Công Nương Và Hoa Cẩm Chướng Pages  1  2  3  Next   
Chương 1

Buổi trưa ẩm ướt tháng Mười Một đó là ngày bức hoạ của Holbein thu hút giới mộ điệu tới Vernon, nơi có một cuộc đấu giá không tiền khoáng hậu về giá trị cũng như về mức độ quan trọng của nó. Bức họa được gửi đến không hẹn trước từ Tu Viện Wroxon bởi gia đ́nh Kneller, là bức hoạ nổi danh mang tên Quư Cô với hoa cẩm chướng, một tuyệt tác với sự pha trộn giữa nét thanh tú và phi thường trong cách thể hiện, bức họa là một chân dung nhỏ của Cô de Quercy, con gái của ngài đại sứ trong

Archibald Joseph Cronin
triều vua Henry Thứ Tám - được ra mắt năm 1532, không bao lâu sau sự tái xuất hiện của Holbein ở London từ Basel – phong cách độc đáo nhất và thời gian huy hoàng nhất của vị bậc thầy này.
Pḥng hành lang đấu giá dài bị chật cứng người đúng bốn giờ rưỡi khi bức họa được kêu giá. Cuộc đấu giá bắt đầu với giá khiêm nhượng là hai ngàn guineas (guinea = đồng vàng Anh = 21 shillings, 1 shilling [hào] = 12 pence [xu]), tăng nhanh thành năm ngàn, ngưng một hồi lại tăng lên bảy ngàn, rồi ngưng và tăng với nhịp điệu thay đổi để loại trừ các kẻ cạnh tranh, rốt cuộc chỉ c̣n hai vị sừng sỏ, và giá cuối cùng lên tới chín ngàn bốn trăm guineas. Giá này đến đây ngừng lại.
“Chín ngàn bốn trăm guineas.”
Người điều khiển đấu giá, ẩn trong lốt y phục diều hâu đỏ may cắt khéo léo, tóc được chải ngôi cẩn thận, chiếc kim đính hạt trai viền nổi bật trên nền cà vạt đen, làm tôn thêm dáng vẻ của ông trong lúc mắt không rời khuôn mặt điềm tĩnh ngoảnh đi ngoảnh lại của Bernard Rubin. Rubin dường như ghét trả cao hơn mặc dù cuộc đấu giá đang gây bất lợi cho ông. Cuối cùng, ánh mắt sùm sụp khó nhận thấy dưới cái nón rộng vành chợt sáng lên với một nét ngoan cố, và ngay tức khắc giọng người điều khiển vang lên:
“Chín ngàn năm trăm guineas.”
Ngay lập tức, một cử chỉ ra dấu gần như không thể cảm nhận phát ra từ phía đối diện của căn pḥng.
“Chín ngàn sáu trăm,” giọng người điều khiển lễ phép vang lên.
“Chín ngàn bảy trăm,” Rubin tăng giá một cách giận dữ nhưng lần nữa lại có kẻ đấu giá khác ra hiệu, có vẻ thách thức với ông.
“Chín ngàn tám trăm,” người điều khiển tuyên bố và dướn người về phía Rubin.
Nhưng lần này Rubin chịu thua, giới hạn của ông chỉ có nhiêu đó, vẻ kiên cường không c̣n nữa từ lúc tiến hành đấu giá. Nếu có một thứ khiến già Bernard Rubin đứng đầu trong kỹ nghệ đồ cổ, đó chính là tài dừng lại đúng lúc.
“Chín ngàn tám trăm guineas,” người điều khiển lặp lại, đảo mắt khắp căn pḥng chật cứng. Một sự im lặng.
“Lần chót, chín ngàn tám trăm guineas.” Một tràng im lặng nữa, kỳ lạ, và cuối cùng được chấm dứt bằng một tiếng búa gơ mạnh.” Bán với giá chín ngàn tám trăm guineas... cho Cô Lorimer.”
Katharine Lorimer đứng dậy nhẹ nhàng từ chiếc bàn dài nơi nàng ngồi, tiến tới cánh cửa đôi phía cuối căn pḥng rộng lớn. Nhiều vị đấu thầu lịch sự lùi lại khi nàng bước ngang, th́ thầm lời chúc tụng, ngoài một nụ cười nhẹ nàng dường như không chú ư tới họ lắm. Có lẽ nàng nhận thấy khó trả lời lúc đó v́ sự kiện táo bạo mới xảy ra, nàng cảm thấy nhịp đập rộn lên v́ sự căng thẳng vô tận của vài giây cuối. Nàng đă đặt trọn trái tim vào bức hoạ, và một sự đặt giá nữa từ Rubin có lẽ sẽ đánh bại nàng.
Từ bậc thang đi xuống, già Bernard hội nhập với nàng, bước đi lộp cộp nặng nề bên cạnh nàng trong sự im lặng khó hiểu. Chiếc xe hơi của ông ta, màu đen và bạc kiểu Continental, thiệt là bự và đắt tiền mà ông ta không bỏ lỡ cơ hội nào khoe với mọi người giá mua nó, đang đậu cạnh lề đường bên ngoài. Tới ngưỡng cửa, Katharine và Rubin ngừng lại, ngạc nhiên v́ tiếng động và mật độ giao thông, v́ sự chói ḷa và sự càu nhàu chói tai của London, làm cho pḥng đấu giá dường như xa vời và có vẻ không thực.
“Cô đi cùng đường với tôi?” Rubin hỏi, một cử chỉ như muốn đưa nàng về.
Gần năm giờ rồi và Katharine bất chợt quyết định không trở lại làm việc tiếp mà về nhà. Nàng gật đầu, một làn gió thoảng vương nước mưa và sương mù làm nàng run lên nhè nhẹ và bước vội vào xe.
Đường King đă tệ, nhưng Piccadilly lại nằm ở vị trí tệ hơn, ngập ngụa bế tắc với xe buưt hai tầng và tắc xi. Chiếc xe chạy rồi ngừng rồi chạy nữa về hướng đường Curzon, Rubin với đôi mắt sùm sụp dưới hàng lông mày ḍng Semite (người gốc Ả Rập hay Do Thái) nh́n chằm chặp vào Katharine với vẻ sắc sảo có tính châm biếm kỳ quặc.
“Cô trả quá nhiều, Cô Lorimer,” cuối cùng ông lên tiếng.
“Ư ông là quá nhiều cho ông, ông Rubin?”
Rubin cười nhẹ, “Có thể, có thể!” Ông ta đồng ư với sự phong phú dễ dăi, ngừng một chút để ngưỡng mộ chiếc nhẫn một hột đá quư hoàn mỹ trên ngón út tay trái. “Mọi việc phải tiến triển tốt đẹp lắm nên cô mới cho giá khá cao. Phải không, cô Lorimer?”
“Ồ, không đến nỗi tệ.” Giọng Katharine hoàn toàn tự nhiên.
“À, tốt! Thật là tuyệt! Thật là đặc biệt khi mọi người c̣n lại trong ngành buôn không được như ư lắm. Không làm ra tiền, không có thân chủ, không có việc ǵ để làm. Nhưng cô – cô lại có thể trả một lúc mười ngàn cho một bức hoạ nho nhỏ của Holbein. Cứ cho là vậy đi! Tại sao nhỉ, khó có thể tin được.”
Môi Katharine mấp máy định đáp, nhưng vội ngưng lại. Thay vào đó, nàng cười nhẹ với nụ cười cố hữu, gần như là gây ấn tượng mạnh mẽ đối với tính khí trầm lặng của nàng, và nàng ngồi dựa lại phía sau trong góc ghế xe, nh́n thẳng về phía trước mặt. Sự dứt khoát và điềm tĩnh lúc nào cũng làm nàng căng thẳng, nhưng lạ lùng thay, ẩn dưới sự yên tĩnh là một sự bốc đồng không tưởng nổi, và trong ánh mắt sâu thẳm của nàng có nhiều tia sáng ngấm ngầm và run rẩy bên bờ lề cuộc sống muôn màu muôn sắc. Nhưng nh́n chung nàng vẫn buồn, vầng trán rộng có ngấn như thể trong quá khứ nàng đă có nhiều giây phút khó khăn và lúng túng. Vẻ mặt của nàng cùng màu sắc hài hoà tuyệt đẹp, làn tóc nâu với đôi mắt nâu nồng ấm trên một khuôn mặt trái xoan hơi tái. Răng nàng trắng ngần đến nỗi một nụ cười mỉm chi cũng toả ra sức sống. Nàng không quá ba mươi lăm. Nhưng ở đó ghi nhận một vẻ trang nghiêm, sự cảm nhận có tính tự chủ, thái độ trầm tư đến vật xa vời và trừu tượng nào đó làm nàng cách biệt hẳn và đôi khi có vẻ ghê gớm.
Áo váy của nàng, bằng len trơn thẫm màu, được chọn lựa cẩu thả trong lúc vội vă và chiếc mũ được đội hơi lệch về phía sau th́ rẻ tiền và không hợp thời trang. Rơ ràng là nàng không có khiếu thẩm mỹ về y phục. Nhưng đôi giày của nàng được làm bằng tay từ loại da quư, làm nổi bật nét tự phụ duy nhất là đôi bàn chân thon xinh đẹp.
“Dĩ nhiên,”Rubin nói một cách tinh quái,”nếu cô quan tâm tới lợi nhuận, khoảng mười phần trăm, và một khoản tiền mặt mau lẹ...”
Katharine lắc đầu một cách cộc cằn. “Cám ơn, ông Rubin. Nhưng khi tôi bán bức Holbein, đó mới là tiền thật sự.”
“Tiền thật. Nó không c̣n tồn tại nữa. Ít nhất là không có ở đây. Không, không!” Rubin cười nhếch mép, nhại lại một bài hát thịnh hành. “Cô không kiếm được nó ở đó đây.”
“Có lẽ không,” Katharine đối mặt với ông. “Lắng nghe đây, ông Rubin, và ngưng làm tṛ. Tôi sẽ đem bức hoạ tới New York tháng tới. Khi tôi tới đó, tôi sẽ bán lại cho Brandt. Ông ta bây giờ đang ở Argentine, nhưng ông ta sẽ trở về vào ngày 12 tháng Chạp. Ông ta sẽ mua bức Holbein. Ông ta sẽ mua từ tay tôi với giá là hai mươi ngàn bảng Anh (pound).”
“À, Brandt - một canh bạc,” Rubin phản bác lại với một sự kính trọng bất th́nh ĺnh. “Tốt, cô là một người khéo léo, cô thân mến, nhưng, nhớ lời tôi, nếu là tôi, tôi sẽ không liều đâu!”
“Tôi có thể chấp nhận làm liều,” Katharine trả lời vui vẻ.
“Cứ như vậy.” Rubin gật đầu như một vị quan. “Cứ như vậy, cô thân mến, cô biết ḿnh rơ hơn là tôi.”
Ông ném một tia nh́n khác vào nàng, bắn ra với câu hỏi và một ḷng mến mộ chắc chắn không có thiện ư, nhưng tính nghiêm nghị đến trống rỗng mà nét mặt nàng lại rơi vào trạng thái đó gần như làm tan biến cuộc tṛ chuyện. Im lặng rơi vào trong xe và tiếp tục như thế cho đến khi Rubin, như thể v́ áy náy đă xoá đi một ấn tượng khó xử, vội đổi đề tài.
“Cô cháu diễn viên nhí của cô, Nancy Sherwood, cô ấy ra sao rồi?”
Katharine tức th́ ngoảnh lại, khuôn mặt thay đổi, có vẻ quan tâm sâu sắc. “Hạng nhất, ông Rubin. Cô ấy mới đính hôn.”
“Tốt, tốt. Anh chàng may mắn đó là ai?”
Môi Katharine co lại. “Tối nay tôi mới biết. Tôi được mời đi dự tiệc - để gặp cậu ta. Mọi việc bây giờ xảy ra thật lạ thường. Có vẻ khác hẳn thời trẻ của tôi.”
“Nhưng cô c̣n trẻ, cô thân mến,”Rubin xen ngang một cách khéo léo.
“Ồ, bậy nào. Ông hiểu ư tôi nói. Nancy tới Nice để nghỉ hai tuần trước khi bắt đầu buổi diễn và khi về lại kéo theo anh chồng tương lai như thể anh ta là cái túi xách mới.”
“Tốt, tốt, mọi việc xảy ra nhanh thật,” Rubin cười khoái trá. “Những ư nghĩ thiển cận bị đẩy lùi ra sau hết.”
Chiếc xẹ quẹo ngoặt sang đường Curzon và dừng lại đối diện căn hộ của Katharine, Rubin tinh quái công kích nàng lần cuối.
“Không chừng bức Holbein đến vào lúc cần thiết cũng nên!”
Ông ta vỗ nhẹ vào tay nàng khi nàng sắp rời xe.
“Nếu cô không bán nó, có thể làm quà cưới được đó?”
Với lời chế nhạo mỉa mai vo ve bên tai, Katharine quay người về phía căn hộ, nằm trong khu căn hộ siêu cấp mới dựng lên gần đây. Căn hộ xa hoa với máy điều hoà nhiệt độ và gần như theo xu hướng nghệ thuật Baroque nguy nga tráng lệ của toà nhà không hợp thị hiếu của nàng, nhưng nàng t́m được chỗ này thuận tiện cho công việc làm ăn, nó tạo cho nàng, hơn thế nữa, điều cần thiết cho cái nghề không dễ làm xiêu ḷng của nàng là một địa chỉ tốt. Người gác cửa mở lối cho nàng và đưa nàng tới thang máy, trong khi một người kia, tóc bện thẳng hàng, đưa nàng tới tầng sáu và khúm núm nghiêng ḿnh tiễn nàng ra khỏi thang máy.
Mặc dù nhớ đến những căn nguyên và có thói quen đơn giản, Katharine không bao giờ ngưng tự hỏi ḿnh trong hoàn cảnh nào hay thường xuyên t́m ra một bí mật, sự vui sướng thời ấu thơ từ cách lặng ngắm những vật linh tinh như cầu trượt lấy thư tự động hay những anh chàng xu nịnh khờ khạo, tối nay sự chú ư của nàng đă bị thứ khác choán hết. Nàng hồi tưởng lại những lời lẽ nặng nề khắc nghiệt của Rubin hồi chiều, tự hỏi ḿnh rằng lăo cáo già biết được bao nhiêu về khó khăn tài chính của nàng và nàng công nhận bằng cái thở dài vô ư thức rằng lăo ta không biết ǵ hết, lăo ta chắc chắn dựa đoán điều tệ hại nhất nào đó.
Lúc nàng vào nhà, vẻ mặt nàng thư giăn hơn, trở nên mệt mỏi hơn và hơi bị quấy nhiễu. Nàng cho phép ḿnh nghĩ rằng đă trải qua một ngày nhọc mệt với nhiều lo lắng và có khách không sang ngay đầu ngày, không có tí ǵ bỏ bụng lúc trưa và cuộc du ngoạn điên rồ với bức tiểu họa vào cuối ngày. Đầu nàng nhức nhối kinh khiếp, và thể xác làm việc quá sức của nàng chợt nhẹ tâng rồi lảo đảo. Trong bộ dạng lúng túng, nàng giật phăng chiếc mũ và liệng nó cùng với găng tay và túi xách lên chiếc trường kỷ. Rồi nàng đi vào căn bếp nhỏ để pha trà và quyết định luộc một quả trứng.
Mười lăm phút sau, nàng ngồi trên chiếc ghế băng bằng kẽm lạnh trong pḥng ăn, đối diện là chiếc tách đă vơi cùng với vỏ trứng, một sự vô lư tột bực của sự việc ập tới. Nàng trả tiền thuê bốn trăm bảng Anh một năm cho căn hộ này và sáu trăm nữa cho cơ sở thương mại. Nàng mới chi mười ngàn cho một bức tiểu họa. Và bữa ăn tối tốn khoảng bốn xu. Nàng cười cho đến lúc nước mắt trào ra, những giọt lệ cay đắng, và nàng để mặc chúng chảy dài, nàng vật vă khóc.
Trở lại pḥng khách - một căn buồng yên tĩnh, trống trải nhưng trang bị thuận tiện với một vài đồ đạc hợp thời - Katharine tuột giầy, ngồi cuộn tṛn trên ghế, châm một điếu thuốc. Nàng hút không thường xuyên, chỉ khi nàng rất vui hay rất buồn, và tối nay nỗi buồn phiền của nàng không có giới hạn. Việc kinh doanh gần đây xấu tệ. Ngành mua bán đồ cổ là như vậy, đến rồi đi như sóng biển. Nàng đă từng phất lên nhanh như bao người khác, và bây giờ nàng lại đắm ḿnh gần như vô vọng trong t́nh trạng khủng hoảng kinh tế này. Nàng cố chống chịu, và dĩ nhiên sẽ có cơ hội phục hồi. Mọi sự tiết kiệm có thể đă được thử nghiệm. Mặc dù nàng không thể thoát khỏi hợp đồng thuê nhà trên đường Curzon và đường King, nàng không lái xe nữa và giảm chi tiêu tới mức tối thiểu. Thời thế thật khó khăn.
Nàng cương quyết không xem xét lại những vấn đề rắc rối trong t́nh h́nh tài chính của ḿnh. Nàng có đủ thời giờ làm việc đó vào thứ Hai sau khi tới gặp ông Farrar ở nhà băng.
Ngoài ra, nỗi sầu muộn tối nay của nàng nhiều và riêng tư hơn bao giờ. Nàng cảm thấy cô đơn ghê gớm. Trong con mắt của họ hàng và bạn bè, nàng đạt nhiều thành công. Ḍng cảm nghĩ đưa nàng trở về thời xa xưa, khi nàng chỉ mới mười sáu, bỡ ngỡ từ trường tư thục và một gia đ́nh nửa như tan vỡ ở Tulse Hill và bước vào đời, rụt rè làm chân đánh máy cho Twiss và Wardrop, Household Furnishing, Duck Court, High Holborn. Nàng được nhận vào làm ở nhà kho chứa đồ lặt vặt đó v́ cha nàng quen biết một người hùn hạp ở đó, một người không theo quốc giáo và nhiệt tâm, nhưng nàng vẫn run như cầy sấy – khi được giới thiệu – như lời ông Twiss nói, mất tinh thần trước cả cái xụ mặt của ông Wardrop.
Có nhiều thay đổi trong cuộc sống của nàng từ dạo đó. Bây giờ nàng là Antika cho King Street, St. James, và Park Avenue, New York trở nên nổi tiếng v́ khiếu thẩm mỹ và trang trí của nàng, v́ nàng là chuyên gia trong kỹ nghệ kiến thiết đô thị, sưu tập nữ trang rẻ tiền, đồ trang hoàng và mỹ thuật, có lẽ nàng là người phụ nữ môi giới nổi tiếng thế giới trong giao dịch đồ cổ. Làm sao có chuyện này nhỉ? Nàng nhớ rất rơ chuyện xảy ra v́ nàng quyết chí thực hiện nó, v́ nàng có quyết tâm không lay chuyển là lập nên sự nghiệp, hy sinh tất cả nếu bắt buộc, tôi luyện nàng trở nên chai đá cho các thử thách cam go cũng như mặt dày mày dạn trong công việc. Nàng muốn trả bằng mọi giá để thành danh. Nhưng, mọi việc bây giờ đă xong xuôi. Nàng đă thành công, và than ôi, giả dối nào hơn chuyện phù hoa ấy!
Điện thoại gần khuỷu tay nàng bỗng reng. Với vẻ uể oải v́ những rắc rối không ngừng trong đời nàng bây giờ chỉ c̣n là tiếng chuông điện thoại, nàng với lấy ống nghe.
Mẹ nàng gọi từ Wimbledon, trong một biệt thự ấm cúng nàng xây cho bà cách đây năm năm.
“Con có nhà ư, Katharine.” Chỉ qua đường dây điện thoại, giọng bà Lorimer cũng đượm vẻ pha trộn của nỗi khổ cực và sức chịu đựng bị lăng quên. “À, mẹ may mắn quá. Mẹ ít khi gặp được con mỗi khi gọi điện. Con không có lấy một giây phút chuyện tṛ với người mẹ già yếu này. Không bao giờ. Không bao giờ.”
“Con gọi cho mẹ tối quá đó thôi?” Katharine kiên nhẫn đáp lại.
