Đàn cừu đă qua hết con đường. Catherine ngó nh́n lại con chó chăn cừu một lần nữa và thấy rùng ḿnh.
Nhiều tuần lễ trôi qua, nhiều điều dường như lạ lùng, xa cách với Catherine giờ đây đă trở nên quen thuộc với nàng. Nàng nhận thấy mọi người đều cởi mở thân thiện.
Nàng biết những chỗ để mua bán, chợ búa và cửa tiệm mua quần áo ở phố Voukourestiou. Hy Lạp là một xứ sở kỳ lạ và người ta phải thư giăn và hưởng thụ nếp sống đó.
Không một ai vội vă ǵ, nếu bạn có hỏi đường ai đó họ có thể dẫn bạn đến tận nơi. Hoặc khi bạn hỏi đường có xa không th́ anh ta sẽ nói "Dnos cigarou dromos", mà Catherine hiểu rằng "hút hết một điếu thuốc lá". Nàng đă đi khắp các phố, xem khắp thành phố và uống thứ rượu vang thẫm âm ấm giữa ngày hè ở Hy Lạp.
Catherine và Larry đă đến thăm vùng Mykonos với những chiếc cối xay gió sặc sỡ màu sắc và thăm Melos, nơi người ta đă t́m ra bức tượng thần Vệ nữ ở Milo. Song nơi mà Catherine thích nhất vẫn là Paros, một ḥn đảo duyên dáng, xanh tươi với một ngọn núi nhô cao, đỉnh phủ đầy hoa. Khi chiếc thuyền của họ cập đảo, một người hướng dẫn đứng sẵn ở bến. Anh ta hỏi xem họ có cần anh đưa đường lên đỉnh núi bằng la không, và thế rồi họ trèo lên hai con la gầy trơ xương. Catherine đội một chiếc mũ rơm rộng vành để tránh ánh nắng gay gắt. Họ cưỡi la trèo lên con đường dốc gần tới đỉnh núi, có những phụ nữ vận đồ đen gọi to "Kelimera" và trao cho Catherine những món quà làm bằng cỏ tươi, da cừu thuộc để gài lên vành mũ của nàng. Sau hai giờ cưỡi la, họ tới một cao nguyên, đây là một khu đồng bằng đẹp đẽ có nhiều cây to với hàng triệu bông hoa nở đầy rất ngoạn mục. Người hướng dẫn dừng la lại để họ được ngắm cảnh sắc trăm hồng ngàn tía thật kỳ lạ.
- Nơi này được gọi là thung lũng Bướm - Người hướng dẫn giải thích bằng một thứ tiếng Anh nhát gừng.
Catherine nh́n quanh song không thấy một con bướm nào. Nàng hỏi:
- Tại sao người ta gọi như vậy?
Gă hướng dẫn toe toét cười, gần như hắn đang đợi câu hỏi này của nàng. Hắn bảo.
- Tôi sẽ cho bà thấy.
Hắn tụt xuống khỏi con la và nhặt một cành cây gẫy. Hắn tiến đến một cái cây và dùng cành cây gẫy đập thật mạnh vào đó. Trong chớp mắt những "bông hoa" trên hàng trăm cây bỗng bay tán loạn mang theo màu sắc sặc sỡ trên trời để những cái cây trơ ra đó. Không gian bỗng tràn ngập hằng hà sa số những con bướm đủ màu sắc tươi vui chập chờn nhảy múa trong ánh nắng.
Catherine và Larry kinh ngạc ngắm nh́n. Gă hướng dẫn đứng ngây người, ngắm họ, mặt hắn lộ vẻ tự hào như thể hắn cảm thấy hắn đang là người tạo nên cái phép màu huyền diệu mà họ đang được chiêm ngưỡng. Đó là một trong những ngày đẹp nhất trong đời Catherine, và nàng thầm nghĩ nếu như nàng có thể chọn lựa một ngày hoàn hảo nhất để nàng sống lại với nó, th́ ngày đó chính là ngày nàng đă sống với Larry ở Paros.
***
- Này, sáng hôm nay chúng ta có một thượng khách đấy nhé - Paul Metaxas cười vui vẻ với Larry - Đợi đó rồi sẽ được gặp nàng.
- Ai thế?
- Noelle Page, cô bồ nhí của ông chủ. Anh có thể ngắm chán th́ thôi, nhưng chớ có đụng vào mà chết đấy.
Larry Douglas chợt nhớ ra phút giây thoáng qua mà chàng đă chạm mặt người đàn bà đó tại nhà Demiris ngay sáng hôm chàng tới Athens. Nàng thật là một hoa khôi trông rất quen, có lẽ đó là v́ chàng đă từng thấy nàng trên màn bạc, trong một bộ phim của Pháp mà Catherine đă có lần lôi bằng được chàng đi xem. Chẳng cần phải nhờ đến người khác dậy chàng những phép tắc về sự tự vệ này.
Cho dù thế giới này thiếu đi những người đàn bà nhiệt t́nh, chàng cũng sẽ không láng cháng lại gần cô bồ của Constantin Demiris làm ǵ. Larry say sưa với công việc của ḿnh, chàng chẳng dại ǵ có hành động ngớ ngẩn để phá hoại công việc đó. Có lẽ chàng sẽ xin chữ kư của nàng đem về cho Catherine làm kỷ niệm là đủ.
Chiếc ô tô đưa Noelle ra phi trường đă phải giảm tốc mấy lần v́ những tốp công nhân đang sửa đường, song Noelle lại thấy thích những lần tŕ hoăn như vậy. Kể từ sau lần chạm mặt ở nhà Demiris, đây sẽ là lần đầu tiên nàng gặp lại Larry Douglas. Noelle bị chấn động mạnh trước những ǵ đă xảy ra. Hay nói cho chính xác hơn là trước những ǵ đă không xảy ra.
Trong hơn sáu năm qua Noelle đă tưởng tượng ra hàng trăm cách khác nhau về cuộc tái ngộ này: Nàng đă từng diễn đi diễn lại cảnh này trong óc. Chỉ có một điều duy nhất nàng không bao giờ nghĩ tới là Larry có thể không nhớ ra nàng. Cái sự kiện quan trọng nhất trong đời nàng hoá ra chẳng có nghĩa lư ǵ đối với chàng so với một vụ gian díu rẻ tiền, một trong hàng trăm vụ khác. Được rồi, trước khi nàng thanh toán với hắn, hắn phải nhớ ra nàng.
Larry đang đi ngang qua phi trường, tay cầm kế hoạch bay th́ cũng là lúc chiếc ô tô dừng lại trước chiếc máy bay khổng lồ và Noelle Page bước ra khỏi xe. Larry tiến đến bên chiếc xe, vui vẻ nói:
- Xin chào tiểu thư Page. Tôi là Larry Douglas. Tôi sẽ đưa cô cùng với những người khách của cô sang Canres.
Noelle quay lại và bước ngang qua chàng như thể chàng không hề có mặt tại đó. Larry đứng ngây người, lúng túng nh́n theo.
Ba mươi phút sau, những người hành khách khác, có chừng chục người, đă lên đủ trên máy bay, Larry và Paul cho máy bay cất cánh. Họ đưa nhóm người này tới Cote d Azur và ở đó họ sẽ được đón lên chiếc du thuyền của Demiris. Chuyến bay dễ dàng ngoại trừ gặp một đợt gió xoáy b́nh thường ở ngoài khơi bờ biển phía Nam nước Pháp vào mùa hè. Larry hạ cánh rất nhẹ nhàng và cho máy bay chạy trên đường băng tới chỗ có mấy chiếc xe hơi đang trực sẵn để đón khách. Larry rời máy bay cùng với người phụ lái nhỏ bé, bướng bỉnh. Noelle bước thẳng đến chỗ Metaxas, không thèm ngó ngàng ǵ tới Larry, nàng nói bằng một giọng khinh miệt:
- Anh Paul ạ, cái người phi công mới ấy mà, lái máy bay tài tử quá. Anh nên cho anh ta mấy bài về cách bay nhé.
Rồi Noelle bước vào xe, bỏ mặc Larry đứng ngây ra sững sờ, uất hận.
Chàng tự nhủ con mụ này thật là con quỷ cái, có lẽ hôm nào đó xấu trời chàng sẽ cho con mụ một trận. Song sự việc liên tiếp xảy ra một tuần sau đó đă khẳng định cho chàng thấy là chàng đang gặp một vấn đề nghiêm trọng.
Theo lệnh của Demiris, Larry đón Noelle ở Oslo lên máy bay rồi đưa nàng sang London. Lần này, Larry vạch ra một kế hoạch hết sức chu đáo. Ở phía Bắc có một vùng không khí áp suất cao, có thể có sấm chớp ở phía đông. Larry theo một một lộ tŕnh đi tắt qua những khu vực này và chuyến bay kết thúc suôn sẻ. Chàng đưa máy bay xuống đúng chỗ hạ cánh trong khu vực ba điểm, rồi cùng với Metaxas đi vào cabin. Noelle Page đang tô môi son. Larry lễ phép nói:
- Tôi hy vọng chuyến bay này tiểu thư ưng ư chứ, tiểu thư Page?
Noelle liếc nh́n chàng một lúc, mặt nàng không bộc lộ một t́nh cảm ǵ, sau đó nàng quay sang Paul Metaxas:
- Lúc nào tôi cũng cảm thấy bồn chồn khi bay trên máy bay do người lái tồi điều khiển.
Larry đỏ bừng mặt. Chàng định nói th́ Noelle lại bảo với Metaxas:
- Anh hăy nhắc cho anh ta nhớ rằng từ nay về sau bao giờ tôi hỏi han đến anh ta th́ anh ta mới được đáp lại lời tôi.
Metaxas lúng túng, muốt nước bọt.
- Dạ vâng, thưa tiểu thư.
Larry hằm hằm nh́n Noelle, đôi mắt chàng bốc lửa giận dữ theo nàng khi nàng đứng dậy, rời khỏi máy bay.
Chàng muốn vả vào mặt nàng, song chàng biết làm như vậy th́ coi như là chấm dứt một sự nghiệp. Chàng yêu thích công việc này hơn bất kỳ những công việc nào trước đây, và chàng cố kiềm chế không để một một chuyện rủi ro ǵ xảy ra. Chàng hiểu rằng một khi chàng bị sa thải th́ cũng có nghĩa đây là lần cuối cùng chàng được lái. Không, chàng sẽ phải hết sức thận trọng.
Khi Larry về đến nhà, chàng đem mọi chuyện vừa xảy ra kể lại với Catherine.
- Cô ta kiếm chuyện với anh hoài - Larry bảo.
- Cô ta có vẻ tai quái đấy - Catherine đáp - Larry anh có làm ǵ để cô ta mếch ḷng không?
- Anh chưa nói với cô ta trọn một chục từ.
Catherine nắm lấy tay chồng, an ủi:
- Anh cứ yên tâm. Chẳng mấy chốc là anh sẽ khiến cô ta phải say mê cho mà xem.
Hôm sau trong một chuyến Larry chở Constantin Demiris đi công cán ngắn ngày sang Thổ Nhĩ Kỳ, Demiris lại vào buồng lái và ngồi vào chỗ của Metaxas. Ông hất tay bảo người lái phụ đi ra chỗ khác để Larry và ông c̣n lại một ḿnh trong buồng lái. Họ ngồi yên lặng một hồi theo dơi những đám mây trắng nhỏ đập vào máy bay thành những h́nh kỷ hà học.
- Tiểu thư Page không ưa ǵ ông đâu - Cuối cùng Demiris lên tiếng.
Larry cảm thấy hai bàn tay chàng nắm chặt vào cần điều khiển, chàng phải chủ tâm nới lỏng tay ra. Chàng cố giữ giọng b́nh tĩnh:
- Cô ấy có nói lư do tại sao không ạ?
- Nàng bảo là ông đă thô lỗ với nàng.
Larry định mở miệng phản đối, sau đó chàng suy tính phải t́m cách khác.
