| 
				giới 
				văn nghệ sĩ, những nhà văn, nhà báo giầu tưởng tượng, như Vương 
				Luân, dễ rung động với cảnh ngộ của người hồng nhan đa truân. Và 
				vì vậy, hai chữ Khâm Thiên dần dần trở nên quen thuộc trong các 
				tác phẩm văn học thời tiền chiến. 
					Vương Luân hỏi chủ 
					nhà:
 - Việc gì thế? Hễ 
					làm được thì tôi làm ngay!
 Người đàn bà tuổi 
					gần bốn mươi, từng một thời nức tiếng nhan sắc, bây giờ mở 
					nhà hát đi độ nhật mà cái nét mặn màvẫn phảng phất. Chị chớp 
					mắt mấy cái rồi hỏi:
 - Dạo này quan anh 
					có hay gặp ông ký Đăng không, thưa quan anh?
 Nghe nhắc đến tên 
					người bạn thân của mình, Vương Luân hơi lúng túng, ông đáp:
 - Lâu lắm tôi cũng 
					chả gặp! Thế dạo này ông ký không ghé đây sao?
 Chủ nhà thở dài va 
					đáp:
 - Vâng! Đi đâu mất 
					biệt hơn nữa năm nay. Vì thế em mới phải phiền đến quan anh, 
					vì biết quan anh là chỗ tri kỷ với ông ký. Năm ngoái, ông ký 
					đến đây chơi với quan anh một bận dạo đầu năm, chắc quan anh 
					còn nhớ? Sau ấy, ông ký đến đây một mình hai lần nữa. Rồi 
					làtrốn biệt, chả thấy tăm hơi gì nữa!
 Ông Luân gật gù 
					thông cảm. Thông lệ ở nhà hát là khách đến phải nộp tiền 
					trước rồi đào mới hát. Giá cả thì mỗi nhà hát mỗi khác. Chỉ 
					có những khách quen mới không bị áp dụng những thủ tục này, 
					nghĩa là hát xong mới moi tiền ra trả. Nhiều ông lợi dụng 
					chỗ quen biết để thiếu nợ rồi có khi trốn đi luôn vì trả nợ 
					không nổi. Nhưng đó là nói chuyện người khác chứ trường hợp 
					ông ký thì chắc không phải như vậy, bởi Vương Luân biết bạn 
					ông không nghèo đến nỗi phải bỏ trốn. Bạn ông vắng mặt vì 
					một lý do khác mà ông không thể nói ra. Ông hỏi dò xét:
 Thế ông ký có hẹn hò 
					gì với chị không?
 Người đàn bà cười 
					buồn đáp:
 - Quan anh hiểu lầm 
					chúng em rồi! Có hứa hẹn gì đâu! Hay nói đúng ra là có gì 
					đâu mà hứa hẹn! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, ông ký nợ 
					nhà hát chúng em hai chầu, hơn nữa năm nay không giả, cũng 
					chẳng có nhời nào với chúng em! Cái Tuyết nó ngóng mỏi cổ 
					từng ngày mà ông ký chả đến. Ông ấy còn nợ nó nhiều lắm, mà 
					bố mẹ nó thì đang cần tiền chạy thuốc...
 Chủ nhà ngưng lại 
					một chút nhìn ông Vương Luân và Minh dò phản ứng. Vương Luân 
					buột miệng nói:
 - Thế mà tôi cứ 
					tưởng... Hóa ra ông ấy thiếu nợ!
 Chủ nhà tiếp:
 - Vâng! Năm hết tết 
					đến, em mới đánh bạo nhờ quan anh, hễ có dịp gặp ông ký thì 
					nhắc hộ chúng em một tiếng!
 Vương Luân thở dài 
					một tiếng chia xẻ:
 - Được! Hễ gặp, tôi 
					sẽ nói hộ!