“À, nếu thế th́ sao?”, bà cáu kỉnh trả lời. “A lô, a lô, con có nghe mẹ nói không?”
“Thưa mẹ, con có nghe mẹ.”
“Được, đừng có bỏ đi đó. Mẹ có nhiều điều muốn nói với con. Chờ mẹ chút. Mẹ viết cả lên tờ giấy này. Kính mẹ đâu nhỉ? Lạy chúa tôi, con đang đeo nó. Để xem, trước hết là con sẽ xuống chơi cuối tuần này, phải không, với Nancy và anh bạn mới của nó?”
“Vâng. Chúng con sẽ tới.”
“Thế th́ tốt, con yêu. Nghe đây này! Mẹ muốn con đem cho mẹ một ít đồ: len, hạnh nhân tẩm đường, bánh sô-cô-la, và một cuốn tiểu thuyết mới. Đừng quên hạnh nhân tẩm đường nhé Katharine – con biết chứ, nhăn hiệu mẹ hay mua ở Fortnum. Ồ, mẹ sực nhớ ra, con tiện mua luôn cho mẹ bột nhồi anchovy (một loại cá trống, cá cơm) chỗ đó luôn. Mẹ muốn quệt một chút xíu lên mẩu bánh ḿ nướng những chiều đông, làm cho tiệc trà trở nên ấm cúng và thoải mái cạnh ḷ sưởi. Nghe đây nè, Katharine, con có nghe mẹ nói không? Nhớ là cuộn len xám ba lớp để mẹ đan cái khăn choàng mới.”
Katharine kiên nhẫn lắng nghe, rồi mỉm cười nhẹ. “Được rồi mẹ. Con sẽ chu toàn mọi chỉ thị của mẹ.”
“Chỉ thị, thật vậy à! Giọng nói già nua vô t́nh cảm thấy bị tổn thương. “Con trách mẹ v́ một vài đ̣i hỏi cần thiết ư! Thật đấy, Katharine, sao con có thể gắt gỏng với bà mẹ già yếu này như với người dưng. Nếu cha con c̣n sống th́…”
Trước sự viện dẫn quen thuộc, Katharine đành lấy lại tự chủ. Nàng vội vă đáp, “Thôi nào, mẹ. Mẹ biết là con không có ư ǵ mà.”
Ngừng một lát.
“Con không cáu với mẹ chứ?”
“Dĩ nhiên là không có mà mẹ.”
“Tốt.” Một tiếng thở dài nhẹ nguôi ngoai vang lên trên đường dây. “Như thế là đủ. Con có nghe thấy không? A lô, a lô, cái con bé hỗn xược ở tổng đài lại làm đứt dây nữa bây giờ. Ngủ ngon nhé. Chúa phù hộ con, con yêu. Nhớ là đừng có quên hạnh nhân tẩm đường của mẹ đó.”
Katharine gác điện thoại với một cái lắc đầu. Mặc dù mẹ nàng đă dễ dăi nhiều so với trước, nhưng với thành kiến và những yêu cầu của bà, bà có những lạm dụng không ngừng. Bà thích than phiền. Bà thường xuyên làm như vậy không biết mệt mỏi.
Nhưng bây giờ, liếc nh́n đồng hồ, Katharine cương quyết vứt bỏ mọi ưu phiền. Nàng đứng dậy, đi vào buồng tắm, và vặn ṿi nước. Mặc dù nàng không muốn đi chơi tối nay, nhưng nàng không thể làm Nancy thất vọng. Nhanh chóng một cách vội vă, nàng cởi đồ ra và bước vào bồn tắm.
Khi nàng đắm ḿnh trong làn nước trong, không hương vị, hồi sức dễ chịu lại dưới ḍng nước ấm, nàng nghĩ về cô cháu gái của ḿnh, vẻ ưu tư chợt biến mất, và làn môi cong lên một nụ cười dịu hiền. Nàng hết sức chiều chuộng Nancy, con gái của người chị lớn Grace, người đă lấy Joe Sherwood ngược lại với nguyện vọng của mẹ nàng, sống hạnh phúc với anh ta được mười lăm năm, chợt định mệnh bị lăng quên đă vạch sẵn ra cái chết chung của nàng cùng với chồng trong tai nạn xe gắn máy thảm khốc trên đường Great West. Kể từ ngày tang tóc đó, Katharine dưỡng nuôi Nancy, đứa bé gái gầy và cao lêu nghêu mười bốn tuổi, nuông chiều nó rất mực, nuôi ăn học đầy đủ, sau đó lại cho học trường Nghệ thuật Sân Khấu, lại chiều theo ư thích của cô để lên sàn diễn cách đây mười hai tháng. Với sự tận tâm đó, Katharine lại nhạy cảm với ai bảo nàng chiều cháu quá mức - không có ǵ là quá đáng cho Nancy, một cô gái xinh nhất và yêu kiều nhất trên thế gian.
Thật là lạ nếu nghĩ rằng cô đă là người lớn, từ Riviera trở về với cái tin đính hôn nhẹ nhàng này. Một cái tin đẹp, một điều hay nhất xảy đến cho cô, ổn định cuộc sống nhanh để hưởng thụ với chồng và con. Đó là điều mong ước của Katharine cho Nancy, với một lư do lạ lùng, nàng ước mong với tất cả tấm chân t́nh.
Bật dậy, Katharine lau người nhanh với tấm khăn thô nhám làm làn da mịn trắng ửng lên. Vô tư lự nàng nghĩ về thân h́nh khoẻ mạnh của ḿnh, nếu không có nó nàng đă không chịu đựng nổi những nhọc mệt và vật lộn trong những năm gần đây.
Nàng thay đồ chậm hơn b́nh thường, lựa một chiếc váy dài nàng mua hồi nọ ở Paris. Thông thường, ăn vận y phục hiếm được coi là quan trọng với Katharine. Nàng tự nhủ thẳng với ḿnh rằng không có lư do hay thời gian nào cho sự loè loẹt và thường thẳng thắn chấp nhận sự tầm thường - một thái độ thường được thừa nhận với nụ cười mỉm cho sự ngoan cố của một phụ nữ thành công và giàu có. Nhưng tối nay, với tâm hồn hưng phấn, nàng thấy phải diện để đẹp ḷng Nancy.
Tám giờ rưỡi, ngồi trước tấm gương Vauxhall nhỏ tại bàn trang điểm, nàng sẵn sàng cho cuộc đi chơi, và quyết định như vậy khi nh́n bóng ḿnh trong gương, bỏ mặc những âu lo phiền muộn trong ngày. Một vài nếp nhăn dưới mắt, nhưng nước da đẹp tự nhiên không trang điểm của nàng đầy tươi mát và cân đối. Với làn môi tươi tắn phản chiếu nét răng trắng ngọc, chứng tỏ một khí lực trong sáng và mănh liệt.
Ngoài sân, mưa đă tạnh, và bờ lề được làn gió rét buốt chùi sạch khô, mời mọc một cuộc dạo mát gồng ḿnh. Vào những đêm như vậy, Katharine thích bước trên đường phố im vắng, thể xác và tâm hồn thả theo gió, đôi má ngứa ran từ đoạn đường lồng lộng. Chỉ lần này thôi, nàng không muốn đôi giày dạ hội và lễ nghi chỉnh tề bị lấm lem mà cố gh́m nén sự cám dỗ. Nàng đón tắc xi tới Adelphi, chỗ cao chót vót trong ngôi nhà Adam cổ góc đường John, là chỗ ở của Nancy.
Toà nhà không có thang máy, những tầng dưới dành cho văn pḥng tư vấn pháp luật, và Katharine leo lên những bậc thang ṃn cuộn ṿng bờ tường tráng vữa stucco (xi-măng), lời hứa tổ chức một dạ tiệc không thể lầm lẫn được bỗng hướng vọng về phía nàng. Thật ra, khi nàng tới nơi, ngang qua ṿng tay tiếp đón của cô hầu gái nhanh nhảu của Nancy cùng tên đầy tớ trai vận lễ phục trong những dịp lễ lộc, kia là căn pḥng đôi rộng lớn đầy người lẫn khói thuốc và tiếng huyên náo.
Lúc Katharine bước vào, Nancy tiến lại gần, dang tay ra đón chào nàng rồi hôn lên má nàng.
“Ồ, d́ Katharine,” nàng nói. “Thật là tuyệt khi gặp lại d́. Mấy ngày nay, con muốn gặp d́ gần chết luôn.”
Katharine mỉm cười. “Thế sao con không chịu tới thăm d́? Con về đây hôm thứ Tư mà.”
“Con biết mà, d́ yêu. Con muốn lắm chứ, nhưng trời ạ, d́ không biết là con bị dồn dập đến cỡ nào với cuộc diễn tập cho vở kịch mới này, rồi quần áo nè, rồi Chris và đủ mọi thứ luôn.”
“D́ hiểu mà.”
Katharine chằm chằm nh́n Nancy một cách tŕu mến, thầm nghĩ nàng thật là quyến rũ tối nay. Mặc dù nàng chỉ mới hai mươi bốn tuổi, nàng đă ra nẩy nở hoàn toàn, h́nh dáng thanh tú yêu kiều. Khuôn mặt đáng yêu, có hơi căng thẳng với g̣ má cao, cặp mắt xanh biếc hơi xéo với đôi lông mày kẻ ch́ mỏng. Tóc nàng cũng mượt mà, nhuộm màu vàng hợp thời, óng lên những lọn vàng. Miệng của nàng mỏng và đỏ thắm mặc dù Nancy không thoa son. Dáng người thanh mảnh của nàng, lấy cớ là biếng nhác lại chứa đựng một sự xúc cảm mănh liệt lạ lùng đến sôi nổi.
“À,” Katharine đáp với vẻ nghiêm nghị, “d́ tưởng là con gắn bó lắm với nghệ thuật.”
Nancy cười to. “Con vẫn c̣n mà d́. Nhưng nó không ngăn cản con lấy Chris đâu.”
“D́ biết,” Katharine mỉm cười, rồi liếc quanh. “Chris đâu rồi?”
“Con muốn d́ đi t́m chàng, d́ yêu!”
“Cái ǵ!”
“Sẽ vui lắm mà. D́ lúc nào cũng lạc lơng trong đám bạn của con, d́ yêu. Con cá với d́ là d́ chẳng t́m thấy chàng đâu hết.”
“Nếu cậu ta là một người lịch thiệp” - môi Katharine cong lên thích thú – “d́ nghĩ là cậu ta phải đi t́m d́!”
Tới giờ, lần lượt khách khứa lục tục tới, và Nancy, làm điệu bộ nhăn nhó với Katharine rồi hoà ḿnh vào đám khách. Katharine bước tới dăy bàn đầy thức ăn, lấy lại phong độ bằng cách chọn cho nàng một đĩa bánh ḿ nướng có quệt bột trứng cá muối (món ăn khai vị, có khi quệt với phó mát). Nàng không dễ bị lôi cuốn vào trung tâm của buổi tiệc, hoàn toàn dễ chịu khi đứng một ḿnh chỉ với ổ bánh ḿ cặp. Cử chỉ của Katharine có một mối tự tin đáng chú ư được gọt giũa hoàn hảo và tự nhiên hết sức sau những lần giao dịch xă giao – mà chỗ này cũng thế. Ngoài ra, tiệc tùng cũng giải trí nàng, nhận xét của Nancy chính xác: nàng ít quen biết bạn của cháu nàng. Một hay hai người nàng nhận ra: David Almoner, diễn viên trẻ tuổi kịch Shakespear và vợ là Nina George, tay chơi dương cầm; Arnold Rigby, nhiếp ảnh gia thời thượng; John Herries, đạo diễn kịch nói ở B.B.C.; và Tony Ulrich, tác giả cuốn tranh thơ tự hoạ Libido Limericks, mà Katharine thấy thô tục và hết thời, nhưng lại trên đà nổi tiếng. Nhưng phần đông những gương mặt đều xa lạ với nàng. Nàng uống một ly sâm-banh và ăn thêm vài viên trứng cá muối. Thức ăn tự phục vụ ngon tuyệt. Nàng chấp nhận một cách vô ư thức sự thật này đúng cái lúc nàng có thể phải bỏ tiền mua.
Buổi tiệc trở nên nhộn nhịp hơn. David Chesham tới, là tác giả của Moonlight in Arcady, vở kịch Nancy sẽ tŕnh diễn, và vài phút sau Sam Bertram – gọi thân mật là Bertie, nhà sản xuất nổi tiếng bấy giờ. Cả hai được Nancy đón tiếp với sự sung sướng vô ngần. Bertram vẫy tay với Katharine, một cử chỉ thân mật lịch sự ra dấu ông sẽ gặp nàng sau. Nàng tỏ ư nhận biết bằng nụ cười. Nàng quen biết Bertie vài năm nay, hay giúp đỡ ông với phần trang trí sân khấu cho các vở kịch, mến ông rất nhiều với nét xông xáo thân mật của người vùng phía Bắc.
Tiếng huyên náo nhiều hơn. Phía trên kia Ulrich đang đọc một bài thơ của ḿnh, trong khi Nina George hoà nhịp đệm lố bịch với tiếng dương cầm. Katharine bắt đầu cảm thấy mệt bỗng th́nh ĺnh nàng nghe một âm thanh vang lên bên cạnh, dễ nhận ra v́ sự im ắng bị phá tan bởi một giọng nói kiểu Mỹ.
“Dường như chỉ có tiểu thư và tôi là hai người duy nhất tỉnh táo ở đây.”
Nàng xoay người, ngạc nhiên. Một chàng trai cao ráo, vẻ hơi tái đứng vô tư với bàn tay đút túi quần, đáp vẻ thắc mắc của nàng với một cái liếc ngang lém lỉnh. Anh chàng khoảng ba mươi lăm, nàng đoán, bí hiểm, có nét mặt thanh tao, đôi chút hấp lực; vành môi trên dài hơi kỳ kỳ điểm một vết sẹo trắng có vẻ ban cho anh chàng một phong cách cố chấp và trầm tĩnh. Thật ra, mối liên hệ sở hữu ngầm nhường lối cho câu nhận xét đầu tiên gây một cảm giác bực bội cho Katharine.
“Tại sao lại gộp cả tôi?” nàng gằn giọng, đôi lông mày nhướng lên nhè nhẹ.
“À,” chàng kéo dài giọng, “Chắc không được, tôi nghĩ là tiểu thư không muốn vậy.”
“Như vậy chỉ c̣n lại ông thôi, như là một kẻ đại diện cho toàn thể nhân loại có trí thông minh và sức chịu đựng dẻo dai.”
Chàng cười thầm, nụ cười đùa cợt có tính kín đáo và không quấy rầy chỉ thấy được qua vài nếp nhăn nơi khoé mắt. “Tiểu thư nói trúng thật, Cô Lorimer. Tôi đoán tiểu thư có nhiều sáng suốt hơn những ǵ Nancy nói, mà nàng nói tiểu thư đă có nhiều rồi.”
Katharine thật sự ngạc nhiên, miệng nàng há ra. “Ư ông là...”
“Chắc chắn rồi!” Chàng gật đầu và mỉm cười, nụ cười tỉnh khô. “Tôi là Chris Madden. Xin đừng quá thất vọng. Tôi biết tôi không xứng với Nancy, nhưng tin tôi đi, Cô Lorimer, tôi sẽ không phụ ḷng nàng.”
Katharine chấp nhận cái bắt tay chắc nịch một cách máy móc, trong khi nàng cố lấy lại sự b́nh tĩnh.
“Thật là vô lư khi tôi biết rất ít,” nàng đáp. “Nhưng tôi có ngờ đâu rằng - rằng Nancy sẽ lấy một người Mỹ.”
“Tại sao không,” chàng đồng ư với giọng cân xứng hơi tranh luận. “Về phần tôi, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ lấy một cô gái Anh.”
Sự công kích càng đi sâu thêm bởi v́ nàng thấy như có công, Katharine biến sắc, mặt ửng hồng một cách lạ lùng vội liếc nhanh tới chàng. Nhưng chàng cứ tiếp tục, như thể vô t́nh trước cảnh lúng túng của nàng.
“Cô biết không, chuyện như thế không bao giờ xảy ra như chúng ta mong muốn. Khi Nancy và tôi gặp gỡ ở Nice - Trời, tôi không thể quên phút giây đó - dưới ánh nắng chói chang – khác với sương mù ở đây, Cô Lorimer - nàng như hớp hồn tôi rồi.” Chàng vội ngắn gọn, ôn lại kư ức, rồi thêm: “Dù thế nào đi nữa, tôi nghĩ cái ǵ tới đă tới, như mọi người hay nói từ khi giai thoại Adam và Eve xảy ra.”
“Nghe cứ như thơ ấy.”
Sự giải thích của chàng, thật ra chỉ có thế, kết thúc lửng lơ làm cho câu trả lời của Katharine không hợp cảnh và có hơi đối nghịch. Có lẽ nàng có chút ghen tỵ với Madden. Nàng chụm môi thật chặt, đảo nh́n khắp người chàng lần nữa, lần thăm ḍ thứ hai và có phần kỹ lưỡng hơn, chú tâm tới y phục chàng, nổi tiếng không kém Saville Row, và hàng vải lanh được giặt ủi thẳng thớm. Đôi mắt nàng nheo lại. Bản năng bảo vệ Nancy trỗi dậy.
“Ông làm ǵ ở Nice vậy, ông Madden?”
“À, tôi đi nghỉ hè, kỳ nghỉ đầu tiên sau một thời gian khá dài. Tôi đă ở Rome và Florence và Vienna; và rồi tự nhiên tôi có hứng muốn tới Pháp lần nữa. Tôi từng ở Pháp thời chiến tranh - chuyện cách đây mười bảy năm. Nghĩ mà lâu thế, nhưng, kỳ lạ, khi tôi tới đó, thời gian có vẻ thu ngắn lại.”
“Thật thế ư!” Katharine đáp không nhiệt t́nh lắm. “Thời gian lúc nào cũng gạt gẫm. Ông có định ở đây dài lâu không, ông Madden?”
“C̣n tuỳ vào Nancy, Cô Lorimer. Tôi muốn chúng tôi lấy nhau sớm. Nhưng nàng vẫn hơi ràng buộc với kịch nghệ. Nàng chỉ nghĩ tới vở kịch mới. Họ sẽ công diễn ở Manchester sau tuần này, và với các buổi diễn tập, nàng thật bận rộn. Tất cả rồi cũng qua, tôi nghĩ thế. Bất cứ giá nào, tôi sẽ ở quanh nàng ít lâu cho đến khi nàng xong với vở kịch rồi thuyết phục nàng trở về Mỹ với tôi.”
“Dường như có vẻ bất th́nh ĺnh, ông có nghĩ vậy không, ông Madden?” Katharine trao cho chàng nụ cười lạnh lẽo. “Chúng tôi rất yêu chuộng Nancy ở đây. Riêng tôi rất là gắn bó với nàng...”
“Ồ, tôi biết,” chàng cắt ngang. “Nancy có kể tôi nghe, Cô Lorimer. Cô rất là tuyệt diệu với nàng.”
“Tuy nhiên ông lại chọn cách khác. Hạnh phúc của Nancy là tất cả đối với tôi. Trong những t́nh huống này, tự nhiên là tôi muốn biết điều ǵ đó về người đàn ông mà cháu tôi muốn lấy.”
Khuôn mặt chàng thay đổi, không c̣n vẻ cởi mở hào hứng nữa, dường như tắt hẳn, đóng sập và thay thế bằng sự trưởng thành và nét cứng rắn lầm ĺ. Chàng đổi cách nh́n ngang tầm với nàng và trả lời:
“Tôi biết cô nói ǵ.”
Có sự ngừng lại. Nàng đảo đôi mắt, ư thức rằng nàng đă làm chàng bị tổn thương bởi sự khiếm nhă của nàng và ngược ngạo thay, vừa đủ làm chính nàng bực ḿnh trong sự kiên nhẫn của ḿnh. Chưa hết, nàng tự nhủ một cách giận dữ rằng tại sao nàng có thể như vậy được? Nàng cáu với Nancy v́ đă không cho nàng biết chuyện đầy đủ. Nàng mường tượng một người khác hẳn, một người có thân thế và lai lịch rơ ràng. Người lạ mặt này, chàng người Mỹ cao lêu khêu này thơ thẩn đi vào làm quen với nàng, thức tỉnh ra, nếu không nói là có ác cảm, ít nhất là mối nghi ngờ không đẹp chỉ v́ lợi ích cho Nancy mà nàng không chấp thuận. Im lặng với những ư nghĩ xoay chuyển trong đầu, nàng vẫn đứng không vui vẻ bên cạnh chàng khi Nancy tới gần và mỉm cười rạng rỡ với cả hai.