- Xin lỗi. Tôi sẽ cố gắng thận trọng hơn, thưa ông Demiris - Chàng nói đều đều.
Demiris đứng dậy.
- Thôi được. Tôi tin rằng ông sẽ không làm cho tiểu thư Page phiền ḷng nữa - Đoạn ông rời khỏi buồng lái.
Không bao giờ nữa? Larry cố vắt óc nghĩ xem chàng có thể làm ǵ để nàng mếch ḷng không. Có thể nàng không thích "típ" của chàng. Cũng có thể nàng ghen tức v́ Demiris tin yêu chàng, song điều đó nghe chừng vô lư. Tất cả những lư do Larry nghĩ đến đều không thoả đáng. Song rơ ràng Noelle cố t́m cách để sa thải chàng.
Larry nghĩ đến chuyện bị mất việc, lại phải ngồi khai những tờ đơn như cậu học tṛ khốn khổ, lại những cuộc phỏng vấn, lại chờ trực, và lại những giờ phút đằng đẵng cố giết thời gian trong những quán rượu rẻ tiền, bên lũ đĩ điếm tạm bợ. Chàng nhớ đến việc Catherine kiên nhẫn, sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện thế mà sao chàng lại căm ghét nàng đến vậy. Không, chàng không thể nào lặp lại những chuyện như thế một lần nữa. Chàng không thể chịu nổi một thất bại nữa.
Vài ngày sau trên một trạm dừng chân ở Beirut, Larry đi ngay qua một rạp chiếu bóng và để ư thấy một bộ phim đang chiếu do Noelle Page thủ vai chính. Chàng bốc đồng vào xem phim, có ư để chuẩn bị xoi mói bộ phim và diễn viên chính trong phim, song Noelle diễn quá xuất sắc khiến chàng hoàn toàn bị nàng lôi cuốn từ đầu đến cuối.
Một lần nữa chàng lại có một t́nh cảm kỳ lạ là thân thiện với nàng. Sáng thứ hai sau, Larry lái may bay chở Noelle Page cùng một số bạn kinh doanh của Demiris đi Zurich.
Larry đợi đến khi Noelle Page c̣n lại một ḿnh, chàng mới tiến lại gần. Chàng thấy ngần ngại khi bắt chuyện với nàng bởi chàng nhớ đến câu nói cảnh cáo của nàng gần đây nhất, song chàng xác định rằng cách duy nhất để xoá đi sự ác cảm của nàng là thái độ cư xử hoà nhă của chàng.
Tất cả các cô đào đều có tính thích được tâng bốc, thích nghe người ta khen về diễn xuất tốt, v́ vậy lúc này chàng tiến lại gần và tỏ ra hết sức lịch thiệp:
- Xin lỗi tiểu thư Page, tôi xin có vài lời muốn bày tỏ rằng cách đây vài hôm tôi có được xem tiểu thư đóng trong một bộ phim. Đó là phim Khuôn mặt thứ ba. Có lẽ tiểu thư là một trong những tài tử xuất sắc nhất mà tôi từng xem từ trước tới nay.
Noelle nh́n chàng một lát rồi đáp:
- Tôi muốn tin rằng ông là một nhà phê b́nh giỏi hơn một phi công, song tôi không tin lắm là ông có được hiểu biết cũng như khiếu thẩm mĩ tốt.
Đoạn nàng bỏ đi.
Larry đứng như mọc rễ ở đó, chàng cảm thấy bị choáng váng bất ngờ. Đồ con đượi! Thoáng trong giây lát chàng có ư định đi theo cô ta và nói toẹt cho cô ả rơ nhưng ư nghĩ thật của ḿnh, song chàng biết rằng nếu làm như vậy chàng sẽ rơi vào cái bẫy của cô ả. Không. Từ nay trở đi chàng chỉ biết công việc của chàng và t́m cách lánh xa cô ta, càng xa càng tốt.
Trong mấy tuần sau đó Noelle thường đi trên máy bay do chàng lái. Larry không hề nói năng ǵ với nàng và chàng cố hết sức thu xếp sao cho nàng không thể chạm mặt chàng. Chàng không bao giờ ra buồng hành khách, để cho Metaxas làm nhiệm vụ thông báo những tin tức cần thiết cho các hành khách. Không thấy Noelle có ư kiến ǵ nữa Larry thấy mừng thầm là chàng đă t́m ra biện pháp giải quyết vấn đề. Nhưng…
Một buổi sáng, Demiris cho gọi Larry tới biệt thự của ông:
- Tiểu thư Page sẽ bay sang Paris giả quyết một chuyện cơ mật giúp tôi. Tôi muốn ông đi hộ vệ cho nàng.
- Vâng, thưa ông Demiris.
Demiris quan sát chàng một lát, định nói thêm điều ǵ, sau đó ông thay đổi ư kiến, nói gọn lỏn:
- Có vậy thôi.
V́ Noelle là hành khách duy nhất trên chuyến bay sang Paris cho nên Larry quyết định dùng chiếc phi cơ Piper. Chàng sắp đặt để Paul Metaxas ra săn sóc xem Noelle ngồi có được thoải mái không, c̣n chàng ngồi lại ở buồng lái, cố tránh mặt trong suốt chuyến bay. Khi họ hạ cánh, Larry tiến lại phía ghế nàng ngồi, nói:
- Thưa tiểu thư Page, ông Demiris có yêu cầu tôi đi kèm cô trong thời gian cô lưu lại Paris.
Nàng ngước nh́n chàng, vẻ khinh miệt:
- Được thôi. Nhưng đừng có để tôi thấy là ông quanh quất bên cạnh tôi.
Chàng gật đầu, lạnh lùng.
Họ đi ô tô riêng từ sân bay Orly vào thành phố. Larry ngồi ở hàng ghế trước cùng với tài xế, c̣n Noelle ngồi ở ghế sau. Trong suốt chuyến đi vào thành phố nàng không hề nói một câu nào. Trạm dừng chân đầu tiên của họ là Parisbas, Ngân hàng Paris và des Bas. Larry đi cùng Noelle vào khu sảnh và ngồi đợi nàng được người ta đưa vào văn pḥng của chủ tịch ngân hàng sau đó lại xuống nhà hầm nơi có những két tiền được lưu giữ. Noelle đi vào trong đó chừng ba mươi phút, sau đó nàng quay trở lại, nàng đi thẳng qua chỗ Larry không nói một lời. Chàng trừng trừng nh́n theo một lúc, sau đó cũng quay ra, đi theo nàng.
Trạm dừng thứ hai của họ là ở phố Faubourg – St. Honoré. Noelle cho xe về nghỉ. Larry đi theo nàng vào một tiệm bách hoá và đứng ở xa xa đợi nàng chọn hàng để mua, sau đó nàng trao cho chàng những gói đồ để chàng xách giùm. Nàng đi mua hàng ở hàng chục tiệm khác nhau: đến Hermes mua ví và dây lưng, đến Guerlain mua nước hoa, đến Celine mua giày dép, cho tới khi Larry tay xách nách mang bị lôi đi xềnh xệch khắp nơi khắp chốn. Khi họ bước ra khỏi tiệm Celine, trời bắt đầu đổ mưa.
Khách bộ hành vội vă t́m chỗ trú ẩn. Noelle ra lệnh:
- Ông đợi tôi ở đây.
Larry đứng nh́n theo nàng biến vào trong một nhà hàng ở phía bên kia phố. Chàng đă đứng ngoài mưa tầm tă suốt hai tiếng đồng hồ, hai tay ôm đầy đồ, thầm rủa nàng và rủa bản thân ḿnh đă hứng chịu thái độ bất nhă của nàng. Chàng đă bị mắc bẫy, không cách nào thoát ra được. Và chàng thấy trước một chuyện chẳng lành, rằng thế nào chàng cũng c̣n gặp những điều thậm tệ hơn.
***
Lần đầu tiên Catherine gặp Constantin Demiris là tại biệt thự của ông. Larry đi tới đó để trao cho ông một gói đồ chàng đă mang từ Copenhaghen về và Catherine cũng theo chàng đến đó. Nàng đứng ở ngoài pḥng tiếp tân rộng bát ngát ngắm nh́n một bức tranh th́ cửa bỗng xịch mở và Demiris bước ra. Ông ngắm nh́n nàng một lát rồi bảo:
- Bà có thích tranh của Nomet không, bà Douglas?
Catherine xoay người lại đối diện với con người huyền thoại mà nàng đă nhiều lần được nghe nói tới. Nàng có hai cảm tưởng tức th́: một là Constantin Demiris cao lớn hơn so với nàng h́nh dung và cái sức mạnh oai vệ toát ra ở ông thật là dữ dội. Nàng kinh ngạc khi thấy ông biết tên nàng và biết nàng là ai. Ông hỏi Catherine có thích nước Hy Lạp không, rằng căn nhà của nàng có tiện nghi không và cứ mạnh dạn cho ông biết nàng có cần ông giúp đỡ ǵ để cho thời gian nàng lưu lại trên đất Hy Lạp được thoải mái. Thậm chí ông c̣n biết cả (điều này th́ Chúa biết) việc nàng thích sưu tập những mẫu chim muông nhỏ xíu. Ông bảo:
- Tôi bắt gặp một mẫu. Tôi sẽ gửi đến tặng bà.
Larry xuất hiện, chàng cùng với Catherine ra về.
- Em có thấy mến ông Demiris không? - Larry hỏi.
- Ông ấy thật hấp dẫn - Nàng đáp - Thảo nào anh thích làm việc cho ông ấy cũng phải.
- Anh sẽ c̣n làm việc cho ông ta - Giọng của chàng có vẻ chua chát khiến Catherine khó hiểu.
Ngày hôm sau một con chim bằng sứ được chuyển đến cho Catherine.
Sau đó Catherine c̣n gặp Constantin Demiris hai lần nữa, một lần nàng đi xem đua ngựa cùng Larry và lần thứ hai vào dịp lễ Giáng sinh, ông Demiris có tổ chức một bữa tiệc tại biệt thự của ḿnh. Mỗi lần ông lại làm cho nàng bị say mê theo một kiểu riêng. Catherine nghĩ thầm, xét cho cùng Constantin Demiris hoàn toàn là người xuất chúng.
Vào tháng tám lễ hội ở Athens bắt đầu. Trong hai tháng liền người ta diễn kịch, ballet, opera, hoà nhạc tại thành phố này. Tất cả các hoạt động đó đều diễn ra ở nhà hát Herodes Atticus, một nhà hát cổ ngoài trời ở ngay dướu chân khu quần thể Acropolis. Catherine đă cùng với Larry đi xem nhiều vở kịch, và nếu chàng đi vắng th́ nàng cùng Bá tước Pappas. C̣n thú vị nào bằng được xem những vở kịch cổ điển diễn trong bối cảnh độc đáo do chính con cháu của tác giả đă sáng tác nên vở kịch đó.
Một buổi tối sau khi Catherine và Bá tước Pappas đi xem vở Medea trở về, họ nhắc đến Larry.
- Ông ấy là người hấp dẫn đấy - Bá tước bảo - Một Polymechanos!
- Nghĩa là ǵ?
- Từ này khó dịch lắm - Ông Bá tước nghĩ một lát - Nó có nghĩa là "phong phú về mưu kế".
- Ông định nói là "nhiều trí xảo"?
- Phải, nhưng c̣n ư nghĩa sâu xa hơn nhiều. Đó là loại người luôn luôn có sáng kiến mới, có phương án mới.
- Polymechanos - Catherine bảo - Vậy là chàng trai của tôi là như vậy.
Trên đầu họ là một vầng trăng tṛn vành vạnh, đẹp đẽ như làm bằng sáp: không khí ban đêm ấm áp, đầy mùi nhựa thơm. Họ đi bộ ngay qua khu Poaka về phía quảng trường Onionia. Khi họ vừa định sang đường th́ một chiếc ô tô phóng nhanh ở chỗ quẹo góc phố, lao thẳng vào họ. Bá tước phải kéo Catherine lại khỏi bị tai nạn.