 Rồi ông kéo Ming 
					bước đi. Chủ nhà còn bước theo níu kéo thêm:
 - Trăm sự nhờ quan 
					anh giúp cho. Chúng em chả dám quên ơn!
 Hai người đi bộ dọc 
					theo lề đường. Ngang qua một cửa hàng đông khách, Minh né 
					hẳn xuống lòng đường vì thấy cha ông mù đang kéo nhị hát 
					xẩm, giọng ca rất ai oán. Hai bố con nhà này cừ quanh quẩn 
					làm ăn ở khúc đường này từ ngày Minh dọn đến, và Minh đã bố 
					thí cho họ cũng khá nhiều lần vì tội nghiệp đứa con mới mấy 
					tuổi. Bây giờ Minh đã bớt đi nhiều xúc động vì thiên hạ bảo 
					cho anh biết, đứa trẻ không phải là con ông, mà chỉ là sự 
					kết hợp thương mại mà thôi.
 Đi thêm một quãng 
					đường, Vương Luân hỏi Minh:
 - Cậu biết ông ký 
					Đăng không?
 - Thưa biết. Đệ có 
					gặp một lần ở nhà ông phán Quát! Thế mà tôi quên đấy.
 Rồi Vương Luân hạ 
					giọng nói nhỏ hơn:
 - Đang việc ở tòa 
					Bố, Đăng bỏ đi biệt tích. Lúc đầu, người ta bảo tôi là Đăng 
					vào Sài Gòn lặp nghiệp vì có ông chủ mở hiệu ăn trong ấy 
					phát tài lắm. Tôi tưởng như thế. Mãi về sau mới biết Đăng 
					theo hội kín. Nghe nói bây giờ đang ở Hồng Kông...
 Minh buột miệng vhen 
					vào:
 - Ở Hồng Kông thì 
					chắc là Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội?
 Vương Luân gật đầu:
 - Tôi cũng chả rõ! 
					Nhưng thời buổi này, phi Thanh Niên Cách Mệnh thì là Quốc 
					Dân Đảng! Hội kín bây giờ chỉ có hai nhóm ấy là đáng kể!
 Minh không muốn góp 
					ý kiến vì muốn giấu hoạt động bí mật của mình. Anh biết rõ 
					Vương Luân là người ít bận tâm đến thời cuộc, mặc dù ông là 
					nhà báo, giao du rộng, kiến thức nhiều. Ngẫm nghĩ một chút, 
					Minh hỏi thêm:
 - Nhưng sao tiên 
					sinh biết làông Đăng theo hội kín? Biết đâu ông ấy vào Sài 
					Gòn lập nghiệp thật?
 Vươgn Luân đáp ngay:
 - Tại vì mật thám 
					lôi vợ con ông ấy lên thẩm vấn mãi! Cả mấy người bạn thân 
					cũng bị hạch sách suốt mấy tháng giời! Phán Quán cũng bị 
					hỏi. May mà chúng nó không ngó đến tôi!
 Rồi Vưong Luân phân 
					trần giùm bạn:
 - Đăng không phải là 
					người tệ. Chắc là đi bất ngờ nên mới thiếu tiền nhà hát! Thư 
					thả rồi tôi sẽ trả giúp món nợ ấy!
 Cả hai củng im lặng. 
					Rồi Vương Luân nhận xét bằng giọng ngậm ngùi:
 - Đang sống một cách 
					an lành, ăn chơi cũng thuộc loại có tiếng, thế mà bỏ hết, 
					băng rừng vượt suối để đi tìm cách mạng! Hay thật!
 Sau câu khen ngợi 
					kín đáo ấy, hai người im lặng đi bên nhau, mỗi người theo 
					đuổi một ý nghĩ riêng. Ngang qua rạp hát Vĩnh Lạc mới khai 
					trương cách đây gần hai năm, Vương Luân tự dưng phát biểu 
					một câu mà Minh thấy rõ là ông muốn giải tỏa mặc cảm trong 
					lòng. Ông bảo:
 - Muốn chống Tây, 
					chả nhất thiết là cứ phải chui vào hội kín bỏ nhà lên rừng 
					hoạt động. Mỗi người một cương vị, một hoàn cảnh. Viết báo 
					thư như anh em mình cũng là một cách mà có khi còn hữu hiệu 
					hơn là cầm súng bắn một thằng Tây! Cậu nghĩ có phải không?