“Con mừng là hai người nói chuyện vui vẻ. D́ thấy anh ấy thế nào hả d́ Katharine khi d́ đă thấy điều tệ hại nhất? Anh ấy dễ sợ quá phải không d́?”
Madden liếc xuống Nancy, gương mặt có sinh khí lần nữa, bất thần sống động hẳn ra.
“Anh e rằng d́ nghĩ anh khủng khiếp thật. Phiền một nỗi, Nance, anh đâu có ngờ có người lại trẻ và đẹp như Cô Lorimer đây, và d́ cũng đâu có ngờ ai lại cố chấp như anh vậy. Anh nói em nghe, bọn anh chẳng có hoà thuận chút nào.”
“D́ ấy rất kiêu căng,” Nancy đáp. “Nhưng nếu anh hiểu d́ đúng đắn, d́ lại đâu đến nỗi nào phải không.”
Katharine mỉm cười ngượng ngịu, nàng cảm thấy dây thần kinh căng ra một cách vô lư.
Nancy tiếp tục: “Nhưng, thật t́nh, d́ Katharine yêu quư, con muốn d́ t́m hiểu Chris đàng hoàng. D́ không nghĩ vậy, nhưng anh ấy rất có tiến bộ khi quen biết lâu. D́ sẽ biết nhiều nữa khi chúng ta xuống Wimbledon vào cuối tuần.”
Katharine trả lời với vẻ châm biếm khác thường lệ: “Cũng là một điều để bận tâm.”
“Ít ra là d́ đă được cảnh cáo rồi,” Nancy cười tự tin. “Giờ th́ đi với cháu, cả hai người nè, và hăy vui lên chứ.”
Nhưng Katharine, mặc dù cố gắng quên đi sự lo sợ bí mật, lại không thấy vui chút nào. Độ một giờ sau, nàng ra về, mang theo trong ḿnh một cảm giác hiếu kỳ tới một điều ǵ đó không xác thực và cảm thấy mất tinh thần.


Chương 2

Thứ Bảy đến - một ngày có gió đông lạnh lẽo thổi ào ào trên đường, hứa hẹn một sự đe doạ mănh liệt. Thời tiết này, thật ra, trong ṿng ba ngày gần đây xấu kinh khủng, khiến Nancy bị nhiễm lạnh. Nằm trên giường, nhiệt độ của nàng cao hơn b́nh thường tới hai độ nên bị cấm không được ra khỏi giường. Nhưng nàng năn nỉ Madden cứ làm theo chương tŕnh vạch sẵn, nghĩa là tới Wimbledon, ở ít nhất là một đêm. Chàng chẳng có ǵ làm ở London, và nàng không muốn chàng cứ quanh quẩn trong nhà nàng.
Katharine không vui sướng ǵ trước chuyện xảy ra, hoăn chuyến đi lại một vài tiếng. Gần bốn giờ, từ văn pḥng nàng gọi điện cho Madden và bảo chàng rằng nàng đă được rảnh. Chàng có vẻ như đang ngóng tin nàng cho nên đến đường King ngay lập tức. Chỗ này, Katharine chiếm hai tầng đầu tiên của toà nhà mặt tiền hẹp chạy sâu vào mảnh sân rải sỏi, lối ra vào là một cánh cổng ṭ ṿ bằng đá cổ dẫn đến những chỗ đậu xe ngựa cũng như cây đèn chạy bằng ga long trọng. Bầu không khí thật lư tưởng cho việc kinh doanh của nàng nhờ được điều hành đúng mực. Bên ngoài được trang trí khéo léo theo phong cách Georgia. Không có trưng bày cũng như treo biển, ngoại trừ một tấm bảng bằng đồng thau với hàng chữ “Antika Ltd.” nằm ở gờ bằng tranh trên cửa ra vào; xuyên qua cửa sổ màu trắng đục là dễ dàng phân biệt nền nội thất trang nhă của căn pḥng lợp ván panô phong phú màu nhạt dịu, từ sự lấp lánh phản chiếu nước bóng của khung h́nh Hoàng hậu Anne làm bằng gỗ cây óc chó tới vẻ đẹp lộng lẫy lu mờ của tấm gấm thêu kim tuyến thời thế kỷ thứ mười tám.
Đi lên tầng trên là một cầu thang với hàng lan can rộng được trám rănh máng hợp cùng những trụ điêu khắc thẩm mỹ chốt ở tay vịn cầu thang, Katharine có một văn pḥng tiện nghi, dài, sáng sủa với cái bàn lớn đặt giữa pḥng, ḷ sưởi lộ thiên, và một tủ két ở góc pḥng, tấm thảm Kirman tuyệt đẹp trải trên sàn, và nhiều tấm sơ đồ thiết kế trang trí và màu sắc được treo trên tường. Phần lớn việc kinh doanh của Katharine là chuẩn bị các sơ đồ này để ứng dụng vào việc phục hưng các căn nhà cổ. Nàng đă tạo cho ḿnh một uy tín độc nhất vô nhị nhờ vào những kiệt tác này, trong quá khứ, nhờ các sự uỷ thác, cả lớn lao và thu lợi, nó đă đưa nàng thâm nhập vào nhiều di tích quan trọng của Anh Quốc. Nàng không đơn thuần là “chuyên gia mua bán bất động sản” hay làm cái việc chở củi về rừng – hàng vốn của nàng được chọn lựa vừa đủ. Nàng ưa mua bán có tuyển lựa và chỉ khi nào hàng được bày ra trước mắt. Tài khéo léo này là vốn của nàng trong giao dịch. Sự tinh tế trong ḍ hỏi thân chủ đúng ư cho một vật mỹ thuật khiến nàng chụp lấy cơ hội có trong tay bức tiểu họa Holbein với ư định sang tay lại cho một nhà sưu tầm Brandt nổi tiếng ở New York.
Đồng hồ gơ bốn tiếng từ cái đồng hồ quả lắc chạm trổ sơn mài dựng trên một cái bệ khi Madden bước vào văn pḥng. Katharine bật dậy lập tức và ch́a tay ra để bắt. Trong khoảng thời gian từ bữa tiệc đêm đó tới giờ, nàng hay tự hỏi ḿnh cũng chỉ v́ muốn mọi việc được công bằng, nàng cố dằn ḷng bỏ qua những ghét bỏ dành cho Madden và quyết định cho chàng một cơ hội.
“Nancy thế nào rồi?” nàng hỏi.
“Nàng có vẻ hơi lăng xăng,” chàng trả lời. “Nàng phải nằm trên giường. Vẫn c̣n sốt. Nàng muốn tôi đi với cô.”
Katharine gật đầu. “Nàng điện cho tôi. Tôi e rằng đă làm ông chờ lâu.”
“Không có sao, Cô Lorimer.” Chàng trao nụ cười không thúc hối tới nàng. “Tôi hay thường xuyên quanh quẩn bên Nancy ở nhà hát nên cũng quen đợi rồi. Vả lại, một thay đổi cho tôi, có th́ giờ trong tay nhưng lại không bị trói buộc giây phút nào. Tôi nghĩ tôi sẽ thích nghi nhanh. Ít nhất, có lẽ thế.”
Trong khi nàng đeo găng, ánh mắt chàng thăm ḍ căn pḥng với vẻ trầm tĩnh và thưởng thức cao.
“Cô có một chỗ rất tuyệt. Nếu không phải nói quá đáng, tôi rất thích đồ vật trang trí ở đây, đặc biệt là tấm thảm trải chân đáng yêu này.”
“Vâng,” Katharine đáp, với ư nghĩ sẽ giải thích qua loa nhưng lại tiếp tục với vẻ lịch sự: “Đó là tấm thảm Ba Tư thuộc thế kỷ thứ mười tám. Người thợ phải tốn gần mười năm để dệt nên. Những màu sắc này – chúng là thuốc nhuộm từ thực vật cổ.”
“Dĩ nhiên rồi,” chàng gật đầu đơn giản. “Đích thực là Kirman-Lavehr, phải không?”
Katharine liếc nh́n chàng thật sắc, hơi sững sờ v́ khả năng suy xét của chàng. Không những chính xác trong nhận xét khi chàng suy ra tỉnh lỵ nơi tấm thảm cổ được dệt mà c̣n biết rơ xuất xứ ở đâu.
“Ông có rành về đồ cổ?” nàng hỏi, nh́n chàng chăm chăm một cách thích thú.
Chàng trả lời mạnh dạn. “Không, nói thật, tôi không để ư lắm. Ít ra tôi cũng biết được qua thị hiếu của cô. Nếu tôi thật quan tâm đến những thứ này, tôi cũng sẽ t́m hiểu nhiều hơn. Tôi đọc rất nhiều sách, gần đây ở châu Âu tôi đă tới hầu hết các pḥng triển lăm. Tôi học hỏi nhiều thứ mà nền văn minh Mỹ quốc không đề cập, như là thảm Ba Tư và đồ gỗ Ư – và, ồ, xà lách Pháp, nếu kể luôn.” Chàng mỉm cười. “Tôi là một chuyên gia thường trực kỳ cựu của xà lách Pháp.”
“Th́ ra là vậy,” Katharine đáp.
Thật ra nàng khám phá ḿnh có vẻ lúng túng hơn bao giờ hết với khía cạnh mới này mà nàng cho rằng hơi khác thường và không đồng bộ trong tính cách nàng. Đủ những ư nghĩ trái ngược xoay vần trong đầu nàng, và cảm nhận một tư bực tức trong ḿnh, nàng im lặng bước xuống thang với chàng. Ngoài đường một chiếc xe hơi nửa mui xanh đậu sẵn đợi chờ.
“Tôi hy vọng cô không phản đối,” chàng nói nhanh. “Nancy nói với tôi rằng cô không lái xe nữa nên tôi mang nó theo cùng.”
“Của ông à?”
“Tại sao không,” chàng đáp, pha vẻ ngạc nhiên. “Tôi thuê nó.”
Mặc kệ, môi Katharine chùng lại. “Trông sang trọng đấy chớ,” nàng nói khẽ một cách châm biếm.
Vừa nói xong, nàng cảm thấy hối hận v́ lỡ lời. Nhưng chàng không để tâm, như chàng chưa hề nghe thấy.
Chiếc xe chạy thật êm, và người tài xế rất rành đường. Họ chạy ngang qua công viên St. James, vượt Victoria và đi dọc theo đường đê, cảnh sương khói mặt trời lặn vẽ lên vầng sáng vàng đầy ắp cả ḍng sông. Madden rướn người về trước, đầu trần, chiếc nón mềm kẹp giữa đầu gối, thưởng thức toàn cảnh thay đổi với sự háo hức lẫn đam mê.
“Cảnh sắc này thật là có sức thu hút chết người,” cuối cùng chàng bày tỏ. “Thật là khác xa với Cleveland. Tôi thật sự cảm thấy thích thú.
“Ông dường như cảm được, như cách ông nói, nhiều thích thú từ nhiều thứ, ông Madden.”
Chàng ngừng lại trước khi trả lời. “Vâng, tôi cho rằng tôi có hơi thô thiển đối với cô, nhưng sự thật th́, trong mười lăm năm gần đây, tôi chỉ ngụp đầu trong kinh doanh nên ít có cơ hội để thở, nói chi chú ư đến xung quanh. Khi cha tôi chết sau thế chiến, tôi có hơi vất vả một khoảng thời gian. Và khi công việc xuôi chèo, tôi cứ phải lao theo nó. Cô có biết rằng sự nghiệp của người đàn ông có sức kềm chế người đó không, Cô Lorimer, và bỏ lỡ cơ hội nh́n cảnh mặt trời lặn như thế này, à, biết nói sao nhỉ, cơ hội để gặp một cô gái như Nancy.”
“Có lẽ tôi hiểu ư ông.” Một tia loé cảm thông trong trao đổi trỗi lên trong Katharine, nhưng nàng đè nén xuống bằng cách nói thêm, “Tôi hy vọng rằng ông không bị thất vọng với những cơ hội đó vào cuối tuần này.”
“Ồ, không, tôi thích gặp gỡ mọi người. Đặc biệt là họ hàng của Nancy,” chàng nói thêm một cách lễ phép, “của cô chứ!”
Katharine mỉm cười có hơi lạnh lẽo. “Đến lúc tôi thấy là phải cảnh cáo ông. Ông có thể thấy Mẹ tôi và tôi rất tẻ nhạt. Chúng tôi thuộc ḍng trung lưu, ông Madden, lại ở vùng ngoại ô. Đừng bị hiểu lầm bởi những nét hào nhoáng trong công việc của tôi. Tôi có thể gặp gỡ nhiều vị chức sắc trong việc làm ăn lúc nọ lúc kia, nhưng đừng quên là tôi bắt đầu từ chân đánh máy vỏn vẹn với mười lăm hào một tuần. Và tôi mang theo bữa trưa đựng trong túi giấy. Tin tôi đi, tôi chẳng khác xưa tí nào.”
“Không khác?” Quay người, chàng muốn biết nàng nói thật rồi gật đầu vẻ nghiêm trọng. “À, đây là lần đầu tiên cô có vẻ cởi mở chút đỉnh.”
Nàng không thể dằn được; nàng bật cười, chỉ v́ câu trả lời của chàng động chạm đến phẩm cách của nàng. “Ít ra,” nàng nghĩ, “hắn ta có khiếu khôi hài.” Chưa hết, trong trí nàng vẫn c̣n hoài nghi. Chàng nhận ra được, với một nhận thức khác thường đập vào chàng, sau đó ít lâu, chàng lặng lẽ nói:
“Cô không biết nhiều về tôi phải không Cô Lorimer? Tôi nghĩ nó làm cô lo lắng.”
Không hiểu v́ lư do ǵ mà nàng đỏ mặt. Nàng thành thật nói: “Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không có nghĩ ǵ quá đáng. Chỉ v́ người đàn ông, người đàn ông sắp cưới Nancy làm tôi lo nghĩ.”
Một sự im ắng. Bị tổn thương bởi lời lẽ khác thường đầy hàm ư của nàng, chàng xém nữa bị cám dỗ nhưng cố đè nén, chỉ để giải thích một lần cho xong vị trí của chàng ở đây, ít ra là làm sáng tỏ những hiển nhiên mà nàng đề cập. Chàng nhận ra ngay từ đầu nàng đă hiểu lầm chàng, là một sai lầm tích lũy từ những thói quen dễ dăi, tính khiêm tốn, ăn vận cẩu thả, mà chàng thường để xảy ra, giờ đây làm cho chàng khó xử hơn là thú tiêu khiển. Chàng không thích, và luôn luôn ghét sự phô trương. Quần áo hợp thời trang, quán ăn sang trọng, khách sạn xa xỉ, một bộ xậu ràng buộc trong thói xa hoa thời thượng, chỉ làm cho chàng chán ngán. Chàng đă có lần đi xuyên Âu Châu trên tàu chở hàng bằng hơi nước và lang thang khắp lục địa với ư muốn là một du khách tầm thường, chịu nghỉ ở những nhà trọ không tiện nghi, du hành vé hạng ba để hoà đồng với mọi người, chủ tâm ăn uống chỉ với lát bánh ḿ kẹp và một ly rượu.
Có lẽ chủ nghĩa khổ hạnh này phát nguồn từ tổ tiên chàng, đặc biệt là mẹ chàng, Susan Emmet, một phụ nữ thuộc tiểu bang Vermont được ban cho một tấm ḷng vị tha như người Xpác-tơ (dân Spartan rất can đảm, anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ư thức kỷ luật cao, chiến đấu giỏi) và ư thức trách nhiệm. Cha chàng là người tiểu bang Virginia, ngay thẳng bộc trực và không có thói biếng nhác của người dân miền Nam nước Mỹ. Là một người đàn ông thanh đạm, cao khều với bộ râu xồm xoàm cùng với óc khôi hài khô khan và cặp mắt trũng sâu, Seth Madden vẫn là người buôn bán nhỏ khôn ngoan, lập ra Cleveland là nơi sản xuất và bán lẻ những mặt hàng keo dán đặc biệt nhăn hiệu Fixfast. Những thịnh vượng của nhà máy Fixfast nhỏ nhoi, mặc dù ổn định, nhưng chưa bao giờ phất cao, với cái chết của Seth vào năm 1917, khi Chris c̣n bị kẹt trong thế chiến, người thân chàng rơi vào t́nh trạng nghèo túng trầm trọng. Việc kinh doanh vẫn bấp bênh khi chàng Madden trẻ tuổi nắm quyền hành trở lại ở Cleveland sau khi giải ngũ. Chưa hết, có xu hướng đổi mới và bành trướng thêm, chàng phải tự ḿnh lăn vào làm việc.
Đó là chuyện của mười lăm năm trước. Nhiều thay đổi lớn lao đă trải qua, điều kỳ diệu tương phản giữa xưa và nay phải được nh́n thấy mới tin tưởng nổi. Madden chưa bao giờ quan trọng hoá hay khoe khoang, nhưng cử chỉ trầm lặng của chàng lại che dấu một sức chịu đựng cứng rắn. Chàng đem vào thị trường loại keo dán cao su mới có hương anh đào và khô nhanh. Thành công đến không ngờ. Việc kinh doanh phát triển nhảy vọt. Chàng bắt đầu cẩn thận mua lại những công ty nhỏ trong kỹ nghệ keo dán cùng với bằng đặc quyền chế tạo, thải hồi những cơ xưởng đă lỗi thời, vụn vặt và tập trung hết ở Cleveland. Tư bản của công ty mẹ tăng gấp đôi, gấp ba, rồi lên hàng triệu. Madden trở nên giàu có vượt quá tầm tưởng tượng của chàng. Tiền bạc không có ư nghĩa với chàng lắm nhưng chàng lại lăng phí quá nhiều cho mẹ chàng, người mà chàng rất gần. Chàng mua cho bà, vào năm 1929, một căn nhà nhỏ trong khu kiều dân nhưng đẹp đẽ ở Graysville, ngôi làng quê hương của bà ở Vermont.
Madden, tổng giám đốc của Liên đoàn Keo dán nhanh Quốc tế, là một trong những người đàn ông thành công ở Cleveland. Bản tính mộc mạc của chàng vẫn được duy tŕ cùng với tính trầm lặng và không thừa nhận sự ngắn ngủi của cuộc sống. Chàng đă ba mươi lăm và làm việc quần quật như nô lệ gần mười lăm năm. Giờ chàng ở trên đỉnh cao danh vọng, chàng cảm thấy đă tới lúc dừng lại. Mùa xuân năm trước chàng quyết định rời văn pḥng và chạy trốn sang châu Âu để nghỉ ngơi.
Điều ǵ đó loé lên trong óc chàng khi hồi tưởng lại dĩ văng lúc chàng ngồi bên cạnh Katharine, và lần nữa chàng cứ muốn thố lộ cho nàng nghe. Nhưng chàng không làm. Trước lúc chàng có thể đổi ư, họ đă tới Beechwood, một cái tên mộc mạc được bà Lorimer đặt cho ngôi nhà của ḿnh. Mặc dù đă gần năm giờ, những cành cây viền xung quanh ngôi biệt thự nhỏ như biến mất trong bóng tà. Madden cho xe ra về và khiêng hành lư của ḿnh cùng các gói hộp của Katharine, theo chân nàng trên lối ṃn giữa những bụi cây thuỷ lạp thấp rồi đi vào nhà. Họ vào tới pḥng khách, bà Lorimer ngồi lắc lư thiếu kiên nhẫn trong chiếc ghê cạnh ḷ sưởi.
“Sao mà lâu vậy!” bà nói ngay với vẻ khó chịu mạnh và không có vẻ ǵ là chào đón khách cả. “Một phút nữa, bữa trà sẽ bị lỡ cỡ!”