- Quân khốn khiếp! - Ông rít lên đằng sau chiếc ô tô đang biến mất.
- Ở đây h́nh như tài xế nào cũng chạy như thế cả? - Catherine nhận xét.
Bá tước Pappas cười gượng gạo:
- Bà có biết lư do tại sao không? Người Hy Lạp không có giai đoạn chuyển tiếp sang dùng xe hơi. Họ cứ đinh ninh rằng họ vẫn đang cưỡi lừa.
- Ông nói giỡn?
- Đáng tiếc là tôi nói thật đấy Catherine ạ, nếu bà muốn hiểu nội tâm con người Hy Lạp th́ đừng có đọc những sách hướng dẫn mà hăy đọc các bi kịch cổ điển Hy Lạp. Thực tế là chúng tôi vẫn mang tính chất man rợ. Chúng tôi vẫn mang nhiều t́nh cảm say đắm, những niềm vui to lớn và những nỗi buồn sâu xa và chúng tôi không biết cách che giấu những t́nh cảm đó bằng vẻ bề ngoài văn minh tinh tế.
- Tôi không tin rằng đó là một điều xấu - Catherine đáp.
- Có lẽ đúng vậy. Song nó làm méo mó thực tế. Mỗi khi người nước ngoài quan sát chúng ta, họ không nh́n thấy đúng thực chất cái họ nh́n thấy, giống như nh́n một ngôi sao xa vậy. Người ta không nh́n đúng ngôi sao đó mà nh́n thấy h́nh ảnh quá khứ của nó.
Họ đă tới quảng trường. Họ đi qua một dăy cửa hiệu nhỏ có bảng treo bên ngoài cửa sổ "Đoán hậu vận".
- Đây có nhiều thầy tướng số quá nhỉ? - Catherine hỏi.
- Dân tộc chúng tôi rất mê tín.
Catherine lắc đầu:
- Tôi không tin như vậy.
Họ tới một tiệm rượu nhỏ. Trên cửa sổ có mổt tấm biển viết tay: BÀ PIRIS, ĐOÁN HẬU VẬN.
- Bà có tin ở phù thủy, đồng cốt không? - Bá tước Pappas hỏi.
Catherine nh́n lại xem ông có giễu cợt nàng không.
Vẻ mặt ông vẫn nghiêm nghị.
- Chỉ ở xứ Halloween thôi.
- Tôi nói phù thủy không có nghĩa là những chuyện như chổi rác, mèo đen hoặc ấm nước sôi réo đâu(2).
- Thế ông nói về cái ǵ?
Ông gật đầu về phía tấm biển:
- Bà Piris là một phù thủy. Bà ta đoán được mọi chuyện quá khứ và tương lai đấy.
Ông nhận thấy sự hoài nghi trên nét mặt của Catherine, Bá tước Pappas nói:
- Tôi sẽ kể cho bà nghe một câu chuyện. Cách đây nhiều năm, ông Cảnh sát trưởng ở Athens là Sophocle Vasilly. Ông ấy là bạn tôi và tôi đă dùng ảnh hưởng của ḿnh để giúp anh ấy vào chức vụ đó. Vasilly là một người rất trung thực. Có nhiều kẻ muốn hủ hoá ông ta, song v́ ông ta là người có bản lĩnh, họ quyết định t́m cách diệt ông ta.
Ông nắm tay Catherine, họ sang đường đi về phía công viên.
- Một hôm Vasilly đến báo cho tôi biết ông ấy vừa bị người ta ám hại. Ông là một người dũng cảm, song vụ ám hại này khiến ông phải đề pḥng bởi nó do một kẻ phóng đăng có thế lực và tàn bạo sắp đặt. Người ta đă cắt cử thám tử đi theo dơi kẻ phóng đăng kia và bảo vệ Vasilly, song ông vẫn có cảm giác bồn chồn rằng ông không c̣n sống được bao lâu nữa. V́ thế ông t́m đến tôi.
Catherine say sưa nghe, nàng hỏi dồn:
- Thế ông đă làm ǵ?
- Tôi khuyên ông ấy đến nhờ bà Piris bói cho một quẻ.
Ông nói đến dây th́ im lặng, cố căng óc ra nhớ lại những kư ức xa xôi.
Catherine cuối cùng phải hỏi:
- Ông ấy có đến không?
- Sao? À có. Bà ta cho Vasilly biết là cái chết sẽ nhanh chóng và bất ngờ đến với ông ấy, bà ấy c̣n nhắc ông phải cảnh giác với một con sư tử vào giữa trưa. Ở Hy Lạp làm ǵ có sư tử trừ mấy con già khú đế ở sở thú và những con sư tử bằng đá mà bà trông thấy ở Delos.
Catherine cảm thấy giọng nói của ông mỗi lúc một thêm căng thẳng.
- Vasilly đă đến tận vườn thú để kiểm tra lại xem các chuồng sư tử có an toàn không, ông ta c̣n hỏi cặn kẽ xem gần đây người ta có mang thêm con dă thú nào đến Athens không. Không có một con nào.
Một tuần trôi qua, không thấy chuyện ǵ xảy ra. Vasilly cho rằng bà lăo phù thủy kia đă nhầm và ông ta v́ quá mê tín nên mới tin vào bà lăo đó. Một buổi sáng thứ bảy tôi ghé qua đồn cảnh sát để thăm ông ta. Hôm đó là ngày sinh của đứa con trai lên bốn của ông. Chúng tôi dự định sẽ đi chơi bằng tàu thủy tới Kyron để làm lễ mừng cho đứa trẻ.
Tôi đến trước trụ sở cảnh sát đúng lúc đồng hồ của Toà thị chính điểm mười hai tiếng. Tôi vừa bước vào cửa th́ một tiếng nổ dữ dội từ bên trong toà nhà dội ra. Tôi vội chạy vào văn pḥng của Vasilly - Giọng ông trở nên cứng đơ lúng túng - Văn pḥng không c̣n một thứ ǵ nguyên vẹn - kể cả Vasilly cũng thế?
- Thật là kinh khủng - Catherine lẩm bẩm.
Họ bước tiếp, song im lặng một lúc lâu rồi Catherine mới hỏi:
- Nhưng bà phù thủy vẫn nhầm. Ông ta có bị chết v́ sư tử đâu - Không, đúng như vậy đó. Cảnh sát điều tra kỹ những việc đă xảy ra. Như tôi đă kể với bà rằng hôm đó là ngày sinh nhật của con trai ông ta. Trên bàn làm việc của Vasilly có một đống quà mà ông định sẽ mang về cho con trai. Có kẻ đă mang đến một đồ chơi làm quà cho đứa trẻ và đă đặt trên bàn làm việc của Vasilly.
Catherine cảm thấy mặt cắt không c̣n hột máu:
- Một con sư tử đồ chơi.
Bá tước Pappas gật đầu.
- Đúng! Hăy thận trọng với con sư tử vào buổi trưa.
Catherine rùng ḿnh:
- Tôi thấy sởn gai ốc.
Ông nh́n xuống nàng vẻ thông cảm:
- Bà Piris không phải là loại người đoán hậu cho vui đâu.
Họ đi ngang qua công viên và đến phố Piraios. Có một chiếc taxi không có khách chạy ngang qua. Ông Bá tước vẫy tay và mười phút sau Catherine đă về đến nhà.
Trong lúc chuẩn bị đi ngủ, nàng đă kể lại cho Larry nghe câu chuyện vừa rồi. Và khi nàng kể, nàng lại thấy sởn gai ốc. Larry ôm gh́ lấy nàng, ân ái, song phải một hồi rất lâu Catherine mới ngủ thiếp được.


Chú thích:
(1) chơi chữ, đúng ra là Constiution (hiến pháp) và Costipation (táo bón). Chúng tôi tạm dịch như vậy
(2) Những điều mê tín thông thường (Người dịch)


Chương 16

NOELLE VÀ CATHERINE
Athens 1946

Nếu không v́ Noelle Page, Larry Douglas đă được những chuỗi ngày vô ưu. Nàng muốn đi đâu th́ đi, muốn làm ǵ th́ làm. Chàng lấy làm thích thú với công việc của ḿnh, thích những người chàng gặp gỡ và mến người chủ của ḿnh. Những lúc chàng không bay, chàng thường giành nhiều thời gian cho Catherine. Tuy nhiên v́ công việc của Larry là công việc động cho nên không phải lúc nào Catherine cũng có thể biết được chàng đang ở đâu, Larry càng có rất chiều cơ hội để đi vắng v́ việc riêng của chàng. Chàng thường đi tiệc tùng với Bá tước Pappas và với Paul Metaxas, người lái phụ của chàng, và nhiều dịp như vậy đă biến thành các cuộc truy hoan lạc thú. Phụ nữ Hy Lạp cuồng nhiệt như lửa cháy. Chàng đă t́m ra được một người mới, đó là Helena, một cô chiêu đăi viên làm việc cho Demiris và mỗi khi họ phải dừng chân ở đâu đó, xa Athens cô ta cùng với Larry thường sống chung một pḥng khách sạn. Helena là một cô gái đẹp, mắt đen, người thanh mảnh và không biết thế nào là thoả măn. Phải, như là vậy xét về mọi khía cạnh, Larry Douglas nhận thấy cuộc đời chàng thật là đầy đủ. Chỉ trừ cô nhân t́nh tóc vàng tai quái của Demiris mà thôi.
Larry không t́m ra một dấu hiệu nào để biết lư do tại sao Noelle Page lại căm giận chàng như vậy, song dù thế nào chăng nữa, việc đó cũng đe doạ đến nếp sống của chàng. Larry càng tỏ ra lịch thiệp thân mật, mà vẫn giữ ǵn thận trọng, thế mà lần nào Noelle Page cũng thành công trong việc biến chàng thành một thằng đần độn.
Larry biết rằng chàng có thể t́m gặp Demiris, song chàng cũng dễ dàng h́nh dung ra t́nh huống sẽ dẫn tới đâu nếu như ông ta phải chọn lựa giữa chàng và Noelle. Đă hai lần, chàng sắp xếp để Paul Metaxas phụ trách chuyến bay đưa Noelle đi, song ngay sau mỗi chuyến bay như vậy cô thư kư của Demiris muốn đích thân chàng phải lái máy bay chở nàng.
Sáng sớm một ngày cuối tháng mười một, Larry nhận được một cú điện thoại báo cho chàng biết sẽ phải lái máy bay cho Noelle Page sang Amsterdam chiều hôm đó. Một trận sương mù bắt đầu cuồn cuộn nổi lên và cho đến đầu buổi chiều tầm nh́n gần như bằng không. Larry gọi điện cho thư kư của Demiris báo cho cô ta biết ngày hôm đó không thể bay sang Amsterdam được. Mười lăm phút sau đó cô ta phôn lại nói rằng tiểu thư Page sẽ có mặt tại phi trường lúc hai giờ, sẵn sàng để ra đi. Larry kiểm tra lại thông tin ở sân bay và chàng cho rằng có thể t́nh h́nh thời tiết đă khá hơn, tuy nhiên tin tức báo lại cho biết vẫn không có ǵ thay đổi.
- Lạy chúa - Paul Metaxas thốt lên - Cô ta làm ǵ mà vội vă đến Amsterdam đến thế không biết?
Song Larry cảm giác rằng vấn đề ở đây không phải là Amsterdam. Mà đây là sự tranh chấp về ư chí giữa hai người. Chàng bất cần nếu như Noelle Page có phải đâm vào đỉnh núi và chết mất tiêu, song thật nhục nhă nếu như chàng liều lĩnh v́ con mụ ngu xuẩn này. Chàng cố gọi điện thoại cho Demiris để bàn lại với ông, nhưng ông lại đang bận họp, không tiếp xúc được. Larry đặt mạnh ống nói xuống, rên rỉ. Chàng chỉ có một nước là phải ra phi trường và cố thuyết phục cô hành khách kia hủy bỏ chuyến bay. Chàng tới phi trường lúc 1 gị 30 phút. Cho đến ba giờ vẫn chưa thấy Noelle Page xuất hiện. Metaxas bảo:
- Có lẽ cô nàng đă thay đổi ư kiến.