 Minh đáp cho qua 
					chuyện:
 - Vâng! Thì mỗi 
					người một hoàn cảnh!
 Về gần tới nhà Minh 
					thì có chiếc xe kéo dừng lại mời. Vương Luân bắt tay Minh từ 
					giã, nói vài lời chúc Tết rồi leo lên xe. Minh đứng nhìn 
					theo một chút rồi thả bộ về. Từ xa, Minh giật mình nhìn thấy 
					cái Nhi con bà dì, đang đứng chờ anh trước cửa. Anh bước 
					nhanh lại. Cái Nhi lao tới và nói:
 - Anh đi đâu, để em 
					chờ mãi? May cho anh đấy! Anh mà về chậm một chút là em bỏ 
					về rồi!
 Dứt lời, Nhi cúi 
					xuống nhắc cái giỏ mây chất đầy quà bánh trong đó. Minh sửng 
					sốt kêu lên:
 - Ôi chao! Sao mà 
					cho anh nhiều thế này! Anh chả dám nhận hết đâu! Cô đem về 
					bớt đi, nói là anh có lời cảm ơn dì và cả nhà!
 Vốn tính hồn nhiên, 
					Nhi cười và bảo:
 - Mở cửa lên gác đi 
					đã. Rồi em nói chuyện!
 Minh đẩy cái cửa gỗ 
					và đỡ cái giỏ cho Nhi. Lên lầu, cô lấy quà ra bày hết lên 
					trên mặt bàn. Hai cái bánh chưng vuông, hộp mứt ngũ vị, một 
					cân giò gói lá chuối, một lò chè bọc trong giấy kín đỏ và 
					một chai rượu mùi. Quà Tết này thì hậu hĩ quá đối với một 
					thanh niên độc thân quanh năm đạm bạc. Minh nhắc lại một lần 
					nữa:
 - Sao mà năm nay dì 
					cho anh nhiều quá vậy? Mình anh ăn bao giờ cho hết! Đem về 
					bớt đi. Anh chỉ xin dì cái bánh chưng thôi!
 Nhi ngồi xuống mép 
					giường, cầm tờ báo phe phẩy quạt mồ hôi. Quãng đường khá xa, 
					cái giỏ nẵng trĩu làm ướt đẫm cả lưng áo. Cô nói:
 - Mẹ em chỉ cho anh 
					cái bánh chưng ngọt thôi! Bánh chưng nhà gói lấy, những thứ 
					khác là của người ta biếu cho anh, không phải của mẹ em!
 Minh tròn mắt ngạc 
					nhiên:
 - Người ta là ai? 
					Sao lại cho anh nhiều quà thế này?
 Nhi buông tờ báo, 
					chậm rãi nói:
 - Năm ngoái năm kia, 
					em cứ nghe mẹ kể mãi về cái việc anh đứng ra bên vực chị Lụa 
					ở Hải Ninh để làng khỏi bắt vạ chị ấy tội chữa hoang! Em đâm 
					ra tò mò muốn gặp chị ấy mà chả cách nào gặp được. Bỗng dưng 
					trưa nay chị ấy đến nhà em, đem quà Tết đến biếu anh!...
 Minh sửng sốt ngắt 
					lời:
 - Thật không? Cô nói 
					thật đấy chứ? Chị Lụa dưới Hải Ninh lên tìm anh?