Bà thấp người, dáng dấp đầy đặn cho một người đàn bà bảy mươi nhỏ bé với đôi mắt cú vọ không mệt mỏi cùng óc khiêu khích. Bà mặc chiếc áo dài bằng siu đen, như thể c̣n để tang cho người chồng quá cố chín năm trước. Với mái tóc c̣n đen, bà đội một chiếc mũ sợi móc trắng, cộng với số tuổi, cách cư xử và vẻ bề ngoài nói chung – nh́n riêng, má của bà xệ v́ những túi da li ti – khiến bà phảng phất giống như vị Hoàng hậu Victoria, một khám phá mà bà lấy làm hănh diện.
Hiện tại, bà không những tự măn mà c̣n rất nghiêm khắc. Tỏ ư thấy Madden bằng một cái gật đầu miễn cưỡng, ngay tức khắc bà công kích con gái với một tràng câu hỏi liên quan đến những ǵ bà đă uỷ thác và đến sự se ḿnh của Nancy. Chỉ khi Katharine thoả măn mọi yêu sách của bà, bà liền đứng dậy và bất ngờ dẫn lối mọi người vào pḥng ăn.
Nơi có chiếc bàn ăn vuông màu gỗ dái ngựa (mahogany), một bữa ăn dư dả và đặc biệt được sắp đặt. Không phải là tiệc trà, ăn trưa, hay ăn tối mà là sự kết hợp độc đáo của ba bữa. Có bánh ḿ, cả nâu và trắng, cắt đều đặn và quệt bơ sẵn, bánh ngọt có hai loại, một cục phó mát đính cần tây, và một cái thùng bằng bạc nhỏ đựng đầy bánh quy. Chính giữa bàn, dưới chùm đèn treo, bánh pudding sữa hương hạnh nhân được bọc giấy hồng bên cạnh một đĩa pha-lê đựng món thịt hầm với mận chín. Cuối cùng là một đĩa bánh cá nướng (fish pie) nghi ngút khói đặt ngay đầu bàn cạnh Peggy, người hầu gái nhỏ xíu, và đằng sau nó là một bộ trà vương giả trong một cái khay lớn. Ngồi vào chỗ của ḿnh, bà Lorimer rót trà và cắt bánh pie. Bà lấy phần nhiều cho ḿnh, khéo léo che đậy trông như một phần nhỏ, nếm một nĩa đầy rồi lắc đầu về một bên để xem xét phê b́nh cho đến khi khuôn mặt dăn ra nhẹ nhàng chứng tỏ bà chấp thuận. Chỉ đến khi đó bà mới để ư đến Madden. Có vẻ muộn màng, nhưng sự xem xét kỹ lưỡng của bà rất sắc sảo. Và lời nhận xét của bà càng sâu sắc hơn.
“À, anh sẽ lấy cháu Nancy. Này, anh bạn trẻ, tôi báo trước cho anh là anh sẽ chật vật lắm đấy.”
Chàng điềm đạm trả lời: “Nancy và cháu sẽ ăn ư với nhau dễ dàng, thưa bà Lorimer.”
“Có thể,” bà cụ nghiêm khắc tuyên bố. “Nhưng sẽ là một cái ăn ư dài và cũng là cái ăn ư mạnh. Ơn trên giúp anh, anh bạn trẻ, nếu anh có bị trượt tay.”
Đây chỉ là phần mở đầu của một chuỗi nhận xét, tục ngữ, sách vở, và cách ngôn đều hướng thẳng về phía Madden. Bà cụ, cứng ngắc, theo chủ nghĩa đạo đức, và một người ích kỷ đến tận xương tủy, luôn cảm thấy bị đe doạ, nhưng bây giờ được hậu thuẫn bởi tách trà và phần giảng dạy cho anh trai trẻ, bà đang trong t́nh trạng quá khích và công kích không ngừng.
Katharine biết rơ mẹ ḿnh và đă quen chịu đựng những tính khí như thế này. Nàng làm ra vẻ nếm phần bánh cá nướng nặng mùi, mà ngày c̣n bé nàng lúc nào cũng ghét cay ghét đắng, nàng chăm chú quan sát Madden trong khi chàng hứng chịu trận hỏa công của mẹ nàng. Thật ra, chàng có tính trầm tĩnh cao, hay là hơi hơi - nàng nhanh chóng sửa sai – có khiếu thừa nhận hoàn mỹ của sự việc, làm nàng sửng sốt. Đành rằng đó chỉ là bộ dạng đóng kịch, chàng có thể bị thất vọng trước những luồng đa dạng và huyền bí trong cuộc tṛ chuyện cũng như phong tục với mẹ nàng . Thế nhưng diễn tiến lại xảy ra rất hào hứng. Chàng lắng nghe với dáng điệu mải mê, ăn với dáng điệu thích thú.
Khi những quả mận được tiêu thụ hết, Katharine nhận thấy Madden, cho dù chàng có mong ước hay không, đang tỏ ra chinh phục mẹ nàng. Khi họ trở lại pḥng khách, ngọn lửa đă được khơi lại và toả bóng lung linh mời mọc trên tấm thảm bằng da gấu, trên bàn ghế thời Victoria, và trên những chén dĩa sứ và đồ trang trí lặt vặt trên chiếc tủ nhiều ngăn, bà Lorimer thở dài một cách sôi nổi.
“Ngồi xuống cái ghế đó, cậu Madden,” bà chỉ. “Cậu sẽ thấy nó thoải mái. Nó thuộc về ông chồng yêu quư của tôi, và trừ cậu ra, già này không cho ai ngồi hết. Cậu có thể quan sát trong khi Katharine và già này chơi bài patience (lối đánh bài một người).”
Sự kiên nhẫn hai nghĩa này mà bà đề cập đến - một là sự nhượng bộ không mong đợi từ nguyên tắc của những không theo lề lối – và một là chiếc máy thu thanh mà bà sùng bái, nỗi đam mê lớn của bà cụ này. Bà vặn nó một cách liên hồi, không ǵ lay chuyển bà làm chuyện khác vào những khi Katharine đến thăm vào dịp cuối tuần. Madden liếc nh́n vẻ nghi vấn tới Katharine, và có lẽ chàng đọc được nét mặt nàng nên chàng thuyết phục bà:
“Con gái của bà trông có vẻ mệt mỏi, bà Lorimer. Bà có thể chơi bài với cháu chăng?”
“Hừ! Katharine lúc nào cũng mệt mỏi mỗi khi làm điều ǵ đó cho bà mẹ già yếu này!”
“Không phải, nhưng cháu cũng thích chơi bài này mà,” Madden đáp. “Để cháu cho bà biết cháu chơi rất giỏi.”
“Ồ, thật à?” bà Lorimer nói, đánh hơi có cuộc ăn thua đâu đây. “Thông minh thật! Ta thích đó! Thôi, đi ra khỏi đây đi, và ta sẽ cho anh biết thế nào là lợi hại.” Bà liếc nh́n đồng hồ. “Chúng có độ nửa giờ. Có một vở tuồng hay trên đài lúc tám giờ - Viên Ngọc Trai Đen. Chúng ta phải nghe mới được!”
Họ ngồi xuống chơi bài tại chiếc bàn bọc vải len tuyết dài trước ḷ sưởi trong khi Katharine, mừng v́ được nghỉ ngơi, thả người xuống chiếc ghế sofa và quan sát với vẻ hưng phấn. Kinh nghiệm cho nàng biết sẽ có phiền toái thật sự xảy ra trừ khi con người Madden mang nặng tính tiêu cực.
Bà Lorimer bắt đầu chơi bài êm đẹp. Bà được phần kinh bài và được chia những lá bài ngon, bà đeo kính vào và gói hạnh nhân tẩm đường được đặt bên cạnh. Bà đi một nước bài hay rồi ngồi chờ thoả măn trong khi Madden chỉ bỏ xuống một vài lá bài, rồi thua. Bà Lorimer tập hợp được nhiều lá bài tốt và đi một nước bài dài nữa, và may mắn đến với bà hoài. Sau đó, không thể ngờ được, vận may đổi chủ, và Madden, chơi một cách tự tin, bắt đầu một chuỗi nước bài tốt đặt chàng vào thế dẫn đầu.
Tại thời điểm này, Katharine như đoán trước được mẹ nàng sẽ ăn gian. Bà cụ có một nhược điểm vô cùng tệ. Bà không bao giờ chịu thua. Không bao giờ, không bao giờ. Bằng mọi giá và mọi thủ đoạn, bà phải thắng. Lương tâm của bà không là ǵ hết, sự thật phũ phàng là bà phải ăn gian một cách trắng trợn và không khoan dung c̣n hơn là chịu đựng nỗi nhục bị đánh bại.
Madden, dĩ nhiên là nh́n thấy bà ăn gian ngay lập tức, và Katharine với cặp mắt đen chiếu vào các tay chơi, chờ đợi phút giây kết cục. Nếu chàng phản đối, sẽ có một tấn tuồng xảy ra; nếu chàng không nói ǵ, chàng sẽ là kẻ bịp bợm. Nhưng Madden, dường như lèo lái theo một hướng khác. Với một vẻ mặt trang nghiêm, chàng bắt đầu giúp bà cụ ăn gian, đầu tiên rất tế nhị, rồi sau đó tăng dần có chủ ư, đưa cho bà những lá bài tốt thay v́ xấu, giả vờ thua khi tới lượt của ḿnh, và khuyến khích bà chơi tiếp tiếp cho đến khi bà là tay cự phách, tay cự phách gian lận. Thoạt đầu, cụ bà Lorimer cười khúc khích và nhận quà cúng biếu mà thần phật ban cho, nhưng dần dần nét mặt bà thay đổi. Bà ném một hay hai cái nh́n ngờ vực vào chàng, rồi bất th́nh ĺnh chỉ cần con Ách để thắng, bà do dự, dao động và đỏ mặt v́ thẹn.
“Tại sao cậu lại nh́n tôi như vậy?” Bà nóng nảy càu nhàu.
“Trời, bà Lorimer,” chàng trả lời từ tốn. “Cháu chỉ ngưỡng mộ cách chơi bài của bà. Cháu đă từng đi nhiều nơi trong đất Mỹ và cả châu Âu và các nước c̣n lại, cháu chưa bao giờ thấy ai chơi bài như bà hết.”
“Nói cái ǵ!” bà thốt lời bực bội.
“Không có ǵ, thưa bà.” Giọng chàng chuyển sang lối nói lè nhè của người miền Nam nước Mỹ. “Thật là một tay chơi bài không thể thất bại được mà cháu chưa hề thấy từ khi cháu sinh ra.”
Đôi mắt sáng của bà cụ dường như muốn nổ tung khỏi đầu. Bà hít một hơi dài có tính cách gây gổ và đứng thẳng dậy, sẵn sàng để tiêu huỷ chàng. Và rồi, ngay liền đó, bà bắt đầu cười to. Bà cười thật to một cách thoải mái, làm tung toé những lá bài, tán loạn những hạt hạnh nhân; Katharine chưa bao giờ thấy mẹ ḿnh cười như thế.
“Ôi trời, ôi trời,” cuối cùng th́ bà cũng thở hổn hển được. “Buồn cười quá đi thôi. Tay chơi bài xuất sắc nhất – con có nghe cậu ta nói không, Katharine? - kể từ khi cậu ấy sinh ra.”
“Th́ đúng rồi, thưa bà,” chàng tiếp tục. “Cháu chắc là...”
Người nghiêng ngả v́ cười nhưng không cưỡng được, nước mắt hớn hở lăn dài xuống má, bà ngăn chàng lại bằng một cái vẫy tay nhẹ. “Đừng,” bà thở kḥ khè, “cậu làm tôi chết mất. Cậu trai trẻ thân mến ơi, thật là buồn cười. Tay chơi bài xuất sắc nhất, và ta đă chơi ăn gian cậu năy giờ.”
Quả thật đó là một chuyện đùa hay, có lẽ là hay nhất được nghe trong căn pḥng nhỏ bé ngột ngạt này. Khi mọi việc đă ngừng, bà cụ lấy lại phong độ như cũ.
“Lạy chúa tôi!” bà la lên, chùi mắt và bất thần nh́n ngang qua phía đồng hồ. “Chúng ta không thể lỡ buổi nghe kịch được!” Với vẻ nhanh nhẹn không ai tưởng nổi, bà đi tới chỗ chiếc máy thu thanh và bật đài lên.
Một vài giây do dự rồi cái dụng cụ có sức sống thâm nhập. Đúng lúc, vở kịch đă bắt đầu. Một cô gái đang nói chuyện.
Madden nh́n qua Katharine bất th́nh ĺnh chỉ để thấy Katharine đang nh́n chàng chằm chằm. Trong một khắc, đôi mắt bà Lorimer mở lớn, ném vào người này rồi day qua người kia. Cô gái vẫn tiếp tục nói chuyện.
“Không thể nào!” Madden chợt nói.
Không! Chắc chắn là không thể nào. Nancy đang nằm trên giường với cơn sốt. Nancy chẳng nói một lời nào về việc này cả. Nancy đang bị bịnh, không thể nào ngồi dậy được.
“À, ta nói chắc chắn mà.” bà cụ kêu lên với sự kinh ngạc tột độ.
“Nhất định là có sự lầm lẫn ở đây,” Katharine nói với giọng hoang mang ngơ ngác.
Không có sự lầm lần nào hết. Giọng nói rơ ràng trong máy là giọng của Nancy.

Chương 3

Cả ngày hôm đó, Nancy nằm hoài trên giường, đầu nàng nhức như búa bổ, tay chân uể oải bởi cơn cảm cúm. Nàng ghét phải bị bỏ xó và càng làm nàng thêm bồn chồn. Mặc dù nàng không quan tâm lắm đến vở Moonshine in Arcady v́ vở kịch vẫn c̣n xa ngày tŕnh diễn và không có buổi diễn tập nào vào cuối tuần, tự nhiên nàng thấy bực tức khi bị t́nh huống này xen vào cuộc sống nhỏ bé đă định sẵn của nàng. Thật ra Nancy có một lớp vỏ ngụy trang cho tính ích kỷ hơi phiền toái của nàng mà thỉnh thoảng đưa đến sự hờn dỗi khi nàng không được như ư muốn. Mặc kệ những lời phân trần của Katharine với mọi người, sự chiều chuộng cô cháu quá mức của nàng làm Nancy hư hỏng phần nào. Nàng hay cho nhiều chuyện xảy ra là lẽ đương nhiên. Một người nào đó, dựa vào đặc tính này của Nancy, bảo nàng cần phải trưởng thành hơn.
Tuy nhiên, hôm nay, nàng có thể phản kháng là thái độ của nàng không có ǵ để chỉ trích hết. Nàng uống thuốc đều đặn cứ cách bốn tiếng một và tuân thủ kiêng cữ, chỉ húp nước cháo nóng mà bà Baxter hầu pḥng chuẩn bị sẵn. Khoảng trưa trưa, độn những cái gối đầu cao lên, nàng tranh thủ viết vài lá thư đă bị lăng quên. Xong việc này, nàng thả hồn nghĩ đến Madden cho đến lúc ngủ thiếp đi khoảng một tiếng. Sau đó, nàng với lấy một quyển sách ở đầu giường để giải khuây.
Quyển sách Nancy t́nh cờ có trong tay, cho bất kỳ kẻ bệnh hoạn chán chường nào muốn giải khuây, ít nhất cũng phải là cuốn truyện trinh thám sôi động hay tiểu thuyết t́nh cảm nhẹ nhàng. Hoá ra lại là tuyển ca kịch của Shakespear. Tủ sách kế cận lại càng rạch ṛi. Đầy những tác phẩm ca kịch, ít nhất là những vở được xem là cổ điển như: Marlowe, Congreve, Ibsen, Molière, Sheridan, Shaw – có đủ cả. Để thêm phần phong phú, nhiều quyển là tiểu sử của các nhân vật trong giới kịch nghệ. Đúng là một thư viện trứ danh cho một cô diễn viên trẻ tuổi nhẹ dạ của nền kịch trường hiện đại.
Một ṿng đảo quanh pḥng ngủ của Nancy có lẽ sẽ tạo nên một trạng huống khó xử hơn. Hoàn toàn không có một thứ vật dụng cần thiết nào. Không có điện thoại ḷe lẹt hay những con búp bê xí xọn. Căn pḥng hoàn toàn giống như chổ ở của một nhà tu khổ hạnh với chế độ khắc khổ. Chỉ có hai bức ảnh dựng trên tủ đựng quần áo - một của Madden và một của Katharine - trong khi trên tường, được sơn màu trắng đơn giản, chỉ treo duy nhất một tấm tranh lớn và tuyệt đẹp của Eleonora Duse nổi tiếng. Tấm chân dung này là của một trong những diễn viên xuất sắc thế giới, không nghi ngờ là một mấu khúc để giải đáp câu đố rắc rối về căn pḥng của Nancy và cả điều bí ẩn trong con người nàng.
Tận đáy ḷng, Nancy mê kịch nghệ ghê gớm. Không chỉ là nỗi đam mê sân khấu thông thường, mà là một nỗi cuồng nhiệt đắm say hầu diễn tả cái muôn màu muôn vẻ sống động của nghệ thuật kịch câm. Tự thuở nào nàng có cái đam mê ấy, nàng không rơ, có thể từ vị tiền bối nào đó phía người cha-sống-vui-vẻ-theo-ư-muốn của nàng đă di truyền lại cái tính thiết tha trong ḍng máu nàng. Bằng chứng rơ ràng là thời thơ ấu của nàng.
Không may cho Nancy và cả tính nhiệt t́nh của ḿnh, nàng không thể làm được việc ǵ đáng ghi nhớ nếu thiếu cái nghi thức trang trọng. Một vài người bạn thân của nàng nhận ra tham vọng của nàng và sự hăng say tột độ nàng vận dụng trong quá tŕnh học tập kịch nghệ, cho dù họ tin rằng nàng sẽ thành công hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng người quan trọng nhất, ví như Katharine, và bây giờ là Madden, chỉ c̣n biết mỉm cười trước sự say mê không cưỡng được của Nancy. Họ không thể nào hoặc sẽ không tin nàng hoàn toàn được.
Về chuyện này, coi như Nancy tự đổ lỗi cho ḿnh. Nàng c̣n quá trẻ cùng với những sự không chín chắn cũng như tính háo thắng của lứa tuổi mới lớn. Tính khí của nàng, những lúc nàng biểu lộ thói hờn dỗi và tính đồng bóng thất thường, chúng không khiến nàng thiên về những lư tưởng của ḿnh. Nàng cũng có thói quen nói năng khiếm nhă và trong những cuộc đàm thoại nàng thường dùng những từ ngữ lóng, có vẻ tầm thường, để tượng trưng cho một xu hướng hiện thời. Nàng, nói một cách đơn giản, là con người phức tạp nhỏ nhắn, như một cái xích đu, lúc cao lúc thấp, và thật khó mà biết được nàng sẽ thật sự dừng lại ở vị trí nào.
Chỉ qua một vài nhận xét trong tính cách Nancy, nếu chúng được trưng bày ra cho nàng, có lẽ sẽ làm nàng lúng túng hết, chỉ v́ nàng rất nhạy cảm và ngay thật. Tuy nhiên, chưa một ai dám nói cho nàng biết những điều đó. V́ nàng sẽ không đích thân theo đuổi cuộc kiểm chứng để hoàn thiện ḿnh hơn. Nàng quá bận rộn với nhạc kịch Shakespear của ḿnh, đắm ch́m vào, với tất cả sự hăng say vốn có, học hỏi kịch phẩm King Lear. Nàng tưởng tượng ra ḿnh trước hết là Goneril, rồi sau đó là Regan và cuối cùng là một Cordelia thanh mảnh.
Cuối cùng nàng đọc xong, Nancy đặt cuốn sách xuống. Nàng cảm thấy mệt. Thời gian trôi qua. Buổi trưa đă thành buổi chiều tối. Người dọn dẹp hằng ngày cho nàng cũng đă đi về, hứa là sẽ trở lại vào lúc tối để xem nàng có cần ǵ thêm chăng. Nancy thiếp đi một chút, nàng lại mơ màng thấy Madden, nhấc nàng ra khỏi trạng thái phiền muộn này bằng một tương lai sáng lạng. Rồi cuối cùng, cắt ngang ḍng tư tưởng lơ đăng của nàng, tiếng chuông điện thoại reo lên.