Song Larry biết rơ nàng hơn. Thời gian càng trôi qua, chàng mỗi lúc một thêm tức giận. Cô ả cố t́nh đẩy chàng đến chỗ hành động khinh xuất để rồi mất việc đây mà?
Larry đang đứng ở nhà ga nói chuyện với giám đốc phi trường th́ chiếc xe Rolls-Royce màu xám quen thuộc của Demiris đi tới và Noelle Page xuất hiện. Larry đi vội ra đón nàng.
- Tiểu thư Page ạ, tôi e rằng phải hoăn chuyến bay thôi - Chàng nói, cố giữ giọng thật b́nh tĩnh - Sân bay Amsterdam đang bị sương mù vây kín.
Noelle đưa cái nh́n lướt qua Larry như chàng không hề tồn tại ở đó, rồi bảo Paul Metaxas.
- Phi cơ này có một thiết bị hạ cánh tự động mà?
- Phải, có đấy ạ - Metaxas lúng túng đáp.
- Tôi hết sức ngạc nhiên - Nàng nói - Khi thấy ông Demiris đi thuê một gă phi công ươn hèn. Rồi tôi sẽ báo với ông ấy về chuyện này.
Noelle quay người, đi thẳng tới chỗ máy bay, Metaxas nh́n theo nàng, nói:
- Lạy chúa Jesus? Tôi không hiểu cô ta trái tính trái nết từ bao giờ. Trước đây có bao giờ hành động như thế này đâu. Xin lỗi anh Larry nhé.
Larry ngắm nh́n Noelle đang đi ngang sân bay trước gió. Trong đời, chàng chưa từng căm ghét một ai như cô gái này.
Metaxas nh́n chàng, hỏi:
- Ta bay chứ?
- Th́ bay!
Người phi công kép buông một tiếng thở dài ngao ngán, rồi cả hai người chậm chạp đi về phía máy bay.
Noelle đang ngồi trong ca bin, uể oải giở một quyển tạp chí th́ hai người bước vào máy bay. Larry trừng trừng nh́n nàng một lúc lâu, đầy uất hận song chàng không dám lên tiếng. Chàng đi thẳng vào buồng lái và kiểm tra lại mọi thông số trước khi bay.
Mười phút sau chàng nhận được lệnh cho phép cất cánh từ tháp đài chỉ huy, họ lên đường, bay về Amsterdam.
Nửa đoạn đầu chuyến bay t́nh h́nh không có ǵ trắc trở. Nước Thuỵ Sĩ nằm phía dưới, giữa một vùng tuyết trắng. Khi họ tới Đức, trời đă xẩm tối, Larry liên lac vô tuyến điện với Amsterdam để kiểm tra lại t́nh h́nh thời tiết. Người ta cho biết sương mù từ biển Bắc Hải thổi về ngày một dầy thêm. Chàng tự rủa số phận rủi ro của ḿnh.
Giá như gió đổi chiều, sương mù tan đi, vấn đề của chàng sẽ được giải quyết dễ dàng, nhưng bây giờ chàng phải quyết định ngay, hoặc là cứ liều sử dụng thiết bị để hạ cánh xuống Amsterdam hoặc là bay tới một sân bay đỗ tạm ở đó. Chàng cồ ư định quay trở lại và muốn báo chuyện này với người hành khách tai quái kia, song chàng có thể tưởng tượng ra vẻ khinh miệt hiện ra trên nét mặt nàng.
- Chuyên cơ một không chín, xin cho biết ngay kế hoạch bay của các ông - Tháp đài sân bay Munich hỏi.
Larry phải quyết định rất nhanh. Chàng c̣n có thể hạ cánh ở Brusels, Cologne hoặc Luxembourg. Hoặc Amsterdam?
Giọng nói lại vang lên trong loa:
- Chuyên cơ một không chín, xin cho biết ngay kế hoạch bay của các ông.
Larry ấn mạnh phím máy truyền tin:
- Chuyên cơ một không chín gọi đài Munich. Chúng tôi đang bay về Amsterdam.
Chàng tắt máy và biết rằng Metaxas đang chăm chú theo dơi chàng.
- Lạy chúa, lẽ ra tôi phải đóng bảo hiểm gấp đôi cho tính mạng của tôi - Metaxas nói - Có thực anh cho rằng chúng ta tới đó được an toàn không?
Larry chua chát đáp:
- Bộ anh muốn biết sự thật? Tôi đếch cần.
- Quái gở thật? Ḿnh lên trời cùng với hai đứa điên khùng - Metaxas rên rỉ.
Một giờ sau Larry hoàn toàn để tâm vào việc điều khiển chiếc phi cơ, chàng chăm chú lắng nghe các bản tin thời tiết đưa ra đều đặn và không có một lời b́nh luận ǵ. Chàng vẫn tin rằng gió sẽ đổi chiều song khi c̣n cách Amsterdam ba mươi phút bay, bản tin vẫn không có ǵ khác. Vẫn là sương mù dày đặc. Sân bay đă đóng cửa đối với mọi loại máy bay, chỉ trừ những trường hợp khẩn cấp. Larry đă liên lạc với đài kiểm soát của sân bay Amsterdam.
- Chuyên cơ một không chín gọi đài Amsterdam. Máy bay đang cách Cologne 75 dặm về phía đông. Giờ đến ước định vào lúc 19 giờ.
Gần như lập tức một giọng vang lên trong đài, đáp:
- Đài Amsterdam gọi chuyên cơ một không chín. Sân bay chúng tôi hiện đóng cửa. Đề nghị các ông quay trở lại Cologne hạ cánh xuống Brussels.
Larry nói vào trong máy:
- Chuyên cơ một không chín gọi Đài Amsterdam. Không đồng ư. Chúng tôi gặp trường hợp khẩn cấp.
Metaxas ngạc nhiên, quay lại nh́n chàng trừng trừng.
Một giọng nói mới vang lên trong loa:
- Chuyên cơ một không chín, tôi là trưởng Đài điều phối hoạt động tại phi trường Amsterdam. Sân bay chúng tôi hoàn toàn bị sương mù bao phủ. Tầm nh́n bằng không. Xin nhắc lại: tầm nh́n bằng không. Trường hợp khẩn cấp của ông như thế nào?
- Chúng tôi sắp hết xăng rồi - Larry nói - Chỉ c̣n vừa đủ để tới sân bay của ông.
Metaxas đưa mắt nh́n đồng hồ đo nhiên liệu thấy c̣n một nửa, anh ta bật nói:
- Lạy Chúa, chúng ta đủ xăng bay đến Trung Quốc cũng được!
- Máy vô tuyến điện đă ngừng. Đột nhiên nó lại bật nói trở lại.
- Đài Amsterdam gọi chuyên cơ một không chín. Các ông được phép hạ cánh khẩn cấp. Chúng tôi sẽ hướng dẫn cho máy bay xuống.
- Rơ! - Larry tắt máy liên lạc và quay sang Metaxas, ra lệnh:
- Xả nhiên liệu ra.
Metaxas nuốt nước bọt, nói tắc nghẹn:
- Xả, xả bớt nhiên liệu
- Paul, anh có nghe rơ lệnh tôi không. Chỉ giữ đủ lượng xăng để xuống tới sân bay.
- Nhưng, Larry…
- Con khỉ, không tranh luận nữa. Nếu chúng ta xuống đó mà c̣n nửa thùng xăng th́ họ sẽ lột bằng lái của chúng ta.
Metaxas nhăn nhó gật đầu và giơ tay với cần điều khiển xả nhiên liệu. Anh ta bắt đầu bơm tháo, mắt không rời đồng hồ đo nhiên liệu. Năm phút sau họ đă ở giữa khu vực sương mù như một lớp bông trắng bao bọc lấy họ, xoá đi mọi h́nh ảnh khác trừ cái buồng lái họ đang ngồi với ánh sáng lờ mờ.
Họ có một cảm giác kỳ quặc không c̣n phân biệt được thời gian, không gian và những thứ khác c̣n lại trên đời. Lần cuối cùng, Larry trải qua cảm giác này là lần chàng bay trên chiếc Link Trainer. Song đó chỉ như một tṛ chơi chứ không hề có nguy hiểm đe doạ. C̣n đây là sự liều lĩnh một sống một chết. Không biết người hành khách của chàng có ảnh hưởng ǵ hay không. Chàng hy vọng t́nh thế này phải làm cho cô ta rung tim mới đáng.
- Đài chỉ huy gọi chuyên cơ một không chín. Tôi sẽ hướng dẫn cho ông hạ cánh theo hệ thống hạ cánh tự động. Ông phải tuân thủ thật chính xác các chỉ dẫn của tôi. Chúng tôi đă phát hiện được máy bay các ông trên radar. Hăy quay sang phía tây ba độ và giữ vững độ cao hiện nay cho đến khi nhận được những chỉ thị tiếp theo. Với tốc độ bay hiện nay, mười tám phút nữa ông phải hạ cánh. - Giọng nói vang lên trong radio đầy vẻ căng thẳng.
Larry chua chát nghĩ: họ lo lắng cũng phải. Chỉ một sai lầm nhỏ là máy bay sẽ lao xuống biển. Larry chấn chỉnh lại đôi chỗ, sau đó chàng gác mọi chuyện lại để tập trung vào giọng nói rời rạc kia, bởi v́ đó là sợi dây duy nhất của chàng nối với sự sống. Chàng điều khiển chiếc phi cơ như thể nó là một bộ phận của cơ thể chàng, chàng điều khiển nó với tất cả trái tim khối óc và tâm hồn của chàng. Chàng mơ hồ cảm thấy Paul Metaxas đang vă mồ hôi bên cạnh, chàng thúc anh ta thường xuyên kiểm tra các thiết bị bằng một giọng trầm, căng thẳng, song nếu như họ có thoát chết phen này th́ công lao sẽ là do Larry Douglas hết, Larry chưa từng bao giờ gặp một trận sương mù dày đặc như thế này. Nó như một kẻ thù hiểm độc tấn công chàng từ khắp mọi phía, làm cho chàng trở nên mù loà.
Chàng đang bay trên trời với tốc độ hai trăm năm mươi dặm một giờ, không nh́n thấy ǵ ngoài tấm kính chắn của buồng lái. Các phi công rất căm ghét sương mù: nguyên tắc đầu tiên của họ là: hoặc vọt lên cao hoặc chui xuống bên dưới, song phải t́m cách thoát ra khỏi đám sương mù ấy? C̣n bây giờ không c̣n cách nào khác bởi v́ lần này chàng phải lao vào một cái đích không thể nào tránh được.
- Đài chỉ huy Amsterdam gọi chuyên cơ một không chín. Ông bắt đầu giai đoạn hạ cánh thứ nhất như sau: Hạ độ cao, bắt đầu xuống thấp. Xuống hai ngàn foot… một ngàn năm trăm foot… một ngàn foot…
Vẫn chưa thấy tín hiệu ǵ của phi trường bên dưới, chàng có cảm giác mặt đất đang lao ra đón chiếc phi cơ.
- Giảm tốc độ bay xuống một trăm hai mươi… Hạ bánh xe xuống… Máy bay đang bay cao sáu trăm foot. Tốc độ đang bay một trăm… Máy bay đang bay ở độ cao bốn trăm foot.
Vẫn chưa thấy tín hiệu của cái sân khốn khiếp kia đâu! Cái màn sương mù bây giờ càng thêm dày đặc hơn.
Trán Metaxas đầm đ́a mồ hôi, anh ta th́ thào:
- Nó ở chỗ quái quỉ nào nhỉ?
Larry liếc nhanh nh́n sang bộ phận đo độ cao kim nhích dần tới ba trăm foot. Mặt đất đang chạy tới đón họ với tốc độ một trăm dặm một giờ. Độ cao chỉ c̣n một trăm năm mươi foot. Có ǵ không ổn rồi. Lẽ ra lúc này chàng phải nh́n thấy đèn pha của phi trường chứ. Chàng căng mắt ra nh́n về phía trước máy bay nhưng chỉ thấy màn sương mù nham hiểm giăng ngang tấm kính chắn gió như bịt lấy mắt chàng.
Larry nghe giọng nói của Metaxas lạc hẳn đi v́ căng thẳng:
- Chúng ta đă xuống c̣n sáu chục foot.
Vẫn chẳng thấy ǵ.
- Bốn chục foot.
Mặt đất đang chạy ngược lại đón họ trong đêm đen.
- C̣n hai mươi foot.
Đă xong đâu. Chỉ hai mươi giây nữa, họ sẽ vượt qua khỏi giới hạn an toàn và họ sẽ tan tành. Chàng phải có quyết định ngay lập tức.
- Tôi sẽ đưa nó lên cao - Larry nói. Tay chàng nắm chặt vào bánh lái và bắt đầu kéo giật lại, và đúng lúc đó một hàng mũi tên điện sáng lên trên mặt đặt phía trước mặt họ, rọi chiếu đường băng bên dưới. Mười giây sau họ đă chạm tới đất, và chạy trên đường băng tới ga đỗ Schipol.
Khi họ đă dừng hẳn, Larry tắt hết các động cơ bằng những đầu ngón tay đă tê đờ. Chàng ngồi lặng đi một lúc lâu. Cuối cùng chàng cố gượng đứng dậy, ngạc nhiên khi thấy hai đầu gối ḿnh run bắn. Chàng chú ư thấy một thứ mùi lạ trong không khí, chàng quay sang Metaxas thấy anh ta cười bẽn lẽn:
- Xin lỗi. Tôi đă "bĩnh" ra quần.
Larry cúi đầu nh́n anh ta, gật đầu:
- Cho cả hai xuất chúng ta.
Chàng quay lại, bước vào trong cabin. Con mụ chó cái vẫn ngồi, b́nh tĩnh lần giở tạp chí. Larry đứng lặng, chăm chú ngắm nh́n cô ta, cảm thấy buồn nản v́ phải bảo cô ta đi xuống, mà chàng vẫn chưa biết được lư do tại sao cô ta giở tṛ tai quái như vậy. Nhất định là Noelle Page cũng phải biết rằng mấy phút vừa qua cô ta kề với thần chết trong gang tấc, thế mà cô ta vẫn cứ ngồi trơ trơ với bộ dạng điềm tĩnh, tỉnh bơ bất cần đời.
Larry tuyên bố.
- Đến Amsterdam rồi.
Họ đi xe vào thành phố trong một không khí im lặng nặng nề, Noelle ngồi ở ghế sau của chiếc xe Mercesdes 300, c̣n Larry ngồi ở ghế trước cùng tài xế. Metaxas ở lại phi trường để trông coi việc bảo dưỡng máy bay. Sương mù vẫn dày đặc, họ chạy xe rất chậm cho đến khi tới quảng trường Lindenphotz th́ sương mù bắt đầu tan.
Họ đi qua Quảng trường thành phố, qua cầu Eider bắc qua sông Amstel và dừng lại trước khách sạn Amstel. Khi họ bước vào sảnh, Noelle bảo với Larry:
- Đúng mười giờ tối nay anh lên đánh thức tôi dậy.
Sau đó nàng quay ngoắt, đi thẳng về phía thang máy.
Người quản lư khách sạn cúi chào và nh́n theo bước chân của nàng. Một người trực tầng dẫn Larry vào một pḥng đơn nhỏ bé, thiếu tiện nghi ở tầng một phía sau khách sạn. Căn pḥng này nằm cạnh nhà bếp, bên kia bức tường Larry nghe rơ cả tiếng bát đĩa lách cách và mùi hành tỏi, thức ăn từ các chảo đang nấu nướng đưa sang thơm lừng.
Larry liếc nh́n căn pḥng bé tẹo quát rầm lên:
- Tao gí c… vào cái chỗ này.
- Xin lỗi ông - Người trực tầng rlói - Tiểu thư Page yêu cầu xếp cho ông một pḥng rẻ tiền nhất.
Larry nghĩ: "Cũng được. Ḿnh phải t́m cách quật cho con này một trận. Trên đời này đâu phải chỉ có một ḿnh Constantin Demiris cần đến phi công riêng. Ngày mai ḿnh sẽ bắt đầu kiểm tra lại các mối. Ḿnh đă từng gặp khối người bạn giàu sang của lăo ta. Phải có đến nửa tá người ao ước thuê được phi công như ḿnh - Sau đó chàng lại nghĩ - Nhưng nếu Demiris sa thải ḿnh th́ t́nh h́nh không ổn. Nếu như vậy th́ chẳng có ma nào dám vời đến ḿnh. Ḿnh vẫn phải bám vào đây thôi".
Buồng tắm ở cuối nhà, Larry giở đồ, lấy ra một chiếc áo choàng để mặc đi tắm. Chàng lại nghĩ:
- Mà việc ǵ phải tắm nhỉ, tắm v́ cô ả sao? Ḿnh cứ để cái mùi chua như lợn này đến chỗ cô ả có sao đâu!
Chàng đi ra quầy rượu của khách sạn và uống một chầu. Chàng đang uống đến ly Martini thứ ba th́ chợt ngước lên nh́n cái đồng hồ treo bên trên quầy bar. Lúc đó là 10 giờ 15. Đúng mười giờ, nàng đă dặn như vậy, Larry bỗng cảm thấy một nỗi kinh hăi bất ngờ. Chàng vội đặt mấy tờ giấy bạc lên quầy, rồi lao về phía thang máy.
Noelle ở một căn pḥng cỡ đế vương ở tầng năm. Chàng chạy dọc hành lang dài xuống phía cuối, vừa chạy vừa tự rủa ḿnh sao lại để cho cô ả "hành" ḿnh như vậy. Chàng gơ cửa pḥng trong lúc đó đầu óc chàng cố t́m ra một cái cớ ǵ cho việc chậm trễ này. Không thấy tiếng trả lời và khi chàng xoay tay nắm cửa, cửa không gài chốt. Chàng bước vào pḥng khách rộng răi, đồ đạc sang trọng đắt tiền.
Chàng đứng một lúc, phân vân, sau đó cất tiếng gọi:
- Tiểu thư Page.
Không thấy tiếng đáp. Mưu mô của nàng là như vậy đó.
- Anh Costa thân mến, em rất lấy làm tiếc, song em đă báo trước với anh rằng hắn là một gă không thể tin được. Em đă yêu cầu hắn phải đánh thức em lúc mười giờ, vậy mà hắn chúi xuống quầy bar rồi nốc rượu say tuư luư. Em phải bỏ hắn lại mà đi một ḿnh.
Larry nghe thấy có một tiếng động ở buồng tắm vọng ra, chàng tiến về phía đó. Cửa buồng tắm mở ngỏ. Chàng bước vào cũng đúng là lúc Noelle Page bước ra khỏi ṿi tắm. Trên người nàng không có một thứ đồ ǵ trừ một chiếc khăn Thổ Nhĩ Kỳ quấn quanh mái tóc.
Noelle quay lại thấy chàng đang đứng đó. Larry mấp máy miệng xin lỗi, cố tránh không cho nàng phải nổi đoá, song chàng không t́m được lời nào trong khi đó Noelle vẫn điềm nhiên bảo:
- Đưa cho tôi cái khăn mặt kia?
Cứ như chàng là một con đầy tớ. Hay một hoạn quan vậy Giá như nàng nổi đoá th́ Larry có thể khắc phục được, song sự thản nhiên đến ĺ lợm của nàng đă khuấy dậy bên trong chàng một cái ǵ đó bùng nổ. Chàng tiến lại phía nàng, ôm gh́ lấy nàng. Chàng biết rằng làm như vậy chàng sẽ vứt bỏ hết thảy những ǵ chàng mong ước chỉ nhằm để thoả măn một sự phục thù nhỏ nhen, rẻ tiền, song chàng không c̣n cách nào khác để tự dừng bản thân lại. Sự uất hận bên trong chàng đă tích luỹ qua nhiều tháng nay, do bị những hành động miệt thị của nàng, do những lời thoá mạ vô căn cứ, sự nhục nhă lâu nay cùng với việc liều mạng vừa rồi. Tất cả những cái đó bừng bừng trong con người chàng khi chàng tiến đến sát cái cơ thể trần truồng của nàng. Nếu Noelle thét lên một tiếng, Larry sẽ đánh nàng bất tỉnh. Song nhận thấy vẻ mặt man dại của chàng, nàng cứ để mặc cho chàng bế thốc nàng lên, đưa vào pḥng ngủ.
Ở một góc độ nào đó trong đầu óc chàng có tiếng gọi chàng hăy dừng lại, xin lỗi nàng đi, và nói rằng chàng say quá sau đó rút lui trước khi mọi chuyện quá muộn, chàng không thể tự cứu được ḿnh nữa; song chàng nhận thấy t́nh thế đă quá muộn rồi. Không thể rút lui được. Chàng giận dữ ném nàng lên giường rồi tiến lại phía nàng.
Chàng tập trung vào cái cơ thể của nàng, và cũng không muốn nghĩ đến h́nh phạt sẽ phải hứng chịu cho cái hành động chàng đang làm lúc này.


Chương 17

NOELLE VÀ CATHERINE
Athens 1946


Thật khó cắt nghĩa được tại sao thời gian lại trở thành kẻ thù của Catherine. Thoạt đầu nàng không ư thức được điều đó và khi kiểm điểm lại nàng cũng không thể nói chính xác vào lúc nào thời gian bắt đầu chống lại nàng.
Nàng cũng không biết từ lúc nào t́nh yêu Larry đối với nàng bắt đầu phai nhạt, lư do v́ sao và như thế nào, song chỉ biết rằng đến một ngày nào đó nó sẽ biến mất ở đâu đó phía cuối hành lang dài dằng dặc của thời gian và tất cả chỉ c̣n lại một tiếng vang lạnh lẽo mơ hồ. Nàng ngồi một ḿnh trong pḥng hết ngày này qua ngày khác cố nghĩ xem chuyện ǵ đă xảy ra, đă có ǵ không ổn. Catherine không thể nghĩ được một điều ǵ cụ thể, cũng không thể xác định ra một khoảnh khắc nào đó có tính chất quyết định để có thể nói được rằng: "Đấy, từ lúc đấy trở đi Larry không c̣n yêu ḿnh nữa". Có lẽ nó bắt đầu từ dịp Larry trở về sau chuyến đi châu Phi ba tuần mà chàng đă đưa Constantin Demiris sang bên đó đi săn. Catherine nhớ Larry nhiều hơn bất cứ dịp nào trước đó, nàng nghĩ: Chàng lúc nào cũng đi vắng. Cứ như đang ở vào thời chiến, chỉ có điều lần này không có kẻ thù mà thôi.
Song nàng đă lầm. Có một kẻ thù đấy.
- Anh báo cho em một tin vui - Larry bảo - Anh đă được tăng lương. Bảy trăm một tháng. Em thấy thế nào?
- Tuyệt quá - Nàng đáp - Như vậy chúng ta sẽ càng sớm được trở về nước - Nàng bỗng thấy nét mặt chàng nghiêm hẳn - Sao vậy, anh.
- Đây là nhà rồi - Larry đáp cộc lốc.
Nàng ngó nh́n chàng, phân vân khó hiểu, rồi nàng đồng ư, một cách yếu ớt.
- Phải, nhưng chỉ lúc này thôi, em muốn nói anh không muốn ở lại đây măi măi.
- Em chưa bao giờ thoải mái như bây giờ? - Larry vặn lại - Em được sống như ở một nơi nghỉ hè phải không?
- Nhưng không giống như sống ở nước Mỹ.