Nancy nhấc lấy ống nghe, và nhận ra giọng của John Herries trước khi anh ta tự giới thiệu ḿnh. Nàng có một khả năng nhận giọng rất hay. Và Herries, từ giọng của ḿnh, lộ vẻ nhẹ nhơm khi gặp được nàng.
“Nancy nè,” anh ta nói có vẻ hấp tấp, “Tôi mừng hết biết khi gọi được cho cô. Vâng, tôi đang ở đài B.B.C. Tôi đang ở trong trường hợp thiệt là rắc rối. Cô biết không, chúng tôi phải phát thanh vở Viên Ngọc Trai Đen tối nay. Đây là một vở rất quan trọng, vào lúc tám giờ, thời điểm cao và tất cả. À, nghe nè Nancy. Sylvia Burke làm hại tôi rồi. Cô ấy bị bịnh. Nghĩ mà tức. Tôi chỉ được biết trước có bốn tiếng thôi. Đó lại tại sao tôi muốn gặp cô đó, Nancy. Tôi muốn cô nhận lấy phần này. Nhanh nhanh tới đây nhé, cô bé ngoan. Chúng ta sẽ ôn sơ lược kịch bản với nhau.”
“Nhưng, John,” Nancy phản đối, “Tôi - tôi không biết là tôi có thể tới được!”
“Chuyện ǵ thế! Cô có c̣n minh mẫn không! Cô không biết rằng đây là cơ hội tốt sao? Thay thế và đại diện cho Sylvia Burke. Có đến khoảng triệu thính giả lắng nghe đó.”
Nancy vội lấy tay run run sờ lên trán nóng hổi của ḿnh. Những ǵ Herries nói là đúng. Sylvia Burke có lẽ là nữ diễn viên hài đắt giá nhất lúc này. Thật là một cơ hội hiếm có cho nàng để gây dựng tiếng tăm cho ḿnh, để tŕnh làng tên tuổi nàng trước một số lượng thính giả có thể sẽ làm nàng trở thành ngôi sao đắt giá.
“Có chuyện ǵ không ổn với Sylvia vậy?” nàng thừa cơ hội hỏi một cách yếu ớt.
“Bị cảm lạnh,” Herries nói giật giọng. “Nhiệt độ lên khoảng một trăm độ. Họ nhất định không để cô ấy đi đâu hết.”
Vào thời điểm nào khác, có lẽ Nancy sẽ cười ngất.
“Cô không lo ngại ǵ về kịch bản chứ Nancy?” Herries dai dẳng nói. “Chỉ có việc là đọc nó thông suốt thôi.”
“Không, không, tôi không có lo lắng ǵ về kịch bản hết,” Nancy trả lời, với lấy cây đo nhiệt kế ở cạnh giường. “Xin chờ cho một chút ạ.”
Nàng bỏ nhanh cây nhiệt kế vào dưới lưỡi và đợi chờ trong sáu mươi giây đau khổ. Rồi nàng ngó nhanh. Chỉ số cho nàng thấy là một trăm lẻ một độ. Tim nàng đập đều đều chán chường. Nàng không thể đi đâu được. Không thể nào có chuyện đó xảy ra. Nàng không thể làm liều được. Điều đó thật là điên rồ.
“Sao hả,” Herries cắt ngang như thể cáu tiết lắm. “Tôi phải chờ đây cả đêm sao Nancy? Có chuyện ǵ xảy ra với cô hả Nancy? Tôi tưởng là cô có cái đầu rất nhạy bén mà? Cô có đến hay là không th́ bảo?”
Môi Nancy mở lớn như muốn nói: “Không”, nhưng rồi nàng liếc nh́n tới tấm tranh chân dung của Duse treo trên tường, như một nguồn cảm hứng, ngay trước mặt của nàng. Duse, thần tượng của nàng, Duse vĩ đại, người có lần đă thà chịu mang tiếng điên rồ thật thương cảm c̣n hơn là làm cho công chúng thất vọng. Có cái ǵ đó nhảy chặn trong cổ họng Nancy, một sự khích lệ, một làn sóng can đảm dấy lên.
“Dĩ nhiên là tôi sẽ đến, John,” nàng bất chợt nghe ḿnh nói thế. “Tôi không được khoẻ lắm như tôi nghĩ. Nhưng tôi sẽ lại ngay trong ṿng nửa tiếng.”
Nàng đặt ống nghe xuống trước sự cảm ơn vô vàn của anh ta. Nàng thật sự hơi cuồng trí. Nàng có thể sẽ cảm nặng hơn, mắc thêm nhiều triệu chứng có trời biết nếu nàng đi ra khỏi nhà tối hôm nay. Katharine sẽ rất là bực ḿnh với nàng, và cả Chris nữa, chẳng là nàng đă nói với chàng là nàng quá mệt nên không thể đi Wimbledon với chàng đó thay? Một cú đánh như thức tỉnh nàng, nhưng tắt đi nhanh chóng. Chris yêu nàng. Chàng sẽ không giận nàng. Chàng rồi sẽ hiểu nàng.
Tập trung tất cả những yếu tố lợi hại, Nancy bật dậy. Nàng cảm thấy bủn rủn, nhưng nàng cố hết sức để thay quần áo. Nàng mặc những đồ dày nhất, luôn cả áo khoác lông, sau vài giây suy nghĩ, nàng quấn thêm khăn phu-la dày quanh cổ. Nàng uống một liều thuốc mạnh và gọi điện kêu tắc–xi. Đứng lặng nh́n ly nước, nàng lắc đầu nhè nhẹ, làm một cử chỉ hơi cường điệu rồi thuận tay tắt đèn đi ra.

Chương 4

Tám năm trước, anh gặp Katharine Lorimer tại một Dạ hội từ thiện, và với câu sáo ngữ quen thuộc, anh đă thật sự điếng người sửng sốt. Anh cầu hôn nàng ngay tuần sau, kể từ đó anh tiếp tục những khoảnh khắc ép buộc Katharine để cầu hôn và anh lại đau khổ khi bị từ chối. Giữa những giai đoạn đó, dĩ nhiên, Charley t́m lăng quên trong êm ái với những cô gái khác, nhưng cũng có lúc có những đoạn đời trống rỗng mà Charley không hề dấu giếm. Trong những cuộc t́nh đó, sự tận tâm của anh với Katharine nở rộ như một bông hoa tươi thắm trong một vườn hoa tiêu điều. T́nh cảm của Charley có một tính chuyên nhất và anh vẫn có một hy vọng háo hức rằng ngày nào đó sẽ thành công, và điều không thể nào không hận nàng làm cho anh đau khổ.
Dạo sau này, thật ra Katharine có một cảm giác sợ hăi chính ḿnh. Nàng không yêu Charley, và nàng chắc chắn bác bỏ cái ư nghĩ lập gia đ́nh khi bắt đầu sự nghiệp. Tận trong trí óc của ḿnh, nàng ghi nhận sự chiều chuộng của anh đối với nàng, hợp cùng với sự kiên tŕ theo đuổi nàng rất mực, mong rằng ngày nào đó nàng biểu lộ sự mềm ḷng - một lời kêu gọi giúp đỡ, có thể, đánh đ̣n tâm lư một cách tinh tế hơn để dễ xảy ra, rằng nàng sẽ đoái hoài đến anh, dù chỉ trong tiềm thức, như là một lá chắn cho những nhu cầu gây ưu phiền trong đời nàng. Rằng nàng, Katharine Lorimer, người đă nghiêm túc đúc nặn sự nghiệp cho ḿnh, phải nhận ra sự cần thiết ấu trĩ và vô lư rằng địa vị thống trị của người đàn ông ngay trong cả tâm tư của người cấp dưới nàng, và có thể, không hơn ǵ là một cơn ác mộng bực ḿnh. Nhưng nàng cũng có những phút giây bối rối, nhất là những lúc Charley ngồi cạnh nàng, hay cầm lấy tay nàng. Chúng thường khiến nàng cau đôi lông mày xuống khi nàng nh́n anh, có vẻ hơi cấm đoán anh. Và cũng với t́nh huống tương tự, như nàng quan sát anh bây giờ.
“Anh chưa hề giải thích,” nàng tuyên bố, “là nghĩa lư ǵ, đến quấy rầy tôi vào giấc này.”
“Đây là thời điểm tốt trong ngày. Tôi đến để đưa em đi ăn trưa.”
Nàng tỏ cử chỉ không thích với cái lắc đầu. “Tôi rất bận.”
“Em lúc nàng cũng bận rộn, Katharine. Nhưng em sẽ đi.”
“Không, tôi không đi đâu hết.”
“Ồ, đúng thế, em sẽ đi. Tôi đă đặt chỗ trước ở nhà hàng Embassy.”
“Này, nghe đây, Charley,” nàng nghiêm nghị phản đối. “Tôi đă nói với anh rồi là tôi có việc phải làm. Làm sao anh có thể cho rằng tôi kiếm sống lương thiện cách nào nếu anh cứ đến quấy rầy tôi như thế này?”
Anh cười to dễ dăi. “Em không cần phải kiếm sống lương thiện. Em là người phụ nữ thành công nhất trong cả khu vực phía Tây của London này. Em có trên tất cả các báo với cái tượng Holbein.”
“Có đúng là tôi được đăng trên tờ Sunday Searchlight!”
“Chưa có, nhưng rồi sẽ có. Trở lại vấn đề này, tôi đă đặt bữa trưa rồi.”
“Anh đă đặt những món ǵ?”
“Đến phút này th́ tôi nhất định phải biết em thích ăn ǵ vào bữa trưa. Thật đúng là một phụ nữ đúng nghĩa, xà lách kiểu Florida, báng phồng nhân phó mát.
Nàng không thể chịu đựng được nữa. Mặc dù môi nàng sắp cong lên nhưng vẻ mặt cau có dịu đi. Nàng nhảy dựng lên một cách thân thiện. “Tôi sẽ đi,” nàng tuyên bố, “nhưng tôi phải trở lại làm việc tại cái bàn này trong ṿng một tiếng. Hiểu ư tôi chứ. Đúng hai giờ trưa! Tôi chỉ đi ăn trưa v́ cái bánh phồng, không phải v́ anh đâu nhé!”
Charley lần nữa lại cười lớn, ngắm nàng đội mũ vào và khoác cái áo choàng ngắn bằng lông thú lên vai.
“Thế nào em cũng đi mà!” Anh nối gót theo nàng xuống lầu rồi nói thêm: “Tiện thể, sau mục bánh phồng nhân phó mát, Katharine, tôi có điều muốn hỏi em. Em biết không, lại tới lúc tôi ngỏ lời cầu hôn em lần nữa rồi.”


Chương 5

Vào thứ Bảy, ngày cuối cùng của tháng Mười Một, Nancy đi Manchester với đoàn diễn viên của vở Moonlight in Arcady, và Madden tháp tùng với đoàn như đă định sẵn. Vở kịch sẽ được tŕnh diễn vào ngày thứ Hai sau đó tại Nhà Hát Hoàng Gia, và v́ bất cứ vở kịch nào của Chesham cũng lên báo trang nhất, họ có một buổi tiễn biệt long trọng tại St. Pancras. Nancy ở trong trạng thái vui vẻ nhất. Nàng có đầy lẵng tay những hoa là hoa, lại đứng ở vị trí chính giữa trong hai kiểu chụp nhóm, và một tấm khác với chính David Chesham. Katharine, lường trước được sự phô trương với công chúng của Nancy, đă dàn xếp với các đại lư về việc này.
Về phần Madden, nàng phải công nhận rằng, chàng rất chững chạc, giữ khoảng cách vừa phải, và chú trọng tới Nancy với phong cách kín đáo thực thụ chỉ có ở chàng. Katharine chỉ có th́ giờ nói vài lời với chàng trước khi đoàn tàu chuyển bánh, chỉ là lời nhắc nhở tượng trưng là chàng chăm sóc Nancy chu đáo, rồi nàng trở về nhà với cảm giác mến chàng hơn bao giờ.
Sáng thứ Ba, nàng lật báo một cách háo hức. Như đă dự đoán, không có tin tức ǵ nhiều ở các báo London, mặc dù nhiều đoạn có nhắc đến vở kịch mới. Chỉ có tờ nhật báo Manchester có một cột dài, nhưng chỉ nói chung chung với vẻ tán dương ca ngợi khách sáo. Với nhịp đập kiêu hănh Katharine lướt qua một thông cáo tán tụng tài tŕnh diễn của Nancy. Chính Katharine đă xem Nancy tŕnh diễn trong hết các vở kịch từ trước đến giờ nên không nghi ngờ ǵ về tài năng của nàng. Nàng thật sự tài hoa. Theo như sự phác hoạ của người phụ nữ trẻ hiện đại mà nàng là một, rằng nàng có thể tŕnh diễn mà không cần phải có sự tận lực sáng tạo, sự mệt nhọc và tuổi trẻ không biết mệt cho các cảnh đương thời, bao gồm luôn độ chính xác và mỉa mai để trở thành không chỉ là một chân dung tượng h́nh mà c̣n là một nét trào phúng.
Với tất cả những niềm kiêu hănh và sự thích thú đích thực cho sự tiến bộ không ngừng của Nancy trên sàn diễn, Katharine vẫn có một thái độ mang vẻ gia ân cho nàng. Nàng không thật sự xem nó quan trọng khi Nancy, với sự xúc cảm mănh liệt thật ḷng, bảo rằng nàng sẽ cống hiến sự nghiệp và cuộc đời vào kịch nghệ. Kịch nghệ, Katharine cười thầm, chỉ là một cái ǵ đó to lớn nhưng không chắc chắn, trong khi Nancy lại mỏng manh và xinh đẹp, ở vị trí sẵn sàng hiến dâng cho hạnh phúc, rằng sự tương quan giữa hai điều đó đều phi lư. Hơn nữa, điều này không ngăn cản Katharine vui với thành công hiện tại của Nancy. Nàng hy vọng vở kịch này sẽ được tŕnh chiếu dài dài cho đến khi tới khu West End này. Ít ra, nàng ngẫm nghĩ, t́nh huống Madden có lẽ sẽ có thời gian để tự giải quyết phần nào.
Trong hai ngày kế tiếp, Katharine bận rộn với sự chuẩn bị cho chuyến đi, nàng bù đầu với nhiều công việc quan trọng khác hơn là chú tâm vào vở kịch. Nhưng vào thứ Sáu, nàng chợt có một sự nhắc nhở không ngờ nổi. Khoảng trưa trưa điện thoại chợt reo vang, giọng của Madden đập vào tai nàng.
“Ông vẫn c̣n ở miền bắc chứ?” nàng hỏi gặng chàng khi sự ngạc nhiên đột ngột lúc đầu lắng xuống.
“Không,” chàng trả lời. “Tôi đang ở trong một khách sạn tại đây. Tôi phải trở lại London ngày hôm qua. Công việc khẩn cấp. Thật là khó khăn khi dứt ra, nhưng tôi phải trở về.”
“Vở kịch như thế nào rồi?”
“Ồ, rất hay, tuyệt vời,” chàng đáp, có lẽ hơi quá nhanh. “Nancy thật là xuất sắc. Tôi muốn kể cho cô nghe tất cả. Thế nào, Cô Lorimer, cô đi ăn trưa với tôi chứ?”
Katharine suy nghĩ. Nàng không có các cuộc họp nào. Nhưng nàng lại không muốn chịu ơn Madden. Nàng nói:
“Không. Ông đi ăn trưa với tôi.”
“Được thôi.” Chàng nhận lời không ngần ngại. “Cô đón tôi ở đây. Chúng ta chỉ đi tới chỗ nào có vẻ yên tĩnh. Tôi đề nghị chúng ta tới một trong những quán ăn rẻ tiền trên phố Fleet Street mà tôi được nghe nhắc đến nhiều lần.”
Khoảng một tiếng sau, Katharine tán thành với lời yêu cầu của chàng, ngồi đối diện với Madden trong một ngăn chỗ nhỏ của Cheshire Cheese, bị bao bọc bởi những tiếng lăng xăng niềm nở đón chào khách và lắng nghe chàng kể chuyện về chuyến đi tới miền bắc. Chàng nói rất ấm cúng. Ngày mở màn khai diễn thành công tốt đẹp, họ tŕnh diễn cho những nhà khá giả, và Nancy đặc biệt tuyệt vời.
C̣n Katharine, lắng nghe không một lời phê b́nh, đôi mắt nàng dán chặt trên khuôn mặt ngăm ngăm đen cứ lắc lư, đọc được sự do dự của chàng giữa những lời nói và sự phủ nhận con người ḿnh thật sự ra sao.
“Họ đang thắt chặt một vài cảnh lại,” chàng kết luận. “Và thay đổi đoạn cuối của màn hai. Cần phải củng cố nhiều khi tŕnh diễn ở đây.”
“Ông không nghĩ tốt cho nó lắm,” Katharine đáp thẳng thừng.
“À, không,” chàng công nhận một cách thật thà. “Vở kịch đó chẳng xứng với Nancy chút nào!”
Mặc dù chàng không biết nhiều và Katharine không ra dấu hiệu ǵ hết, nhưng đó là câu trả lời trung thực mà chàng có thể nói ra. Cách nói chuyện một cách ngay thẳng đơn giản như thế, nó đâm thẳng vào tim Katharine và đập tan đi thành kiến cuối cùng của nàng dành cho chàng. Nàng quyết định ngay giây phút đó nàng có thể mến Madden và có thể chấp nhận chàng không điều kiện.
“Anh yêu Nancy nhiều lắm, có phải không?” nàng hỏi.
“Tôi thật sự yêu nàng, Cô Lorimer,” chàng trả lời một cách vững tin. “Đó là tại sao tôi muốn nói chuyện với cô hôm nay.”
Có một sự ngưng đọng, rồi nàng nói, bẻ vụn mẩu bánh ḿ thành những mảnh vụn nhỏ xíu: “Tôi dám nói rằng anh thấy tôi rất là khó chịu, tôi có thể nói luôn là hay nghi ngờ. Nhưng không sao, tôi rất thương Nancy – thương nàng vô vàn. Nàng là tất cả mọi thứ trên thế gian này đối với tôi.” Nàng ngẩng mặt lên rất nhanh, gần như có vẻ biện hộ, một màu tái nhạt trên má của nàng. “Xin lỗi v́ tôi quá xúc động và cổ hủ, nhưng tôi chỉ muốn giải thích thái độ của tôi. Tôi rất muốn Nancy được hạnh phúc, và mặc kệ những lời nhạo báng giễu cợt khó chịu thời nay tôi biết chỉ có một điều làm nàng hạnh phúc là lấy được một người chồng đúng nghĩa, một người thương yêu nàng, một người sẽ đưa nàng xa rời cái sự nghiệp sân khấu vớ vẩn này và cho nàng một mái nhà ấm cúng và – ôi trời, ôi trời,” nàng đột nhiên ngừng lại một cách tự giác, “tôi lại lảm nhảm rồi. Tôi không thể dừng được. Có lỗi thời hay không, đó chính là những ǵ tôi cảm nhận cho Nancy.”
“Tin tôi đi,” chàng đáp lại rất chân thành, “đó cũng chính là những lời tôi muốn nói với cô. Vâng, tôi rất vui mừng khi biết cô có những t́nh cảm như vậy, v́ đó cũng chính là những t́nh cảm tôi có. Nancy là một cô diễn viên nhí tuyệt vời, nhưng – à, tôi thật là không thích nàng lăng phí thời gian với những vở kịch ngớ ngẩn như vậy và làm những tṛ phô trương như cái lần ở đài B.B.C. Nếu tôi nghĩ không lầm, chỉ có tốn thời gian thôi chứ chẳng ích ǵ. Ồ, tôi biết nàng rất muốn đóng các vở của Shakespear. Chẳng phải đó là điều các cô diễn viên trẻ đều muốn ư? Nói cho cùng, khi nàng lấy tôi, mặc dù tôi biết tôi chẳng phải là một Romeo, tôi thà nàng là một Juliet của tôi.”
Nàng mỉm cười, tới phiên nàng nói câu tóm tắt mà nàng cố gắng diễn đạt. “Thế là chúng ta hiểu nhau rồi. Chúng ta là bạn nhé. Và anh cứ việc tính tới với Nancy.”
“Thật là một nhẹ nhơm cho tôi, Cô Lorimer. Và trong lúc chúng ta thảo luận như thế này, nếu cô không phản đối, tôi nghĩ tôi có thể gọi cô là Katharine.”