- Quẳng mẹ cái nước Mỹ đi. - Larry nói - Tôi đă liều thân v́ nó bốn năm trời, rồi được hưởng cái ǵ nào? Một vốc mề đay đáng ba xu kẽm. Hết chiến tranh, đến một việc nhỏ người ta cũng không cho tôi…
- Không đúng thế - Nàng phản đối - Anh đă…
- Tôi… làm sao?
Catherine không muốn gây ra một cuộc tranh căi đặc biệt vào tối đầu tiên chàng trở về, nàng nói:
- Không có ǵ đâu cưng. Anh mệt đấy mà. Thôi ta đi ngủ sớm đi.
- Khỏi cần - Chàng đi ra chỗ quầy để rượu, rót lấy một ly cho ḿnh - Tối nay ở câu lạc bộ Đêm Achentina có khai diễn một vở mới. Anh có bảo với Paul Metaxas là chúng ta sẽ đến dự cùng với anh ấy và mấy người bạn nữa.
Catherine nh́n chàng:
- Larry - Nàng cố giữ giọng b́nh thản - Larry, gần một tháng nay chúng ta chẳng gặp nhau. Chúng ḿnh không có dịp nào… ngồi lại tâm sự.
- Làm thế nào được, công việc đ̣i hỏi anh phải đi vắng luôn - Chàng đáp - Thế em tưởng anh thích xa em sao?
Nàng lắc đầu:
- Em không biết. Em sẽ phải xin lỗi các ông ấy…
Chàng giơ tay ra ôm nàng, toe toét cười, nụ cười ngây ngô trẻ con:
- Mặc thằng Metaxas với cái lũ kia. Tối nay ta ở nhà, chỉ có hai ta thôi. Ô kê?
Catherine quan sát kỹ nét mặt chàng và nhận thấy là nàng đă đ̣i hỏi vô lư. Tất nhiên nếu như công việc buộc chàng phải xa nàng luôn th́ chàng phải chịu chứ sao. Và khi chàng trở về, một điều đương nhiên là chàng muốn gặp mặt những người bạn.
Nàng quyết định:
- Nếu anh thích th́ chúng ta cùng đi.
- Ừ hữ - Chàng gh́ chặt lấy nàng - Chỉ có đôi ta thôi.
Suốt ngày nghỉ cuối tuần đó họ không rời nhà.
Catherine nấu nướng, họ ân ái với nhau rồi ngồi trước ḷ sưởi, nói chuyện, chơi đùa và đọc sách, nghĩa là bất kỳ việc ǵ theo yêu cầu của Catherine.
Tối chủ nhật, sau một bữa ăn thịnh soạn do Catherine nấu nướng, họ đi ngủ sớm. Nàng nằm trên giường, nh́n theo Larry khi chàng trần truồng đi vào buồng tắm: Nàng tự nhủ: chàng thật là một người khỏi đẹp, ḿnh thật diễm phúc có được một người như chàng. Nụ cười c̣n vương trên môi nàng th́ Larry từ cửa buồng tắm quay lại nói với nàng một cách vô t́nh:
- Tuần sau, em hăy sắp đặt nhiều cuộc họp mặt để chúng ta khỏi phải xoắn xuưt với nhau như thế này mà chẳng biết làm ǵ.
Rồi chàng đi thẳng vào buồng tắm để kệ Catherine với nụ cười chưa kịp tắt trên môi.
Hay có thể rắc rối là bắt đầu từ Helena, cô chiêu đăi viên xinh đẹp người Hy Lạp? Một buổi chiều mùa hè oi bức, Catherine đi ra phố mua hàng, Larry đi vắng xa thành phố. Nàng hy vọng hôm sau chàng sẽ trở về, v́ thế muốn nấu một số món chàng thích ăn để cho chàng phải ngạc nhiên. Lúc Catherine đang rời khỏi chợ, với một ôm, một mớ rau quả trên tay th́ có một chiếc xe taxi chạy ngang qua. Ngồi ở ghế sau xe là Larry, tay quàng ngang lưng một cô gái mặc bộ quần áo chiêu đăi viên. Catherine nh́n thoáng thấy họ đang vui cười với nhau, sau đó chiếc xe taxi quẹo ở góc phố rồi mất hút.
Catherine đứng đờ đẫn ra đó, đến lúc đó, mấy chú bé chạy lại gần, nàng mới nhận ra rằng hai chiếc túi đựng thực phẩm đă tuột khỏi những ngón tay tê dại của nàng.
Chúng giúp nàng lượm các thứ lên. Nàng thất thểu bước về nhà, đầu óc trơ ra không nghĩ được ǵ. Nàng cố tự nhủ thầm rằng con người mà h́nh ảnh thấy trong chiếc taxi không phải là Larry, mà chẳng qua là một ai đó giống chàng. Song ác thay trên đời này khó có ai giống chàng. Chàng là một người độc đáo, một tạo vật vô giá, một báu vật của thượng đế. Và chàng là kho báu của nàng. Mà đâu phải của riêng nàng, c̣n là của cô gái da nâu ngồi trong taxi và biết bao cô gái khác nữa? Suốt buổi tối hôm đó Catherine thức chờ Larry và khi chàng không về nhà, nàng cảm thấy chàng sẽ không thể đưa ra một lư do bào chữa khả dĩ duy tŕ được quan hệ vợ chồng giữa hai người.
Chàng là một kẻ lừa lọc, dối trá và nàng sẽ không thể là vợ chàng được nữa.
Măi đến tận chiều tối hôm sau Larry mới về nhà.
- Chào em - Chàng vui vẻ nói khi bước vào pḥng, đặt chiếc túi bay xuống và ngó nh́n vào mặt nàng.
- Sao thế, em?
- Anh về đến thành phố từ bao giờ - Catherine nghiêm nghị hỏi.
Larry nh́n nàng, lúng túng:
- Mới cách đây khoảng một giờ. Sao vậy?
- Hôm qua em nh́n thấy anh ngồi trong taxi với một cô gái.
Catherine nghĩ: Đơn giản có vậy thôi. Đấy là những lời cuối cùng chấm hết cuộc hôn nhân của ḿnh. Chàng sắp chối và ḿnh sẽ bỏ chàng mà đi, không bao giờ gặp lại nữa.
Larry đứng ngây ra, trân trân nh́n nàng.
- Anh cứ nói tiếp đi - Nàng bảo - Anh hăy nói là không phải anh đi.
Larry nh́n thẳng vào nàng, gật đầu:
- Chính anh đấy.
Catherine bỗng thấy thót đau ở bụng, nàng muốn chàng chối việc đó th́ hơn. Lạy Chúa, thế em nghĩ những ǵ về chuyện đó?
Nàng định nói, song giọng nàng run lên v́ giận.
- E… em…
Larry giơ một bàn tay ra:
- Em chớ có nói điều ǵ để sẽ phải ân hận đấy nghe?
Catherine nh́n chàng, khó hiểu:
- Em sẽ phải ân hận v́ chuyện ǵ.
- Hôm qua anh đă bay về Athens mười lăm phút để đón cô gái tên là Helena Merelis, rồi đưa nàng tới đảo Crete cho Demiris. Helena làm chiêu đăi viên cho ông ta.
Nhưng…
Có thể đúng là Larry vừa nói ra sự thật, song chàng là một người nhiều mưu kế. Catherine hỏi.
- Thế sao anh không gọi điện thoại cho em?
- Có đấy! Larry nói gọn lỏn- Nhưng không thấy trả lời. Em đi vắng phải không?
Catherine nuốt nước bọt:
- Em… em đi chợ mua thức ăn chuẩn bị bữa cho anh.
- Anh không thấy đói - Larry đáp lại - Cứ căi nhau là anh ăn mất ngon.
Chàng quay đi bỏ ra khỏi cửa, bỏ mặc Catherine trơ ra đó, bàn tay phải của nàng vẫn c̣n giơ ra như muốn vời níu chàng quay lại.
Sau đó không lâu Catherine bắt đầu uống rượu. Lúc đầu chỉ là một chút đỉnh, vô hại. Nàng thường ngóng đợi Larry trở về nhà ăn tối lúc bảy giờ, song đến chín giờ không thấy chàng gọi về. Catherine thường uống một ly Brandy để giết thời gian. Đến mười giờ tối, nàng đă uống mấy ly Brandy liền, và nếu chàng có về, tới lúc đó bữa ăn cũng đă nguội lạnh và nàng đă hơi la đà rồi. Trạng thái đó giúp cho nàng đối mặt dễ dàng hơn với những sự kiện xảy ra trong cuộc đời nàng.
Catherine không c̣n muốn tự dối ḿnh trước sự thật là Larry đang phản bội nàng và có lẽ chàng đă phản bội nàng từ lâu, ngay từ khi họ mới thành hôn. Một hôm, khi lần giở chiếc quần đồng phục của chàng trước khi đưa cho thợ giặt, nàng thấy có một chiếc khăn mùi xoa đăng ten. Trên chiếc quần cộc của chàng có vết son môi.
Nàng h́nh dung ra Larry trong đôi cánh tay của một người đàn bà khác.
Và nàng muốn giết chết chàng.


Chương 18

NOELLE VÀ CATHERINE
Athens 1946


Nếu thời gian trở thành kẻ thù của Catherine, th́ nó lại trở thành người bạn của Larry. Cái đêm ở Amsterdam không khác ǵ một sự huyền hoặc. Larry đă đùa giỡn với tử thần và thật khó tin được rằng nhờ làm như vậy mà chàng đă t́m được cách khai thông toàn bộ những khúc mắc của chàng. Đúng là sự may mắn kiểu Douglas chàng suy nghĩ và thấy măn nguyện.
Song chàng nhận thấy đây không đơn thuần là sự may mắn. Chính cái bản năng tối tăm, ương ngạnh trong con người chàng đă đ̣i hỏi cần phải chấp nhận sự thách đố của số phận, phải cọ xát với những thông số của cái chết và sự hủy diệt. Đó chính là một sự thử thách, một sự đối chọi lại với số phận trong cuộc vật lộn sống mái.
Larry nhớ lại một buổi sáng trên quần đảo Truk khi một phi đội máy bay Zico từ trong một đám mây bay ra. Chàng bay ở đỉnh nhọn, máy bay địch tập trung tấn công chàng. Ba chiếc Zero nhử chàng ra khỏi đội h́nh và khai hoả vào chàng. Với một bản lĩnh hết sức tỉnh táo khi ở vào những phút giây hiểm nghèo, Larry biết rằng ở phía dưới có ḥn đảo, hàng chục chiếc tầu chiến đang nhấp nhô trên sóng cồn, hàng đàn máy bay gầm rú lao vào nhau trên bầu trời xanh ngắt. Đó là một trong những giây phút hạnh phúc nhất đời Larry được hoàn thiện sự sống và chọc tức Tử thần.
Chàng đă cho máy bay xoay tṛn rồi bám đuôi một chiếc Zero. Chàng đă theo dơi nó nổ tung khi chàng xả những viên đạn từ khẩu súng máy vào nó. Hai chiếc máy bay khác đang kèm sát hai bên máy bay chàng, Larry theo dơi chúng lao theo chàng, và tới giây phút cuối cùng chàng đă thả chung quanh máy bay ở thế rơi tự do và hai chiếc phi cơ của Nhật đâm sầm vào nhau trên không - Đó là hồi ức mà chàng thường ôn lại trong trí nhớ.
Không rơ v́ sao hồi ức của đêm ở Amsterdam đó cũng trở lại với chàng. Chàng đă làm t́nh với Noelle một cách dữ dội, man dại, sau đó nàng nằm yên trong cánh tay chàng, họ nhắc lại chuyện hai người đă chung sống với nhau hồi ở Paris trước khi chiến tranh nổ ra. Bỗng nhiên trong kư ức lờ mờ của chàng hiện ra h́nh ảnh một cô gái trẻ nhiệt t́nh, song lạy Chúa, từ đó về sau chàng đă gặp đến hàng trăm cô gái trẻ và nhiệt t́nh khác cho nên Noelle chẳng qua cũng chỉ là một h́nh ảnh chập chờn ẩn hiện trong kư ức của chàng mà thôi.