“Anh cứ tự nhiên tuỳ ư. Miễn là đừng có đổ thừa tôi là bà đứng tuổi đi kèm trông nom các cô gái trẻ.”
“Nếu cô là một bà như thế,” chàng kéo dài giọng, “tôi nghĩ cô là một người tử tế nhất mà tôi từng gặp.”
Cả hai đều cười, và sự căng thẳng nảy sinh vô t́nh trong những ngày vừa qua được giải toả. Một sự im lặng tiếp nối. Madden, chợt nhận ra vấn đề khó khăn đă được nói ra vừa đủ, không có ư ǵ để nói tiếp. Thay vào đó, chàng nh́n quanh căn pḥng cũ kỹ, trên những bức tường thời gian làm nhạt màu có treo những di tích của quá khứ xa xưa.
“Tôi lúc nào cũng muốn tới đây,” chàng nhận xét. “Tôi cho rằng có hơi tầm thường và Mỹ hoá với cô. Nhưng đó là sự thật. Nó luôn tạo cho tôi những ấn tượng mạnh rằng tôi đă ăn trưa tại Cheshire Cheese.”
“Thức ăn ngon mà,” nàng đồng ư.
Chàng mỉm cười. “Ồ, cô biết không phải cái đó mà, Cô Lorimer – à, xin lỗi, ư tôi là Katharine. Dĩ nhiên là cái bánh nướng này ngon tuyệt; nhưng tôi đang nghĩ tới Dr. Johnson và Boswell và Goldsmith. Bằng cách nào họ đến đây và nói chuyện và viết lách và uống bia dưới những mái nhà kiến trúc cũ kỹ như thế này. Và không có ǵ thay đổi hết. Những anh hầu bàn vẫn chạy lăng xăng chung quanh trong cái tạp dề và nói oang oang qua cái cửa sập như thể có những chuyến xe ngựa chở khách đến. Ồ, tôi dám chắc rằng những thứ nguyên thuỷ như thế - ngây thơ trong trắng, tôi nghĩ cô gọi như thế - nhưng tôi lại yêu thích những thứ cũ kỹ, và tôi chắc tôi sẽ chẳng bao giờ có đủ chúng.”
Sự hứng thú của chàng thật dễ lan truyền. Nàng nói:
“Có rất nhiều thứ để ngắm ở London nếu anh có nhă ư.”
Chàng gật đầu và nhón lấy một nhánh cần tây từ dĩa pha-lê cổ đặt trên tấm khăn trải bàn ca-rô. “Vâng, tôi biết. Tôi quá bận với Nancy nên không có mấy cơ hội. Tôi không nghĩ nàng sẽ tháp tùng theo tôi đi tới các viện bảo tàng.” Chàng mỉm cười lần nữa, và trở nên nghiêm trang. “Nhưng tôi nghĩ tôi sẽ đi ḷng ṿng trưa nay. Có rất nhiều thứ tôi muốn xem ngay tại thành phố nếu tôi có thể t́m ra.”
Chàng quá là thật ḷng với ư định của ḿnh khiến cho tim Katharine cảm chàng thêm. Nàng tự nhủ rằng chàng có thể sẽ không quen biết một ai tại London này ngoài nàng, và nàng thoáng tưởng tượng ra cảnh chàng phải hỏi thăm chỉ đường từ những viên cảnh sát và bị lạc c̣n hơn là nằm dài một cách chán nản thất vọng trong pḥng pha lẫn ảm đảm của khách sạn Inns of Court. Nàng kêu lên trong cơn bốc đồng:
“Giả sử tôi có thể dẫn anh đi đâu đó. Tôi phải biết nhiều thứ ở đây hơn các người khác.”
Mặt chàng sáng lên với một vẻ thật là quyến rũ. “Ồ, thật thế ư? Nhưng cô có thể chán. Và cô c̣n có nhiều việc để làm.”
“Tôi nghĩ là tôi có thể sắp xếp thời gian.” Môi nàng chụm lại thành một nụ cười. “Có thể nó không làm tôi chán đến nỗi như anh tưởng đâu.”
Đúng hai giờ rưỡi khi họ bước ra khỏi phố Fleet Street, và dưới ṿm St. Paul dựng sừng sững hiên ngang trên cao ngay trên đầu họ, cả hai bước tới khu phố Strand. Katharine chưa tới khu này của thành phố cả mấy năm nay, và nó gây cho nàng, như nàng nửa đoán trước trong lời tṛ chuyện với Madden, một cảm giác xúc động lâng lâng khi bước trên những vỉa hè đă từng biết đến những bước chân chạy nhảy của nàng lúc c̣n thơ ấu. Khi họ đi ngang qua khu Law Courts, nàng nhận ra nét quen thuộc của một di tích – St. Clemen Danes, ga tàu điện ngầm của nàng, quán trà mà nàng hay ăn trưa, thường là với ổ bánh ḿ nhỏ kẹp xúc xích và tách cacao - cả một sự h́nh dung dần dần về quăng thời thơ ấu quay trở ngược lại gây cho nàng một nỗi nhớ nhà nhanh chóng và sâu sắc. Thật là chẳng bao nhiêu, mặc cho sự việc diễn tiến và sự ngưng trệ của xe cộ làm trở ngại vướng víu trên đường phố, những thay đổi đă qua thật chẳng có bao nhiêu.
Tránh những cảnh đă biết rơ, nàng chỉ cho Madden vùng ngoại vi của khu Inns of Court, căn nhà cḥi mà Ben Johnson đă từng làm việc, ngôi thánh đường nhỏ mà tiếng chuông giới nghiêm vẫn c̣n vang lên mỗi tối. Rồi họ đi thăm luôn cả nhà thờ thánh St. Mary-le-Strand, nơi mà mỗi giờ ăn trưa, nàng hay lang thang tới đó.
Madden, như chàng đă diễn tả, chàng mê tít ngôi nhà thờ này. Nhưng Katharine không dừng lại lâu. Trí óc và bước chân của nàng dường như ngoặc đi không tự nguyện về phía cuối của khu Holborn, và cuối cùng với nỗi thắt nhỏ nhoi trong tim, nàng dẫn đường vào khu Staple Inn Courtyard. Nếu trong một khắc trước, họ bị vây quanh bởi sự hỗn loạn của đường phố loảng xoảng, th́ khắc kế tiếp họ lại ở ngay vùng nước đọng yên tĩnh, phía trước là mặt tiền cổ kính của nhà trọ, được làm dịu đi bằng những tiếng kêu ríu rít liên hồi của đàn chim én đậu trên cành cây đu phía trên đầu họ. Xa khỏi tiếng th́ thầm của giao thông là sự yên lặng thật tuyệt đối, một cử động duy nhất chỉ là tiếng mổ ngái ngủ của vài con bồ câu trên mặt đường rải sỏi cuội.
“Thật là tuyệt diệu,” Madden nói chậm răi khi họ ngồi xuống cái ghế dài. “Ngay giữa trung tâm điểm của London. Tôi đă đọc về nó ở đâu đây – đúng thế, nó ở trong Edwin Drood, có phải không? Đúng vậy, thật tuyệt vời. Thật là một nơi để mà mơ tưởng!”
“Tôi cũng thường hay nghĩ như vậy,” Katharine đáp.
Chàng ngó nàng thật sắc, sửng sốt v́ cái vẻ kỳ lạ của giọng nàng. Trong một phút, chàng im lặng, rồi với giọng ít thân mật hơn b́nh thường chàng nói:
“Tôi có để ư - không cưỡng được, tôi cho rằng - tất cả những cảnh vật quanh đây có một ư nghĩa ǵ đối với cô. Tại sao cô không kể cho tôi nghe?”
“Không có ǵ để kể thật mà.” Nàng cười gượng gạo. “Khi tôi khoảng mười bảy hay mười tám, tôi làm chỗ gần đây. Tôi thường hay đến đây và ngồi tại chỗ này, những lúc nghỉ giải lao. Anh thấy đó, chỉ là những uỷ mị t́nh cảm nhảm nhí. Tại sao tôi lại trừng phạt anh với những điều đó được?”
“Bởi v́ tôi muốn cô nói,” chàng nằn ń. “Tôi quan tâm muốn biết cô bắt đầu ra đời như thế nào. Tôi nghĩ là tôi hiểu cô. Tôi cũng có những giai đoạn gian lao khi mới bước vào đời.”
Nàng không thể hiểu nổi những yếu điểm của nàng, nàng có sự bằng ḷng ngầm như bị thúc đẩy bởi một người lạ gợi ư đến cảnh vật, hầu như là nàng tự tái tạo lại cho riêng ḿnh, cũng gần như là cho chàng, những h́nh ảnh đa cảm của thời con gái. Phía trên, bầu trời ửng ánh ấm áp yên tịnh. Một buổi trưa êm dịu kỳ lạ. Ngay dưới chân họ, những chú bồ câu mổ và bước đi khệnh khạng. Âm thanh trầm bổng của thành thị vọng lại như tiếng sóng nhào từ băi biễn xa xa.
Thoạt đầu, những lời nói của nàng có vẻ ngập ngừng, nhưng với vẻ thông cảm khi chàng lắng nghe làm chúng trở nên có h́nh hài và màu sắc. Nàng bắt đầu là một thư kư đánh máy với các hăng Twiss và Wardrop. T́nh h́nh ở nhà th́ túng quẫn, cái nghèo đói cứ chực chờ đâu đó dưới cái lớp mỏng bề ngoài của vùng ngoại ô sang trọng, và cha nàng, người bao gồm những tính hời hợt của một người môi giới nhà cửa không thành công và với tính sôi nổi của một người thuyết giáo, đă t́m cho nàng chỗ làm này. Một người đàn ông cứng rắn, cay đắng với nét nghiêm nghị chai đá và nụ cười lạnh lẽo, ông chỉ có tí xíu cảm thông với nàng và không hy vọng, chính xác là tỏ vẻ khinh thường nàng sẽ chẳng làm nên tṛ trống ǵ. Twiss, một người thuộc hội giáo đoàn, nhận nàng vào làm như là một “ơn huệ”.
Cũng chính sự việc này, có lẽ vậy, làm nàng quyết định nỗ lực và tôi luyện tính nhạy cảm thời trẻ trung chống chọi với đời. Nàng không ngần ngại tỏ cho mọi người ở nhà biết – cha nàng, tất cả mọi người. Một tham vọng từ từ nảy mầm. Ngày ngày nàng đi làm trong vội vă, mặc độc nhất đôi bít tất dài bằng vải bông đen và chiếc váy chật trội, ăn uống thiếu thốn nhưng háo hức và tỉnh táo. Nhịp đập lôi cuốn của London cổ kính là mối kích động không ngừng tới nàng. Nàng ngắm nh́n với đôi mắt xoe tṛn trong sự biểu lộ của giàu có và sang trọng; về nhà trễ từ văn pḥng tồi tàn, nàng hay đứng bên ngoài khu Covent Garden dưới mưa để ngắm nh́n những nhân vật có địa vị cao sang vai vế lên xuống. Và trong khi đó nàng lại cặm cụi đánh máy, đánh tốc kư, giữ sổ sách kế toán. Nàng chiếm được cảm t́nh tốt từ ngài Twiss và ngay cả từ ngài Wardrop. Nàng được tăng lương một, hai lần cho đến khi nàng kiếm được một khoản tiền kha khá là hai bảng Anh và năm hào một tuần. Cha nàng biết tin với vẻ hoài nghi khinh miệt.
Và rồi, bốn năm sau, khi nàng chỉ mới hai mươi hai, cơ hội đến. Già Eugene Hart, với nghề kinh doông đồ cổ ở gần đường Oxford, một ngày nào đó chợt chặn nàng lại trong cửa hàng của ông để hỏi xem nàng có muốn là thư kư riêng của ông với tiền lương là hai trăm bảng Anh một năm. Già Eugene là một người Do Thái, ngăm ngăm đen, nhân từ và nổi tiếng khôn ngoan, thường hay đến thiết lập mối làm ăn với Twiss và Wardrop cho những chuyến giao dịch liên quan đến sự tu bổ và thỉnh thoảng – đây chỉ là lời th́ thầm - một sự chế tạo hoàn toàn món đồ cổ nào đó. Ông hay chú ư đến Katharine và tiềm năng của nàng từ khoé mắt bí hiểm và siêu phàm, với bản năng chính xác nơi ṇi giống của ông.
Quả là một cái xoắn mạnh cho nàng nếu rời cửa hàng ở Holborn trong khi lời mời mọc của Hart như con đường đề bạt mở rộng có vẻ cám dỗ và dứt khoát. Bởi v́ bổn phận của nàng không bắt buộc nàng ngồi bàn giấy suốt ngày, nàng bắt đầu học “thương mại”, nhận biết những đồ gỗ cũ kỹ, thời điểm và tiêu chuẩn của chúng, chỉ bằng cái liếc nh́n nước bóng trên mặt đồ gỗ cổ cũng nhận ra số tuổi thực sự. Nàng tham dự các cuộc buôn bán mọi nơi với Hart, từ Vernon ở khu West End tới những nhà thôn dă tuyệt mỹ ở miền Bắc. Chẳng mấy chốc, với năng khiếu hiển nhiên của nàng và t́nh trạng sức khoẻ của ông xuống dốc, ông Hart cho phép nàng đi một ḿnh.
Mua đồ cho Hart không chỉ là trách nhiệm mà cũng là dấu chứng thực rơ ràng tài năng của nàng - nàng sẽ không bao giờ quên được lần đầu tiên đấu giá hồi hộp giữa nhiều góc độ trong nghề, nó dường như trưng bày nhiều khuôn mặt lạnh cứng không cảm t́nh của các tay buôn bán! Nàng trở nên, nếu không nói là quan trọng, chí không ít là h́nh tượng thích thú trong thế giới đồ cổ. Nàng dành dụm tiền, v́ Hart đă tăng thêm tiền hoa hồng vào tiền lương hằng năm của nàng, và đặc biệt với những cuộc mua bán lớn, tiền để dành cũng tăng lên một khoản đáng kể hàng tháng. Nhưng hơn tất cả mọi thứ, nàng yêu nghề của ḿnh tột bực, cái lộng lẫy hào nhoáng, cái khả năng và tầm xa kiến thức trong nghề.
Eugene Hart qua đời ba năm sau đó. Katharine với tư cách là người bạn tuyệt vời của ông, trở nên lẻ loi phiền muộn. Khi các cổ phần bị bán đi bởi lệnh của người thực thi di chúc và việc kinh doanh bị đóng cửa, nàng cảm thấy sự nghiệp của ḿnh sụp đổ. Cũng tại thời điểm này, khi nàng ở trạng thái yếu thế nhất, bỗng dưng có thêm xáo trộn trong giới mua bán mày râu. Nàng làm quen với một người cố vấn pháp luật trẻ tuổi tên Cooper, người đang thăng tiến vững chắc trong nghề nghiệp của ḿnh. George Cooper là một chàng trai trẻ trung thực, cần cù chịu khó và dễ mến. Lớn lên trong sự giáo dục và có truyền thống, anh cũng giống như nàng, thuộc ḍng trung lưu đáng kính, một tầng lớp xă hội mà anh được sinh ra và với tính vững chăi trong nghề nghiệp, không nghi ngờ là anh sẽ c̣n tồn tại dai dẳng. Họ hẹn ḥ với nhau có vẻ kín đáo, Katharine và anh, và nàng thích anh rất nhiều. Về phần anh, anh yêu nàng say đắm. Và đến lúc anh ngỏ lời cầu hôn nàng.
Sự cám dỗ đối với Katharine thật quá sức tưởng tượng. Hai mươi lăm tuổi đời, với ḍng máu chảy lành mạnh trong huyết quản, trong khoảnh khắc, ít nhất là với sự ngừng trệ trong sự nghiệp của nàng, t́nh h́nh không vui vẻ ở nhà v́ có người cha già nua thường xuyên cằn nhằn nàng là vô giá trị, làm cho cuộc sống của nàng không thể chịu đựng nổi. Thật là hạnh phúc biết bao nếu nàng có nhà riêng, sống vui sướng với chồng, với con! Một sự nhạy cảm lan nhanh trong đầu nàng. Thật là khó khăn và cô đơn trên con đường kia và chưa chắc ǵ đă thành công!
Quả là một quyết định khủng khiếp cho nàng. Và George, không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh cần câu trả lời của nàng. Rồi ngày đó cũng đến, một ngày mùa đông như thế này, khi nàng phải có lựa chọn dứt khoát, dường như định mệnh đă chia sẵn giữa nghề nghiệp và cuộc sống gia đ́nh. Bối rối và buồn bực, nàng mang theo nỗi muộn phiền tới ngồi tại cái sân này và ngồi xuống tấm ghế băng dưới tàn cây, vật lộn với những mối ưu tư. Khi nàng đứng dậy, trời đă tối, nhưng nàng đă có quyết định. Sự nghiệp của nàng phải có trước. Măi măi, măi măi sẽ là sự nghiệp của nàng. Đêm hôm đó nàng viết lời từ hôn cho George Cooper và cũng chính giờ khắc đó nàng viết đơn xin làm phụ tá biên tập cho tờ Collector, một tờ tạp chí tháng chuyên về đồ gỗ, đồ trang trí nhà cửa và đồ mỹ thuật.
Một tuần sau, nàng có chân trong ban biên tập của tờ Collector và một năm sau trở thành tổng biên tập. Sau đó nàng tiến nhông từng bước vào khoảng trống là Antika Ltd., nữ chủ nhân của chính công ty ḿnh. Nàng tiến cao, cao măi. Nàng kết bạn cả với những người có thế lực, trở thành gần như một h́nh tượng ở London và New York. Và dĩ nhiên nàng cũng gặp nhiều khó khăn, ai mà chẳng thế? Nàng kiếm được rất nhiều tiền. Và nàng tiêu xài cũng nhiều. Nàng có thể giúp đỡ mẹ nàng và Nancy. Nàng đă, nếu từ đó có ư nghĩa ǵ đó, thành công như ư.
Có một sự im lặng dài sau khi nàng xong câu chuyện. Rồi không nh́n về phía nàng, Madden tự động cầm lấy tay nàng, xiết thật chặt, rồi thả ra.
“Tôi rất mừng, và hân hạnh là cô đă kể cho tôi nghe, Katharine. Nhưng tôi nghĩ tôi tội nghiệp cho một anh chàng trong câu chuyện.”
“Ai?” nàng gặng hỏi.
“George Cooper,” chàng đáp chậm răi. “Nếu tôi đoán không lầm th́ anh ta biết những thứ anh ta mất mát.”
Nàng mỉm cười dịu dàng nhưng u buồn. “Anh ta chẳng mất mát ǵ cả. Ngoài ra, anh ta đă có gia đ́nh, tôi nghĩ vậy, và tuyệt đối hạnh phúc theo kiểu anh ta.”
Có lẽ chàng phân biệt được vẻ buồn bă trên khuôn mặt nàng, nỗi u sầu nhè nhẹ mà bất cứ kỷ niệm nào cũng mang tới, rồi với một cái liếc nhanh vào đồng hồ, chàng bật dậy một cách nhanh nhẹn.
“Đă quá giờ uống trà rồi. Và cô cũng đă lạnh lắm khi ngồi măi ở đây. Bây giờ cô đi tới tiệm bánh nhỏ mà cô hay tới và cô phải uống ba tách trà nóng nữa.”
Dường như bây giờ đến phiên chàng ra lệnh trong cuộc đi chơi này, v́ chàng đă dẫn nàng vượt qua ḍng xe cộ tới quán A.B.C. nàng đă quá quen thuộc. Bên trong thật ấm áp và sáng sủa, một cái ấm lớn mạ kim loại trên quầy hàng kêu réo và bốc khói, dăy tường dài bọc kính phản chiếu sự lăng xăng đi lại của các cô hầu bàn và từng nhóm nhỏ ngồi ăn uống, cười đùa, tṛ chuyện xung quanh các dăy bàn tṛn khảm vân cẩm thạch. Ai cũng có tách trà đầy và bánh ḿ rán tẩm bơ.
“Cái này,” Katharine nói, “thật là ngon.” Vẫn nhai chóp chép, nàng ngó h́nh ḿnh trong gương và vén một cọng tóc vào trong vành nón, như thường lệ vẫn đội lệch về phía sau. “Trời ạ, tôi trông khủng khiếp làm sao!” Môi nàng cong lên. “Tôi xứng đáng với nó lắm. Cũng như bất cứ người đàn bà nào kể lại chuyện đời ḿnh.”