Larry nghĩ thầm: thật may mắn hai người t́nh cờ lại gặp nhau sau ngần ấy năm trời.
Noelle nói:
- Anh là của em. Bây giờ anh thuộc về em. - Giọng nói của nàng có vẻ ǵ đó khiến chàng lo ngại.
Chàng tự hỏi: Nếu vậy ḿnh sẽ phải mất những ǵ?
Chừng nào Noelle c̣n dưới sự khống chế của chàng, chàng sẽ c̣n ở lại với Demiris vĩnh viễn nếu như chàng muốn vậy.
Nàng quan sát chàng, có vẻ như đọc được ư nghĩ của chàng. Đôi mắt nàng có một biểu hiện kỳ lạ khiến Larry không hiểu nổi.
Đúng là như vậy đó.
Trong chuyến bay từ Maroc trở về, Larry đă đưa Helena đi ăn tối và ở lại đêm hôm đó tại căn pḥng của cô ta.
Sáng hôm sau chàng đi ra phi trường để khai báo chiếc máy bay của ḿnh. Chàng ăn trưa với Paul Metaxas.
- Coi bộ ông phè phỡn ghê - Metaxas nói - Nhường cho ḿnh một miếng chứ?
- Này ông trẻ - Larry nhăn nhở cười. Cậu không điều khiển nổi họ đâu. Cần phải có một bậc thầy lăo luyện.
Họ ăn một bữa trưa thú vị, sau đó Larry trở lại thành phố để đón Helena, cô ta sẽ cùng đi trong chuyến bay của chàng.
Chàng gơ cửa pḥng cô. Một lúc lâu sau mới thấy Helena từ từ mở cửa. Nàng đang trần truồng. Larry nh́n măi, không thể nhận ra được nàng. Mặt mũi thân thể nàng đầy những vết tím bầm, sưng tấy. Hai mắt nàng rách toác.
Nàng đă bị một tay đao búa chuyên nghiệp tẩm quất.
- Lạy Chúa - Larry kêu lên - Sao thế này?
Helena há miệng, Larry nhận thấy ba chiếc răng của hàm trên đă bị găy. Cô lắp bắp:
- Có có ba người… Anh… anh vừa đi khỏi th́ chúng tới1
- Thế sao em không gọi cảnh sát? - Larry kinh hăi hỏi.
- Ch… chúng doạ nếu em kể lại cho ai… ai biết th́ chúng th́ chúng sẽ giết… giết em ngay. Chúng nói là làm đấy La… Larry ạ. - Cô đứng bàng hoàng, ngả người dựa vào cánh cửa.
- Chúng có trấn lột ǵ của em không?
- Kh... ông. Chúng phá… phá cửa vào, hiếp em, rồi chúng đánh em nhừ tử.
- Mặc quần áo vào - Chàng ra lệnh - Anh đưa em tới bệnh viện.
- Mặt… mặt mũi thế này em không thể ra ngoài được. - Nàng nói.
Mà nàng nói cũng phải. Larry gọi điện thoại cho một bác sĩ là bạn của chàng.
Larry bảo Helena:
- Đáng tiếc là anh không ở lại với em được. Nửa giờ nữa anh phải bay với Demiris. Khi nào trở về, anh sẽ lại thăm em ngay.
Song chàng chẳng bao giờ c̣n gặp lại cô ta nữa. Hai ngày sau Larry trở về, căn pḥng đă trống trơn, bà chủ nhà cho biết cô gái đă chuyển đi rồi, không để lại địa chỉ ǵ. Cho đến lúc đó Larry vẫn chưa nghi ngờ ǵ về thực chất sự việc. Măi vài tối sau, khi chàng đang ân ái với Noelle chàng lờ mờ nhận ra chuyện ǵ đă xảy ra.
- Em là một cô gái kỳ lạ - Chàng nói - Anh chưa từng thấy một ai như em.
- Em có trao cho anh mọi thứ anh cần không? - Nàng hỏi.
- Có - Chàng rên rỉ - Có, lạy Chúa, có chứ.
Noelle dừng một lát, sau đó nói se sẽ:
- Vậy đừng có ngủ với người con gái nào khác nhé. Lần sau em sẽ giết chết nó đấy.
Larry nhớ lại lời nàng nói: "Anh thuộc về em!" Bỗng nhiên những lời nói đó mang một ư nghĩa mới, gớm ghiếc.
Lần đầu tiên chàng có một linh cảm rằng cuộc t́nh này không phải như một chuyến bay đêm chàng có thể rút dù lúc nào th́ rút. Chàng cảm thấy cái sâu thẳm lạnh lẽo, đáng sợ mà không có thể chạm tới Noelle Page, chàng thấy ớn lạnh và hơi khiếp sợ. Trong đêm đó có mấy lần chàng nhớ đến chuyện của Helena nhưng cứ mỗi lần như vậy, chàng lại dừng lại bởi chàng sợ không dám biết, sợ không dám nói ra lời. Chỉ mong sao không phải là Noelle làm việc đó.
Trong bữa ăn điểm tâm sáng hôm sau, Larry ngồi quan sát Noelle mà nàng không biết. Chàng muốn t́m những dấu hiệu chứng tỏ sự tàn ác, bạo dâm trên con người đó, song chàng chỉ thấy một người đàn bà tuyệt đẹp, thật đáng yêu, nhí nhảnh kể cho chàng những giai thoại lư thú, đón ư và đáp ứng mọi điều chàng muốn. Chàng nghĩ: Ḿnh đă lầm khi nhận định về nàng. Song sau đó chàng rất thận trọng không hẹn ḥ với các cô gái khác, và chỉ sau vài tuần ngắn ngủi chàng hầu như không c̣n ham muốn chạy theo các cô gái khác bởi v́ Noelle đă hoàn toàn xâm chiếm chàng.
Ngay từ đầu Noelle đă nhắc cho Larry biết điều quan trọng nhất là giữ kín câu chuyện của họ không được để cho Constantin Demiris biết.
- Tuyệt đối không được để một tiếng x́ xào về đôi ta - Noelle dặn chàng như vậy.
- Anh thuê một căn pḥng nhé? - Larry đề nghị - Ở đó chúng ta…
Noelle lắc đầu:
- Không thể ở Athens được. Có người sẽ nhận ra em. Để cho em nghĩ kỹ về chuyện này đă.
Hai ngày sau Demiris cho gọi Larry đến. Thoạt đầu Larry băn khoăn không hiểu có phải là nhà đại tư bản Hy Lạp này đă biết chuyện về Noelle và chàng không, nhưng Demiris lại tươi cười chào hỏi chàng và hỏi ư kiến chàng về việc ông định mua một chiếc máy bay mới.
- Đó là một chiếc phi cơ ném bom cũ Mitchill đă được chuyển sang dân dụng - Demiris kể với chàng - Tôi muốn ông ngó qua chiếc phi cơ này.
Nét mặt Larry rạng ngời, chàng bảo:
- Đó là loại máy bay khổng lồ, xét về trọng lượng cũng như kích thước. Rồi ông sẽ thấy loại máy bay này là đáng tiền.
- Nó chở được bao nhiêu hành khách.
Larry suy nghĩ một lát:
- Chín người trong t́nh trạng đủ tiện nghi sang trọng, cộng với một phi công một hoa tiêu và một kỹ sư. Nó có tốc độ bốn trăm tám mươi dặm một giờ.
- Hay đấy. Ông hăy đi kiểm tra lại giúp tôi về báo lại cho tôi rơ.
- Tôi sẽ làm ngay - Larry tươi tỉnh.
Demiris đứng dậy.
- À c̣n một việc nữa, anh Douglas ạ. Tiểu thư Page định đi Berlin sáng nay. Tôi muốn anh đưa nàng sang đó.
- Thưa ông, vâng - Larry đáp, sau đó làm ra bộ thực thà - Tiểu thư Page có nói với ông rằng quan hệ giữa chúng tôi cải thiện hơn trước không ạ?
Demiris nh́n chàng, nói lúng túng:
- Không. Thực ra sáng nay nàng c̣n phàn nàn với tôi về thái độ xấc xược của anh.
Larry nh́n ông, ngạc nhiên, sau đó chàng bỗng nhận ra thái độ của ḿnh và nhanh chóng t́m cách đánh trống lảng. Chàng nói chân thành:
- Tôi sẽ cố gắng, thưa ông Demiris. Tôi sẽ hết sức cố gắng.
Demiris gật đầu:
- Cố gắng lên. Anh sẽ là phi công giỏi nhất của tôi từ trước đến nay, Douglas ạ. Thật đáng xấu hổ nếu… - Ông bỏ lửng câu nói, nhưng ư nghĩa đă quá rơ.
Trên đường trở về nhà Larry tự trách ḿnh là thằng ngốc. Chàng cần phải nhớ rằng chàng đang chơi những ván bài lớn. Noelle rất thông minh khi nàng nhận thức rằng bất kỳ một sự thay đổi đột ngột nào trong thái độ của nàng với Larry đều sẽ gây cho Demiris một nỗi hoài nghi.
Quan hệ cũ giữa hai người là tấm b́nh phong tuyệt diệu để che đậy những việc họ đang làm. Demiris đang cố t́m cách làm lành cho hai người.
Trên chuyến bay sang Berlin, Larry trao tay lái cho Paul Metaxas và bảo rằng chàng có chuyện phải nói với cho Noelle Page.
- Anh không sợ bị gẫy cổ sao? - Metaxas hỏi.
Larry ngập ngừng, định khoe chiến tích của ḿnh. Song chàng vội kiềm chế cơn bốc đồng, nhún vai bảo:
- Cô ả thật chẳng khác ǵ một con chó cái, song nếu tôi không t́m cách làm cho cô ả thuần, th́ tôi phải t́m cách tháo lui cho sớm.
- Chúc may mắn? Metaxas điềm tĩnh bảo.
- Cảm ơn.
Larry cẩn thận khép chặt cửa buồng lái và đi về phía khoang khách, nơi Noelle đang ngồi. Hai cô chiêu đăi viên đang ở phía sau máy bay. Larry ngồi xuống chỗ đối điện với Noelle. Nàng se sẽ dặn ḍ:
- Hăy cẩn thận.
Larry liếc về chỗ các cô chiêu đăi viên, rồi nghĩ đến Helena.
- Em đă t́m được một chỗ cho hai ta - Noelle bảo.
Giọng nàng tỏ ra xúc động, măn ư.
- Một căn nhà?
- Không, một ngôi nhà. Anh có biết Rafina ở đâu không?
Larry lắc đầu:
- Không.
- Đó là cái làng nhỏ bên bờ biển, cách Athens một trăm kilômét về phía bắc. Chúng ta có một cái villa ẩn dật ở đó.
Chàng gật đầu:
- Thế em thuê nó theo tên ai?
- Em mua đứt - Noelle bảo - Song đứng tên của một người khác.
Larry tưởng tượng đến cảnh có đủ khả năng tài chính mua một biệt thự riêng để thỉnh thoảng lại về đấy hú hí với một em út nào đó.
- Hay lắm. Anh mong sớm được tới đó xem nó.
Nàng chăm chú nh́n chàng hồi lâu:
- Anh xa Catherine ít lâu liệu có rầy rà ǵ không?
Larry ngạc nhiên nh́n Noelle. Lần đầu tiên nàng nhắc đến người vợ của Larry. Chàng chẳng cần phải giữ bí mật về cuộc hôn nhân của chàng, song chàng vẫn có một cảm giác là lạ khi nghe thấy Noelle gọi tên của Catherine ra. Rơ ràng là nàng đă có đường dây kiểm tra lại và nàng biết rơ cô ấy ngay từ đầu, và có lẽ c̣n biết tường tận nữa là đằng khác. Nàng đang chờ đợi câu đáp của chàng.
- Không sao cả - Larry đáp - Anh muốn đi về thế nào là tùy anh.
Noelle gật đầu, thoả măn.
- Hay lắm. Sắp tới Constantin sẽ làm một chuyến công du sang Dubrovnik bằng tàu thủy. Em đă bảo với ông ta rằng em không thể đi được. Chúng ta sẽ có mười ngày thú vị bên nhau. Anh nên đi ra đi.
Larry quay trở về buồng lái.
- T́nh h́nh thế nào? - Metaxas - Bớt căng với nàng rồi chứ?
- Cũng không nhiều lắm - Larry trả lời thận trọng - Sẽ c̣n phải mất nhiều thời gian.
Larry có một chiếc ô tô riêng, loại xe Citroen mui trần, song theo yêu cầu của Noelle, chàng đă đến một hăng nhỏ cho thuê xe hơi ở Athens để thuê một chiếc xe. Noelle lái xe đến Rafina một ḿnh, Larry sẽ đón nàng ở đó. Con đường uốn khúc ngoằn ngoèo như dải ruy băng nhô cao trên mặt biển. Ra khỏi Athens độ hai giờ rưỡi Larry tới một làng nhỏ, thú vị, nằm nép dọc bờ biển. Noelle đă chỉ dẫn cho chàng tỉ mỉ để chàng khỏi phải dừng lại hỏi đường ở ngôi làng đó. Khi chàng tới ŕa làng, chàng rẽ trái rồi đi vào một con đường đất nhỏ dẫn ra tới biển. Ở đó có vài ba biệt thự, một toà nhà nằm tách riêng ở một góc sau những bức tường đá cao bao kín xung quanh. Cuối con đường xây dựng trên một nền đá chờm lên doi đất vươn ra biển là một biệt thự lớn, sang trọng luôn luôn có sóng nước vỗ vào.
Larry lái xe tới cổng và nhấn chuông. Một lát sau cánh cửa điện tự động mở ra. Chàng lái xe vào bên trong, cổng khép lại phía sau chàng. Chàng đứng trong một khu sân rộng răi, ở giữa có một giếng phun nước.
Hai bên sân có rất nhiều cây hoa. Ngôi nhà có dáng dấp của biệt thự điển h́nh ở Địa Trung Hải, vững vàng như một pháo đài. Cửa trước mở ra, Noelle xuất hiện trong chiếc váy dài bằng vải bông trắng toát. Họ đứng ngắm nh́n nhau và mỉm cười, rồi sau đó nàng lăn vào trong ṿng tay của chàng.
Phía bên trong ngôi nhà rộng bát ngát như một cái động với nhiều pḥng lớn, trần nhà cao mái ṿm. Dưới nhà là một pḥng sinh hoạt rộng răi, một thư viện, một pḥng ăn chính, một nhà bếp kiểu cổ ở giữa có một bếp ḷ kiểu ṿng tṛn. Các pḥng ngủ ở tầng trên.
- Thế c̣n đầy tớ đâu? - Larry hỏi.
- Anh đang gặp đấy thôi.
Larry nh́n chàng, ngạc nhiên:
- Em sẽ nấu nướng giặt giũ cả sao?
Nàng gật đầu.
Sau khi chúng ta rời khỏi đây sẽ có hai người đến làm vệ sinh, cọ rửa, song họ sẽ không bao giờ gặp chúng ta. Em sẽ thu xếp việc này qua một hăng bao thầu.
Larry cười nhạt.
Giọng Noelle vang lên đầy vẻ hâm dọa:
- Chớ có mắc sai lầm đánh giá thấp Constantin Demiris. Nếu lăo phát hiện ra chúng ta, lăo sẽ giết cả hai.
Larry mỉm cười, bảo:
- Em lại hơi phóng đại rồi. Lăo già ấy có thể không thích, song…
Đôi mắt xanh biếc của nàng nh́n thẳng vào chàng:
- Lăo sẽ giết cả đôi ta.
Giọng nói của nàng đă truyền cảm sang chàng.
- Em nói nghiêm trang đấy chứ?
- Lần này em nói hết sức nghiêm trang. Lăo tàn bạo vô cùng.
Larry cự lại:
- Nhưng khi em nói lăo sẽ giết chúng ta, lăo sẽ không…
Noelle đáp thẳng thừng:
- Lăo sẽ không dùng đến súng đạn. Lăo sẽ t́m ra một cách phức tạp, tinh vi để thực hiện việc đó, vào lăo sẽ không bao giờ bị trừng phạt về việc đó - Rồi nàng đổi giọng trong sáng hơn - Song lăo sẽ không biết được đâu, cưng ơi. Lên đây, em chỉ cho anh xem cái pḥng ngủ - Noelle dắt tay chàng, họ đi lên cầu thang uốn khúc - Chúng ta có bốn pḥng ngủ dành cho khách - nàng vừa mỉm cười, vừa nói thêm - Chúng ta sẽ có thể thử tất cả bốn pḥng.
Nàng đưa chàng vào pḥng ngủ của chủ nhân, đó là một pḥng kép rộng ở góc nhà, trông ra biển. Từ trên cửa sổ Larry có thể trông thấy cái thềm nhà lớn và một lối đi ngắn dẫn tới mép biển. Ở đó có một bến đ̣, với một chiếc thuyền buồm lớn và một xuồng gắn máy neo buộc ở đó.
- Hai chiếc thuyền này của ai vậy?
- Của anh đấy - Nàng đáp - Đó là món quà tặng anh nhân dịp anh về tới nhà.
Chàng quay lại, nàng đă tuột chiếc áo vải bông từ lúc nào. Bây giờ nàng hoàn toàn trần truồng. Suốt cả buổi chiều hôm đó họ ở trên giường.
Mười ngày trôi qua, Noelle biến đổi mau lẹ như một giọt thủy ngân, lúc nàng như một thủy thần, lúc lại như thiên nga, lúc lại là cô hầu gái sẵn sàng đáp ứng mọi sở nguyện của chàng, thậm chí trước cả lúc chàng xác định chính xác đó là cái ǵ. Thư viện trong ngôi biệt thự lưu giữ đủ các loại sách và đĩa hát chàng thích. Noelle nấu tất cả các món chàng thích với mức tuyệt hảo, rồi lại đi thuyền cùng chàng, bơi cùng chàng trên biển xanh rờn ấm áp, làm t́nh với chàng và xoa bóp cho chàng ban đêm cho đến khi chàng ngủ thiếp đi. Nói theo một nghĩa nào đấy th́ họ là những tù nhân ở đây cùng với nhau, bởi v́ họ sợ có người khác bắt gặp. Hàng ngày Larry lại t́m thấy những nét mới ở Noelle. Nàng kể cho chàng rất nhiều những giai thoại lư thú về các nhân vật nổi tiếng mà nàng quen biết.
Nàng cố tranh luận với chàng về chính trị và kinh doanh cho đến khi nàng nhận ra rằng chàng rất hờ hững với cả hai lĩnh vực này.
Họ chơi bài poke và Ginrummy. Larry thường nổi cáu v́ chàng chẳng bao giờ thắng. Noelle dạy chàng chơi cờ vua và Backgammon, song về cả hai món này chàng cũng không bao giờ đánh bại được nàng. Vào ngày chủ nhật đầu tiên tới biệt thự, nàng chuẩn bị một bữa trưa picnic rất ngon miệng. Họ ngồi trên băi biển dưới ánh nắng và thưởng thức bữa ăn đó. Trong lúc họ đang ăn, Noelle trông thấy có hai người ở phía xa xa. Hai người này đang đi dọc băi biển, tiến về phía họ.
- Ta vào nhà đi - Noelle bảo.
Larry ngẩng lên và cũng thấy hai người đàn ông kia.
- Lạy Chúa, đừng có hăi hùng như vậy. Họ chỉ là những dân làng này đi dạo thôi mà.
- Không, vào đi - nàng ra lệnh.
- Thôi được - Chàng sẵng giọng đáp, đồng thời thấy bực tức trước lối hách dịch của nàng.
- Giúp em thu dọn đồ vào đi.
- Thế cứ quẳng chúng lại, có được không? - Chàng hỏi.
- Làm như vậy người ta sẽ nghi ngờ.
Họ nhanh chóng xếp các thứ vào chiếc giỏ rồi đi về phía ngôi nhà. Cả chiều hôm đó Larry im lặng. Chàng ngồi trong thư viện, tập trung mọi suy nghĩ, trong lúc Noelle làm việc trong nhà bếp.
Đến cuối chiều nàng bước vào thư viện và ngồi xuống đưới chân chàng. Như t́nh cờ đoán được ư nghĩ của chàng Noelle bảo:
- Thôi anh đừng nghĩ đến những người đó nữa. Họ chỉ là hai người dân làng vớ vẩn.
Larry quật lại:
- Anh chán cái cảnh sống chui lủi như tội phạm lắm rồi - Chàng nh́n nàng, đoạn thay đổi giọng - Anh không muốn phải trốn tránh ai cả. Anh yêu em.
Lần này th́ Noelle biết đó là sự thật. Nàng nhớ lại những năm tháng trước đây nàng đă lập kế hoạch để giết hại Larry và nhớ đến sự khoái lạp điên cuồng mà nàng tưởng tượng ra khi tiêu diệt chàng. Nhưng đến khi gặp Larry, ngay lập tức nàng nhận thấy có một t́nh cảm sâu sắc hơn ḷng căm thù đang trỗi dậy ở nàng. Khi nàng đẩy chàng đến bên bờ vực thẳm của cái chết, bắt chàng phải đứng trước thử thách phải cứu cả hai sinh mạng của họ trong chuyến bay khủng khiếp tới Amsterdam, h́nh như nàng đă đặt t́nh yêu của chàng trước sự thử thách khốc liệt của số phận. Nàng như có mặt cùng chàng trong căn buồng lái đó, cùng điều khiển chiếc phi cơ với chàng, cùng chịu đau khổ với chàng, và nàng hiểu rằng nếu chàng chết th́ cả hai người sẽ chết cùng nhau, thế nhưng chàng đă cứu cả hai. Và khi chàng bước vào pḥng của nàng ở Amsterdam, yêu nàng, th́ ḷng căm thù và sự yêu thương của nàng đă hoà quyện lại trong hai cơ thể của họ, và thời gian dường như căng ra rồi co lại, họ lại trở về với căn pḥng nhỏ bé của họ hồi nào ở Paris khi Larry bảo nàng: "Chúng ta cưới nhau đi thôi. Chúng ḿnh hăy t́m một ông đốc lư người nhỏ nhắn ở một vùng quê nào đó".
Rồi hiện tại và quá khứ bùng nổ chói hoà quyện lại làm một. Noelle cảm thấy không c̣n phân biệt thời gian, mà trước đây cũng như vậy, rằng thực ra không hề có ǵ thay đổi nàng càng căm thù Larry bao nhiêu th́ cũng từc là nàng đă hoàn toàn dâng hiến cho chàng và không có ǵ thay đổi được chuyện đó.
Noelle cảm thấy rằng tất cả những ǵ nàng đă đạt được trong đời nàng đều xuất phát từ ḷng căm th́. Sự phản bội của ông bố nàng đă rèn đúc nàng, tôi luyện nàng, làm cho nàng nung nấu sự khao khát phục thù và nàng chỉ thấy thoả măn khi nàng xây dựng được một vương quốc riêng trong đó nàng là kẻ đầy quyền năng, không bao giờ bị ai làm tổn thương, và phản bội nàng một lần nữa.
Cuối cùng nàng đă đạt được điều này. Và bây giờ nàng sẵn sàng quy phục trước người đàn ông này. Bởi lẽ bây giờ nàng hiểu rằng điều mà nàng vẫn ấp ủ lâu nay là làm sao Larry phải cần đến nàng, phải yêu thương nàng. Và cuối cùng chàng đă làm đúng như vậy. Vậy là cuối cùng nàng đă có được cái vương quốc đích thực của nàng.



o0o

 

Pages Previous  1  2  3  4  Next