“Tôi yêu cầu cô mà, phải không. Một ngày nào đó tôi cũng sẽ kể chuyện của tôi.”
Nụ cười của nàng dăn ra. “Đừng có nói với tôi rằng anh bán báo trên đường phố Cleveland.”
Chàng cười nham nhở. “Chắc hẳn rồi! Nhưng chỉ là đậu phộng thay cho báo.”
“Và anh đi chân trần?”
“Bất cứ lúc nào!” Chàng vừa vặn ăn xong miếng bánh ḿ nướng cuối cùng một cách kiểu cọ. “Bây giờ chỉ có một điều làm tôi lo lắng là tôi chỉ c̣n lại một ḿnh vào suốt chiều tối. Cô không biết là tôi lạc lơng như thế nào nếu thiếu vắng Nancy. Tôi nghĩ tôi sẽ đếm từng giây từng phút cho đến khi nàng trở về vào ngày Chủ Nhật.” Chàng ngừng lại. “Cô có khi nào – có khi nào tiếp tục thương xót tôi mà đi xem một buổi diễn với tôi chăng?” Nhanh chóng chàng rút ra một tờ báo buổi chiều mà chàng đă mua bên ngoài và lấy ngón tay chạy dọc qua các tin. “Có một vài tuồng có thể xem được nếu chỉ ngó ở đây.”
“Anh chẳng thể nào biết được nếu chỉ ngó ở đây,” Katharine nói.
Nàng cảm thấy toàn bộ sự chịu ơn chàng, ít nhất là trong ngày, đă ngừng lại. Nàng không quan tâm lắm vào đi coi ca kịch, mặc dù nàng cũng theo ngón tay chàng rà theo chương tŕnh cho tới khi thấy Nhà hát kịch Savoy, theo sự quan sát thú vị lúc ban đầu, là nơi hồi sinh cho Gilbert và Sullivan. Vở ca kịch tối nay là vở Iolanthe.
“Iolanthe!” nàng kêu lên gần như là không tự chủ.
Chàng nhướng đồi mắt. “Cô thích nó hả?”
Nàng hơi đỏ mặt, và sau một hồi giải thích. “Bây giờ tôi lại trở nên ngây ngô. Nhưng tôi thích Gilbert và Sullivan. Có lẽ hơn thế nữa là tôi muốn đi, tôi ít khi nào đi lắm. Tôi thường hay ngồi trong cái quán này, ngồi tưởng tượng và thả hồn theo vào chỗ ngồi hay pḥng trưng bày cho Pinafore hay The Mikado hay Iolanthe. Nhưng hoặc là lớp học đêm hay ngày làm việc trễ tới khuya, tôi chẳng thể nào đi được.”
“Vậy th́, cô sẽ đi xem tối nay,” chàng tuyên bố chắc nịch và gọi người nữ hầu bàn cho giấy tính tiền.
Họ lấy chỗ dễ dàng, ngồi hơi phía sau, nhưng cũng dễ chịu khỏi bị dị nghị v́ họ không ăn mặc chỉnh tề. Dàn nhạc bắt đầu chơi rồi chuyển sang khúc mở màn. Màn nhung được kéo lên. Katharine hoàn toàn để ḿnh chi phối vào ánh sáng dịu nhẹ.
Thật là một phần thưởng tương xứng cho nàng. Thông thường nàng cảm thấy có đặc ân khi đi xem những đêm diễn đầu tiên của những vở kịch thời sự nổi tiếng và ca nhạc hài kịch hiện đại mà nàng có ít hứng thú cho nhịp điệu nhanh chóng không ngừng. Vở này lại khác hẳn. Nó hoà với tính cách nàng. Nó có vẻ dí dỏm và du dương êm ái. Nó có lỗi thời hay không? Nàng không biết và cũng không cần biết. Ở thế mạo hiểm rằng nàng có hơi cổ hủ, nàng có can đảm để thích nó thoải mái.
Madden cũng thích vở kịch luôn. Nàng có thể thấy điều đó. Chàng không nói ǵ nhiều. Chàng không có nhận xét thăm ḍ giữa các màn. Chàng không quấy rầy nàng với những mời mọc vớ vẩn với cà phê hay cà rem trong suốt buổi diễn. Chàng ngồi nghiêm túc phần lớn với má chàng t́ lên ḷng bàn tay và cùi chỏ dựa trên thanh dựa của ghế ngồi, người chàng ngồi thẳng, đôi mắt thẫm màu, ánh lên nét tiêu khiển và thích thú, chăm chú nh́n lên sân khấu. Nhưng khi vở diễn kết thúc và họ bước ra khỏi thính pḥng và đứng chờ gọi tắc xi, chàng tuyên bố nhanh:
“Đó là một sự thết đăi khác mà tôi phải cảm ơn cô.” Chàng nói thêm: “Nancy sẽ hài ḷng lắm rằng cô quá tốt với tôi. Tôi sẽ kể cho nàng nghe giây phút nàng về tới.”
Katharine mỉm cười. “Chính anh là người đă tiêu khiển tôi chứ.”
“Ồ, không,” chàng đáp nhanh. “Tôi rất tệ ở khoản giải trí thiên hạ. Và tôi nghĩ tối nay tôi c̣n tệ hơn b́nh thường. Thật sự ra th́ tôi cũng tự hỏi không biết mọi việc xảy ra như thế nào ở Manchester.”
Cả hai cùng nghĩ về Nancy khi họ trên đường về khu phố Curzon Street. Khi chiếc tắc-xi đậu lại, nàng mời chàng vào nhà và uống một ly nước trước khi trở lại khách sạn. Chàng nhận lời. Họ lấy thang máy đi lên và bước vào căn hộ. Một bức điện tín nằm ngay ngắn trên một cái khay đặt ở hành lang nhỏ xíu. Nàng giật mở ra. Viết như thế này:
VỞ KỊCH HOÀN TOÀN THẤT BẠI MỞ MÀN Ở LONDON HOĂN LẠI KHÔNG BIẾT KHI NÀO CÓ NGHĨA LÀ TẤT CẢ ĐỀU TRÔI SẠCH CÓ THỂ CON VỀ NGÀY MAI YÊU VỚI TẤT CẢ NƯỚC MẮT VÀ NGUYỀN RỦA NANCY.
Mối quan tâm lan nhanh trên mặt chàng. Chàng cắn nhẹ môi ḿnh và đón lấy bức điện tín từ tay nàng. “Tội nghiệp cô nhỏ. Thật là xấu số,” chàng lầm bầm nói khi đọc lại từ đầu. “Tôi đâu có muốn nàng từ bỏ nó cách này!”
Gần như ngay lập tức, như thể quên mất là chàng là khách của nàng, chàng vội vă từ biệt Katharine.

Chương 6

Đúng mười giờ sáng Chủ Nhật khi Nancy xuất hiện trước phố Curzon Street. Nàng đă đi tàu suốt đêm, nằm cuộn tṛn trong góc của toa hạng ba với một thân h́nh nhỏ nhoi, cô đơn và buồn phiền. Những người c̣n lại của đoàn ở lại để lấy chuyến đi dễ chịu hơn vào ban ngày, nhưng nàng th́ lại thấy cần phải thoát ra khỏi nơi đó ngay lập tức. Sự thất bại của vở kịch mà nàng đă nuôi nhiều hy vọng làm nàng buồn bực quá thể. Khi đoàn tàu chuyển bánh trong đêm tối, mặt nàng khô cứng và xanh xao diễn tả sự thất vọng năo nề. Thái độ thiếu nghiêm trang thường xuyên, bộ mặt nạ với nét nhí nhảnh nàng hay giương ra với thiên hạ nay biến mất. Những người hay xét đoán Nancy từ vẻ bề ngoài thông minh cứng rắn có lẽ nên trông thấy nàng vào lúc này. Nàng thật sự như một đứa trẻ nhỏ khốn khổ.
Trước khi về tới London, nàng lấy lại tác phong như cũ. Nàng có thể nói là, với ngôn ngữ của nàng, hoàn toàn ch́m ngập trong cái ǵ đó mà nàng không tưởng được. Nàng lau chùi mặt lại như b́nh thường, như không có chuyện ǵ xảy ra, v́ bụi bậm của chuyến đi cũng có, và cũng có thể v́ vài giọt lệ làm tàn tạ đôi chút. Rồi sau đó, tại căn hộ, nàng bước vào, điệu bộ hơi quá lố với hai tay giang ra tới chỗ Katharine ngồi, Katharine mặc một chiếc áo dài ngủ bằng lụa đen trong buổi sáng muộn cùng với tách cà phê và miếng bánh ḿ nướng.
“D́ Katharine yêu dấu,” nàng khóc nấc lên, như thể lâu năm chưa gặp. “Thật là tuyệt khi gặp lại d́!” Nàng chạm má nàng lên má Katharine, kéo một tấm dựa lưng ra, ngồi xuống ghế xô-pha bên cạnh d́ nàng, và mỉm cười rạng rỡ. “Con thật là có một thời gian khốn khổ đến chết được ở miền Bắc.”
Katharine, với cử chỉ thực thụ, kéo cái khay về phía ḿnh. “Ăn chút điểm tâm nào, rồi kể cho d́ nghe tất cả.”
“D́ ơi!” Nancy run bắn lên hơi kiểu cách. “Con không thể ăn thêm một miếng nào nữa. Con quá ư là phiền muộn.”
“Ǵ thế? Con chưa ăn ǵ sáng nay à?”
“Không, không ǵ hết! Chỉ có tí trứng ốp-la hay ǵ đó, bánh ḿ nướng, và nước cam vắt - ồ, con quên mất.” Nàng cố gạt bỏ chuyện ăn uống ngay giữa tấn thảm kịch và cơn hờn dỗi này. “Con phải đi ṿng quanh, đơn giản là đi ḷng ṿng, chỉ để nói với d́ chuyện này.”
“Con đă gặp Chris rồi, phải không nào.”
“Dạ,” Nancy gật đầu. “Chàng thật là tử tế, rất tử tế - gặp con ở trạm tàu, rồi dẫn con về phố John Street. Nhưng con chỉ muốn d́, d́ Katharine. Con chỉ muốn nói chuyện riêng với d́ thôi.”
“Được rồi,” Katharine nói rất nhẹ nhàng. Với cử chỉ khiêm tốn, nàng rót cà-phê vào tách, thêm đường và kem, và đặt trước mặt một Nancy lạc lơng. “Thật ra, d́ cũng biết con sẽ lại. Nhưng con không nên quá lo lắng về vở kịch như vậy.”
“Vở kịch đó!” Nancy tuyên bố với vẻ nhăn nhó đầy ác cảm. “Con ước ǵ đó là một vở kịch thực thụ! D́ không biết thôi! Có lẽ nó đă, hoặc khá hơn, sẽ là một vở kịch nếu người đàn bà Renton ấy đă không phá huỷ nó. Cô ấy tàn sát nó, trải nó ra trên thảm như vật chết cứng ra rồi. Cô ấy thiệt là vô vọng. Cô ta không biết diễn xuất chút nào. Cô ta chẳng bao giờ biết diễn xuất hết. Và thêm nữa, cô ấy quá già. Ôi trời, giá như mà con có vai ấy, d́ Katharine! Mặc dù con diễn rất đạt, cám ơn mọi người, chỉ với con thôi con đă làm mọi thứ trót lọt. Ít nhất là con đă cho vở kịch trời đánh đó một cơ hội. Ôi d́ Katharine! Con thật là muốn vở diễn sẽ tới khu West End này. Đó mới là thật một đỉnh cao trong sự nghiệp của con.” Với vẻ phật ư khó chịu, nàng nâng tách cà-phê lên và uống cạn.
Điểm một nụ cười, Katharine ngắm cô cháu gái. Mặc cho những khắc khổ trong chuyến tàu đêm đó nàng vẫn đẹp quyến rũ như sáng nay, vào thời điểm mà sự xúc động rất là thực và một nét ǵ đó mà nàng không dễ ǵ công nhận hay tỏ ra lém lỉnh. Đúng thế, không nghi ngờ ǵ nữa, Katharine nhất định, bây giờ đă tới lúc Nancy nếm trải một tí ảnh hưởng của kịch nghệ. Và rơ ràng là nó rất hợp với nàng.
“Thật là đáng tiếc, có lẽ vậy,” cuối cùng Katharine lên tiếng. “Nhưng có thật sự quan trọng như thế chăng?”
“Dĩ nhiên là quan trọng rồi d́.” Nancy ngồi thẳng dậy với vẻ công phẫn. “Thật là một câu hỏi ngu xuẩn, d́ Katharine!”
“D́ chỉ nghĩ về,” Katharine đáp lại nhẹ nhàng, “người bạn của chúng ta là Madden.”
“D́ ơi,” Nancy phản kháng. “Con hiểu ư d́ muốn nói ǵ. Con ngưỡng mộ Chris. Nhưng con cũng yêu thích kịch nghệ nữa. Con cũng nợ bản thân con một cái ǵ đó mà d́, cho cái chất nghệ sĩ trong con. D́ biết là con thật tuyệt vời khi diễn xuất, con học nó thật nhanh. Và bây giờ với sự thất bại của vở kịch này trong thời điểm khó khăn này! Ôi chao, con biết nó là một vở kịch ngu xuẩn mà. Nó xứng đáng bị thất bại lắm. Nhưng con cũng đóng góp một phần thất bại đó, và giờ con chẳng thể chạy trốn khỏi nó được. Làm như vậy thật là hèn nhát.” Nàng nhảy dựng đứng lên và bắt đầu đi đi lại lại trong pḥng. “Ồ, không, không được, d́ Katharine yêu dấu. Đó sẽ là một mối hạ thấp thật sự. Con muốn lấy Chris, nhưng con cũng muốn có thành công. Con phải quyết định lấy việc này thôi. Ôi, con muốn thành công đến dường nào, thành công, thành công!”
“D́ biết rồi.” Katharine nói.
Lại có sự im lặng. Nancy ngừng việc đi qua đi lại, quay lại với một vẻ mặt mới lạ và bất th́nh ĺnh có một thay đổi thái độ thật thương tâm. “Chỉ có một điều chúng ta có thể làm được,” nàng lầm bầm, nh́n chăm chú Katharine với vẻ rơ ràng và ngây ngô, và vẫn giữ nguyên điệu bộ của - Duse, Terry, và Bernhardt trộn thành một. “D́ phải giúp con.”
“Nhưng bằng cách nào, Nancy?”
“Đừng nh́n con như thể con đang rối trí, d́ yêu. D́ biết cách mà.”
“Ư con là con muốn tham gia một vở kịch khác?”
“Đúng như vậy!” Nancy thở phào nhẹ nhơm và tiến lại gần chiếc dương cầm, ngồi xuống và đánh nhanh một giai điệu chậm, lôi cuốn. “Với một dịp như thế, d́ Katharine,” nàng nhận xét một cách nhẹ nhàng, “d́ có thể tiến tới một cách dễ dàng. D́ rất có ảnh hưởng – hoàn toàn thông thường nhưng lại là một cái giựt dây khéo léo, d́ yêu - với tất cả mọi người – như với Sam Bertram chẳng hạn.”
“Tại sao lại phải là Bertram?”
“Bởi v́” - Nancy đánh một nốt nhạc nữa – “bởi v́ Bertram sẽ đem vở Dilemma tới New York - vở diễn mới của ông ta, d́ Katharine, trừ phi d́ không biết. Bởi v́ Bertram chưa có phân vai cho ai hết. Bởi v́ Bertram sẽ cho con một vai rất là quan trọng trong đó.”
“Ồ, không được đâu, Nancy, không thể nào được.” Katharine nói nhanh, “D́ không thể nào hỏi ông ta được.”
“D́ phải, d́ yêu,” Nancy nói, nhấn mạnh bàn phím dưới chân như là một cách yểm trợ. “Trừ khi d́ muốn con đổ vỡ và buồn bực đến hết kiếp này.”
“Nhưng thật ra...” Katharine phản đối.
“D́ phải,” Nancy lập lại. “Có một vai trong vở Dilemma đáng để dành cho con. Không nhiều lắm, d́ yêu, nhưng rất đúng ư con, rất là hợp ư con. Con có thể gọi được cả người chết nếu được vai đó. Nhưng đó chỉ là điểm thứ yếu thôi. Con muốn đi Mỹ với d́ cơ. Con cũng muốn đi với Chris. Chàng phải trở về, d́ yêu, v́ công việc kinh doanh. Chàng muốn con đi về với chàng và chúng con sẽ lấy nhau ở đó. D́ có thấy không, thật là điều tuyệt diệu nếu d́ có thể kéo con vào vở diễn của Bertram? Đơn giản hoá tất cả mọi chuyện. Chúng ta sẽ cùng đi với nhau và có một thời gian thoải mái nhất.”
Katharine liếc nh́n Nancy, vẫn ngồi dựa ra sau, và thấy rơ ràng là nàng đă bị lợi dụng một cách khéo léo bởi cái lư lẽ mâu thuẫn của mưu mẹo và tính ngây thơ chân thật, bởi cô cháu gái bối rối nhưng khôn khéo quá mức của nàng. Mặc kệ, nàng cũng phải công nhận thế và có một ánh tiêu khiển nhảy múa trong mắt nàng.
“Con dường như đă lên kế hoạch rất là hoàn hảo sẵn rồi.”
“Dĩ nhiên mà d́ yêu dấu.”
“Nhưng không dễ ǵ Bertram cũng sẽ dễ dăi như d́ đâu.”
Katharine ngừng lại một chút như thể đă động ḷng thương nàng rồi. “Được rồi,” cuối cùng nàng nói.
“Ôi, d́ thật là tuyệt!” Với nốt nhạc đánh cuối cùng trên bàn phím, Nancy nhổm dậy ra khỏi chiếc đàn dương cầm và giang cả hai tay ra ôm quanh cổ Katharine. “Ôi, con biết là d́ sẽ làm được mà. Con tin tưởng d́ lắm. Con mừng quá! Con biết là một khi d́ nhận làm việc ǵ th́ việc ấy sẽ thành.”
Nàng bật người ra sau, ngắm thưởng Katharine với vẻ chân chất và biết ơn. Nàng lại ôm chầm lấy d́ nàng lần nữa, rồi đổi hướng sang ngó chiếc đồng hồ nhỏ xíu mạ bạch kim trên cổ tay. Ngay lập tức vẻ mặt nàng đầy hối tiếc.
“Và bây giờ con phải đi gấp rồi. Con hứa với Chris là gặp chàng vào lúc mười một giờ. Chàng thật là một thiên thần và con ghét phải làm cho chàng chờ đợi. D́ sẽ tới gặp Bertram hôm nay phải không d́ Katharine? Hay là ngày mai nếu ông ta không có ở đây. Tạm biệt, d́ yêu, và cám ơn d́ triệu lần.”
Khi Nancy đă đi khỏi, Katharine đứng lặng yên trong một phút với nhiều ư nghĩ lẫn lộn. Một phần của nàng quan sát thấy Nancy đă cân nhắc thật kỹ lưỡng trong việc nhờ vả nàng, phần kia nhận thấy không có ǵ Nancy đ̣i hỏi là quá đáng với ḷng thương yêu nàng dành cho cháu. Sự thật đúng là nàng có vài ảnh hưởng với Bertram và nếu như Nancy nói đúng, nàng có thể thuyết phục được ông. Mặc dù nàng phải chịu nhượng bộ khi nhờ vả người khác v́ đó không phải là tính cách của nàng, v́ cháu nàng có thể làm như thế, và nàng sẽ làm như vậy. Lúc này, lông mày của nàng đă giăn ra, như bị thôi miên nàng đi vội tới chỗ điện thoại. Nàng không mong ǵ Bertram vẫn c̣n ở tại London vào cuối tuần, nhưng từ bác Winter, người quản gia của ông ta, ít nhất nàng có thể biết trước được những cuộc gặp gỡ của ông ta vào tuần tới.
Đúng như rằng, giọng của bác Winter trả lời điện thoại - giọng nói vang vang khó mà lẫn lộn được – khi Katharine bắt đầu câu chuyện hỏi thăm, bác trả lời nàng, với chút do dự và hơi bí hiểm rằng ông chủ của bác có ở nhà.
“Tốt quá!” Katharine kêu lên. “Vậy th́ xin báo với ông ta, bác Winter, rằng tôi sẽ đến thăm ông ta.”
“Nhưng không được Cô Lorimer,” bác Winter phản đối. “Cô không thể gặp ông chủ được.”
“Tại sao không? Ông ấy không hề có cuộc hẹn nào khác trong ngày.”
“Tôi e rằng có, Cô Lorimer. Cô biết không, ông ấy – ông ấy không thấy khoẻ cho lắm.”
“Không khoẻ?” Hành động của bác Winter như có ư cản trở Katharine. Nàng yêu cầu thẳng thừng: “Có chuyện ǵ xảy ra với ông ấy?”
Một sự im lặng do dự ở đầu dây bên kia. Rồi với một sự miễn cưỡng nghiêm trọng: “Nếu Cô thật muốn biết, Cô Lorimer, Ngài Bertram bị đau răng.”
Có một chút ǵ sầu thảm trong giọng của bác Winter khi sự tuyên bố bệnh trạng của ông chủ làm cho Katharine cười ngất. Nhanh chóng lấy lại b́nh tĩnh để khỏi làm bác bối rối mà nàng biết chắc là có thể xảy ra, nàng vội vàng gác máy. Nhưng ư định cho cuộc viếng thăm vẫn không đổi, v́ cần làm cho Nancy việc ǵ, có lẽ nên làm xong sớm mới được.
Gần ba giờ rồi, v́ vậy nàng đoán chứng đau dây thần kinh của Bertram cũng khá thuyên giảm, nàng rời nhà và nhanh chóng đi về hướng quảng trường Portman Square.
Nàng nhấn chuông ở căn nhà số 16A, và bác Winter ra mở cửa, đứng với dáng cao gầy hơi có vẻ tang tóc trước mặt nàng.
“Tôi xin lỗi, Cô Lorimer,” ông ta bắt đầu, và nàng biết được là bác ta không có chắc sẽ cho nàng vào.
Nhưng trước khi bác ta có thể quyết định, nàng đă vào tới hành lang, mỉm cười trấn an bác ta và nói:
“Không có sao đâu bác Winter, tôi sẽ tự đi vào.”
Nàng bước ngang qua một người hầu có dáng lo sợ, hướng thẳng về phía pḥng làm việc, nàng quá quen với thói quen của Bertram, nhất định là có ông ấy ở đó.
Quả nhiên nàng đoán đúng, nhưng có vẻ may mắn hơn là quyết đoán, bởi v́ Bertram không ngồi làm việc mà chỉ ngồi đó trong lớp áo dài giản dị ở nhà, thu ḿnh trước ḷ sưởi than, đầu ông ta trùm kín trong tấm khăn choàng Shetland, cử chỉ của ông ta làm nhân hoá sự đau đớn một cách buồn cười.
“Tại sao thế Bertie!” Katharine kêu lên ngay tức khắc. “Có xấu đến như thế không?”
“Xấu tệ,” ông ta lầm bầm. Rồi một hồi im lặng ông ta xoay đầu một cách đau đớn và ngắm nàng với con mắt ghen tức. “Cô làm cái tṛ quỷ quái ǵ mà tới đây thế?”
Mặc dù nàng cảm thấy tội nghiệp cho ông ta vô cùng, có một cái ǵ đó ở ông ta vào lúc này, ăn mặc nhếch nhác, khăn choàng kín người, và má sưng vù, gợi nhớ một cách không cưỡng được cho nàng h́nh như đă xem trong mẩu truyện tranh nào đó, làm Katharine phải cố gắng lắm mới không bật ra tiếng cười gịn. Nàng phải tuyên bố nhanh chóng:
“Tôi chỉ tạt ngang qua đây vài phút thôi. Và tôi mừng v́ đă đến đây. Ông phải để tôi giúp ông việc ǵ đó.”
“Cô không thể làm ǵ được hết,” ông ta lầm bầm một cách thê lương. “Tôi không muốn bị quấy rầy. Tôi đă bảo cho bác Winter biết rồi mà.”
“Không phải lỗi của bác Winter đâu. Xem đây, Bertie …”
“Tôi chẳng thể nh́n được đâu hết,” ông cắt ngang. “Nhức răng, cái mặt nhức nhối đáng nguyền rủa. Để tôi yên một ḿnh. Tôi chẳng mua được món đồ cổ nào có thể cứu văn tôi được hết.”
“Tôi không phải đến đây để bán đồ cổ cho ông.”
“Cô không đến đây vô cớ đâu. Tôi biết cô mà. Lại vào ngày Chủ Nhật nữa. Cô đi ra đi, Katharine!”
“Không, tôi sẽ không đi đâu hết,” nàng trả lời chắc nịch, và bước lại gần ông. “Thật là vô lư khi thấy ông phải chịu đau đớn như thế này. Ông đă đi khám nha sĩ chưa?”
“Ghét nha sĩ. Không bao giờ có th́ giờ cho họ hết. Ghét cả bọn luôn. Ngoài ra, …”
Ông ta rên rỉ nhè nhẹ, bỗng nhiên thắt lại cứng ngắc v́ lên cơn đau. Khi cơn đau lắng xuống, ông ta nằm ngửa ra sau ghế và giải thích: “ Chứng áp-xe, tôi nghĩ vây. Chẳng tiêm thuốc được. Chẳng làm ǵ được hết.”
“Ông có thể lấy nó ra,” Katharine nói với vẻ ngạc nhiên ngỡ ngàng.
“Lấy ra!” Ông ta nhảy dựng lên, gần như ra khỏi cái ghế. “Không có thuốc tê? Lạnh máu như thế? Lấy ra! Ôi, trời ơi, người đàn bà này nghĩ là con được đúc từ sắc thép? Lấy ra! Ôi trời, trời hỡi, hăy tha thứ cho cô ấy!”
Với cái rùng ḿnh ghê sợ, ông ta quay lưng lại, ôm cái má đau nhè nhẹ, bắt đầu lắc lư người tới trước và sau.
Katharine quan sát ông ta với vẻ cảm thông lo lắng thật sự, suy nghĩ, có lẽ là một t́nh huống được lập đi lập lại nhưng không kém vẻ thành thật, người đàn ông giống trẻ con đến mức nào, đặc biệt là khi bị mất đi sự giám hộ của phụ nữ. Nàng tuyên bố:
“Để cho tôi nh́n xem như thế nào, Bertie.”
“Không, cám ơn cô.”
“Nhưng ông phải. Thật là lố bịch khi ông phải chịu đau đớn hoài như thế này.”
Nàng tiến lại gần ông hơn đầy tự tin. Đôi mắt ông ta, phần cử động duy nhất trên khuôn mặt cứng đờ, đảo nhanh về phía nàng. Nhưng nàng quá nhanh. Co rúm người lại như một con chó lông xù sắp sửa bị đánh, ông rên rỉ lần nữa và chịu thua, há miệng to ra cho nàng thấy một cục sưng đen ḷm nằm ngay vùng răng hàm, giữa cái nướu răng.
Khi nàng đă xem xét vết đau xong, Katharine ngồi phịch xuống tấm thảm trải trước ḷ sưởi và trầm ngâm nh́n ông một cách nghiêm nghị. “Lắng nghe đây, Bertie, thật là điên rồ nếu cứ để măi như thế này. Ông phải mổ lấy nó ra ngay tức khắc.”
“Cô không thể nào,” ông ta phản đối một cách yếu đuối. “Cô không thể tiêm thuốc …”
“Hơi khí thôi,” Katharine đáp lại ngắn gọn.
Ông ta lại rào ḿnh cẩn thận với tấm khăn choàng, giống như là tự bảo vệ lại như trước kia. “Hơi khí?”
“Đúng vậy, hơi khí, Bertie!”
Ông ta cố cứu văn để thoát khỏi. “Nhưng tôi không thể bị gây mê được. Cái ư nghĩ đó đă đủ làm cho tôi sợ rồi. Tôi chưa bao giờ bị gây mê suốt cuộc đời này.”
“Vậy th́ bây giờ ông sẽ có thôi,” Katharine nói với giọng trịch thượng và cả quyết. “Tôi sẽ gọi điện cho bác sĩ Blake và ông sẽ được mổ lấy cái răng chết tiệt này ra.”
“Không, không. Cô đừng có bày đặt. Nếu tôi bị hơi ngạt, tôi sẽ ngất xỉu thôi. Tốt hơn là tôi … Tôi cảm thấy b́nh thường rồi. Ối! Ôi chu choa…!”
Ông ta như vật lộn trong chiếc ghế của ḿnh, phản kháng, khi một cơn đau khác về thể xác lẫn tinh thần làm cho ông vật ra và nằm im lại, như chịu hết nổi chỉ chờ vào ḷng từ bi của nàng.
Katharine liếc nh́n ông bạn già với vẻ cảm thông vô vàn nhưng không bớt nghiêm khắc; đoạn nàng đi ra khỏi pḥng và xuống tới hành lang để gọi cho bác sĩ Blake, ông nha sĩ của nàng, sống gần đây ngay góc phố Queen Ann Street và mời ông tới ngay. Nàng yêu cầu bác Winter lấy cho nàng nước nóng và mấy tấm khăn sạch khi thấy bác cứ lẩn quẩn gần đó, buồn phiền và tái nhợt như xác chết.
Katharine vẫn lui cui ở hành lang cho đến khi bác sĩ Blake tới.
“Ông phải kiên quyết đó bác sĩ,” nàng nhắc nhở ông thêm. “Không v́ lư do ǵ mà hoăn lại chuyện mổ hết.”
“Không có chuyện đó đâu Cô Lorimer,” ông trả lời với một nụ cười. “Tôi chưa bao giờ để dành đến ngày mai những việc phải lấy ra ngày hôm nay.”
Lên lầu, họ t́m thấy nạn nhân khổ sở đang nằm sóng soài với vẻ định sẵn của số mệnh, không c̣n sức đâu mà làm một cuộc phản kháng mong manh. Chỉ mất khoảng một phút để chuẩn bị dụng cụ. Bertram đảo mắt nh́n một lần tới những ống xi-lanh đen sẫm và những lơi đỏ trong ống rồi rùng ḿnh cảm lạnh như thể vừa bị mưa đá hắt vào.
“Ông sắp sửa kết liễu tôi rồi,” ông ta th́ thào. “Tôi không bao giờ qua khỏi hết.”
“Vớ vẩn!” bác sĩBlake nói tạt thật nhanh.
“Không phải tôi – không phải tôi phải ngồi trong một cái ghế đặc biệt hay sao?” Bertram ấp úng nói.
“Không có chuyện đó đâu,” bác sĩ Blake lại nói tạt nhanh hơn bao giờ. Dường như đó là câu cửa miệng của ông. Ông xắn tay áo bên phải lên một cách thiện nghệ. “Chỉ cần mở rộng cổ áo thôi và ngồi ngay thẳng lên nào.”
Một nụ cười tái mét lan nhanh trên khuôn mặt của Bertram. “Ngồi ngay thẳng lên,” ông cười khúc khích. “Nếu tôi không trong t́nh trạng sống dở chết dở, tôi đă cười to lên rồi.”
Rồi cửa pḥng mở ra, bác Winter bước vào, bước chầm chậm trang nghiêm tới trước với cái chậu trên tay như một bác sĩ bào chế thuốc dùng để hứng máu. Điều ǵ muốn tới đă tới. Bertram nhắm chặt mắt lại. Khi bác sĩ Blake choàng miếng khẩu trang bằng cao su qua miệng ông ta khóc bù lu bù loa:
“Nắm lấy tay tôi nào Katharine. V́ chúa hăy nắm cho thật chặt đó.”
Ba phút sau, ông ta mở bừng cặp mắt và nh́n đăm đăm một cách đờ đẫn vào bác sĩ Blake đang huưt sáo nhè nhẹ, dọn dẹp lại các dụng cụ của ḿnh. Bác Winter và cái chậu đă biến mất, và rơ ràng là Bertram đă biết cái răng, cơn đau vật vă, cơn ác mộng tất cả đều trong trạng thái toàn vẹn. Sự kỳ diệu như bao trùm cả ông ta. Ông ta vẫn giữ nguyên tư thế không cử động cho đến khi người nha sĩ hoàn toàn đi khuất. Rồi ông ta ngồi bật dậy và nh́n Katharine với nụ cười chậm răi, không đau đớn.
“Chính là cô,” ông ta tuyên bố. Ông ta trấn an ḿnh rằng cơn tai nạn đă qua bằng cách gơ nhè nhẹ lên má ḿnh; rồi mỉm cười lần nữa thay v́ bẽn lẽn. “Cái chất đó thật tuyệt vời, cái khí hơi đó. Tôi cũng can đảm với nó lắm chứ, có phải không?”
“Ông thật là tuyệt vời, Bertie.”
“Tôi đă không... Ồ, mà thôi, mặc kệ nó, tóm lại vẫn không phải là một thứ dễ chịu khi đối diện. Chẳng phải ai cũng muốn làm như thế. Ư tôi là bị gây mê và mọi thứ.”
“Vâng, ông hoàn toàn là một người dũng cảm. Một cái răng thiệt là quỷ quái.”
Rồi dơi mắt theo hướng nàng chỉ, ông nh́n thấy cái răng nằm gọn trong một nhúm bông g̣n trên bàn cạnh chỗ ông ta. Ông ta nhặt nó lên và ngắm nghía một cách thú vị.
“À ha! Một cái răng hàm nhiễm trùng lớn ghê. Đúng ra phải lấy ra c̣n hơn là nằm hoài ở bên trong, Katharine nhỉ? Cám ơn chúa Trời phù hộ cho con có can đảm vượt qua.”
Ngẩng đầu lên bất th́nh ĺnh, ông bắt gặp cái nh́n chăm chú của nàng vào ḿnh, và ngay lập tức ông ngừng lại như một đứa trẻ bị bắt quả tang lấy trộm bánh ngọt trên tủ chạn. Ông nháy mắt như thể có lỗi. Khuôn mặt của ông xụ xuống từ từ. Rồi đôi mắt ông chớp chớp với vẻ thích thú, ông phá ra cười thật lớn. Ông cười thật là lâu.
“Ôi, trời, Katharine, tôi sợ hăi quá chừng. Và cô thật là sắt đá cứ ép tôi phải nhổ nó đi. Nếu cô không làm như vậy, tôi có lẽ vẫn c̣n phải chịu đựng đến xanh tím mặt mày!” Ông ta với tay và nhấn chuông. “Bây giờ chúng ta sẽ dùng trà. Tôi đói quá rồi. Bao tử tôi đang đói cào dữ dội. Cô có thể tin không Katharine, tôi chưa ăn uống ǵ cả ngày!”
Nàng lắc đầu. “Không, tôi sẽ dùng một ít trà, Bertie. Và ông sẽ phải ăn một chút xúp bổ dưỡng.”
“Ha! Ha! Ư kiến hay. Tôi cần bồi dưỡng thật. Tôi cảm thấy như cả tuần nay chưa ăn một cái ǵ.”
Sau đó, khi bác Winter bước đều đều vào ra, và Bertram với chiếc khăn ăn quấn dưới cằm, ăn như hùm đói một tô xúp nước hầm thịt ḅ, rồi th́nh ĺnh ông tuyên bố:
“Cô biết không, Katharine, cô đă bỏ lỡ mất nghề của ḿnh. Cô đáng lẽ phải trở thành một y tá hay bác sĩ ǵ đó. Không, tôi thề rằng, cô phải là vợ của một người nào đó mới đúng. Chẳng hạn như là vợ của tôi.” Ông ta vẫy cái muỗng loạn xạ lên. “Đó là một ư hay. Lấy tôi đi, Katharine, và cô sẽ làm tôi vui sướng biết chừng nào.”
Nàng chỉ đơn thuần mỉm cười với ông, không tỏ dấu hiệu ǵ hết, và ông ta cứ tiếp tục:
“Tôi có thể làm ǵ được cho cô nào nếu tôi chẳng có tí ích lợi ǵ khi làm chồng của cô? Chỉ có một điều không thể được thôi. Cô sẽ phải không bán một thứ ǵ cho tôi cả. Tôi hoàn toàn cạn kiệt v́ đă đầu tư quá nhiều vào buổi diễn mới của tôi.”
Katharine thở một hơi thật dài. Đến lúc nàng có thể bắt đầu thảo luận vấn đề dễ dàng, khúc mở đầu này, cộng với sự biết ơn của ông ta, đă tạo cho nàng một cơ hội hiếm có. “Tôi thật là có điều muốn nói với ông, Bertie, và nó có liên quan đến buổi diễn mới của ông. Hăy cho cháu gái tôi, Nancy Sherwood, một vai trong đó.”
Sự trang trọng hơn là tính tự nhiên của lời yêu cầu của nàng làm ông ta quan tâm. Ông ta vẫn ăn xúp chậm răi. “Mmm,” cuối cùng ông ta lên tiếng. “Th́ ra là thế. Cô bé ấy kêu cô làm như vậy hả Katharine. Thật là tên quỷ sứ nhỏ lém lỉnh.”
“Con bé đúng là lém lỉnh thật, Bertie.” Katharine đáp nhanh. “Và ông biết là nàng biết diễn xuất.”
“Đúng thế,” ông ta công nhận. “Cô ấy diễn rất khá.” Ông ta dừng lại. “Và cô bé cũng can đảm lắm chớ. Tôi biết cả chuyện cô ấy làm ở đài B.B.C. ngày hôm nọ. Mấy chuyện đó chạy ḷng ṿng mà.” Ông ta dừng lại lần nữa. “Mmm! Nhưng giả dụ chúng ta chờ thêm một chút. Khoảng một hay hai năm chi đó cô ấy sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn.”
“Không thể một hay hai năm được,” Katharine tuyên bố táo bạo. “Cô ấy sẽ lấy chồng và định cư ngay sau đó. Cô ấy muốn làm một điều ǵ hay ho bây giờ - ông biết nghề nghiệp đó như thế nào mà Bertie – để cảm thấy nàng không phải là một thất bại, để kết thúc với ư muốn đă làm xong một cái ǵ đó.”
Ông ta nh́n vào nàng với vẻ lườm nguưt. “Ồ, vậy sao?”
“Ngoài ra,” nàng tiếp tục nhanh chóng, “tôi muốn nàng ở Mỹ khi tôi tới đó. Nếu nó có liên hệ tới tương lai nàng, hạnh phúc của nàng, với tất cả mọi thứ có liên quan.”
Một sự im lặng. Ông ta găi cằm với vẻ chú ư rồi yên ắng một chút trước khi có thể trả lời, nhưng rồi ông ta bất thần có quyết định. “Được rồi, Katharine; v́ cô tôi sẽ cho cô bé một vai. Một vai tốt nữa. Nó rất hợp với Nancy ngay trong tính cách. Vai đó sẽ là cô ấy. Bảo cho cô ta liên lạc với tôi tại văn pḥng vào ngày mai.”
Mặt nàng chợt ửng hồng lên. Quá sung sướng, nàng đứng dậy và nắm lấy cả hai bàn tay của ông. “Cám ơn ông, Bertie!” Nàng kêu lên. “Tôi sẽ không bao giờ quên chuyện này hết.”
“Thôi được rồi. Nếu nghĩ về nó kỹ hơn, Nancy sẽ làm một mở đầu hay cho Paula Brent là người đóng vai chính.”
Cử chỉ của ông ta, hoàn toàn không khách sáo, vẫn không che dấu được vẻ măn nguyện đă làm nàng hài ḷng.
Sau đó ít lâu, nàng rời khỏi nơi đó. Một sự phấn chấn không tả được lan khắp người nàng khi nàng đi về nhà, gập người xuống gọi điện thoại cho Nancy ngay khi nàng về tới phố Curzon Street. Chuyến viễn du sang Mỹ có nhiều biến chuyển mới, có vẻ sáng lạn với nhiều màu sắc như nàng vẽ sẵn trong đầu. Nàng vẫn luôn luôn muốn đi với Nancy. Và như thế, nàng tự nhủ với một cảm giác ấm cúng bên trong, với ư tưởng lạ lùng cộng thêm vào hạnh phúc của ḿnh rằng Madden cũng có đi theo chung.


o0o

 
Pages  1  2  3  Next