 Nhi gật đầu nhấn 
					mạnh:
 - Không thật thì giả 
					ư? Em có biết chị ấy là ai đâu! Mẹ em biết, chứ em có mấy 
					khi về làng mà biết!... Chị ấy đi với chồng, lên tìm anh. Em 
					bảo anh không còn ở nhà em nữa...
 Minh lại sửng sốt 
					ngắt lời:
 - Đi cới chồng? Chị 
					ấy có chồng rồi ư? Lấy ai thế?
 Nhi nói cho hết cái 
					ý của mình:
 - Em định đưa anh 
					chị ấy lại đây gặp anh, nhưng chị ấy ngại. Chị ấy gởi quà 
					lại nhà em rồi về Hải Ninh ngay! Chị ấy dặn đi dặn lại em là 
					nhờ em gởi nhời cảm ơn anh!
 Minh lặng thinh ngồi 
					xuống ghế, nhớ lại cả một hoạt cảnh kỷ niệm hơn hai năm 
					trước. Chờ Nhi nói xong, Minh nhắc lại:
 - Có chồng rồi à? Lạ 
					nhỉ! Hay anh chồng ấy chính là bố đứa bé?
 - Vâng! Chứ còn ai 
					nữa! Anh ấy xem ra cũng hiền lành, nhắc mãi là nhờ em gởi 
					nhời cảm ơn anh! Hai người ngồi nói chuyện với mẹ em lâu 
					lắm!
 Minh mơ màng nhắc 
					lại:
 - Thế thì mừng cho 
					chị ấy! Cô có biết chồng chị ấy là ai không? Người Hải Ninh 
					hay người ở đâu?
 - Chứ còn người ở 
					đâu nữa? Nghe mẹ em bảo là con giai ông chánh tổng Hải Ninh 
					mà lại!
 Minh ồ lên một tiếng 
					rồi nói:
 - Thì ra là con trai 
					cụ chánh tổng! Dạo ấy sao không xong ra nhận quách cho xong? 
					Bây giờ mới nhận!
 Minh bỏ dở câu nói, 
					nhớ lại cái hôm chức sách Hải Ninh ngồi xử Lụa ngoài đình, 
					cụ chánh đã lớn tiếng quát nạt Lụa chữa hoang. Không ngờ 
					chính con trai cụ là thủ phạm! Cũng may nhờ có Minh phá đám, 
					Lụa không phải khai tên người đã ngủ với Lụa.
 Chứ giá hôm ấy Lụa 
					tiết lộ ngay ở sân đình thì cụ chánh chỉ có nước độn thổ! 
					Bất giác Minh mỉm cười và nói vu vơ:
 - Như thế cũng hay! 
					Hóa ra ngày ấy Minh không phải cứu chị Lụa mà là cứu con 
					trai cụ chánh! Hay là cụ chánh ngày ấy đã biết rồi mà còn 
					giả vờ xử án Lụa?
 Nhi chen vào: 
					- Như thế thì chắc 
					quà này là của ông chánh gởi biếu anh chứ chả phải của chị 
					Lụa!... Mẹ em bảo là hai người lấy nhau, ông chánh không 
					bằng lòng, nhưng họ cứ lấy. Ông chánh nổi giận đuổi con giai 
					đi! Thành thử bây giờ anh chị ấy đem nhau sang làng bên ở!
 Minh ngẫm nghĩ rồi 
					đưa ra nhận xét:
 - Có thể cụ chánh vì 
					xấu hổ với xóm làng nên mới phải đuổi con. Nhưng cụ giàu 
					lắm, thể nào chả chu cấp cho con. Không có vốn thì lấy gì đi 
					nơi khác lập nghiệp!
 - Nhi ngẩng lên hỏi:
 - Anh chắc biết con 
					giai cụ chánh chứ?
 - Biết! Anh Phú chứ 
					ai! Hơn anh độ hai tuổi. Anh ấy thì hiền lành thật, khác hẳn 
					tính bố... Nghĩ cũng thương cụ chánh, sáu người con chỉ có 
					mỗi anh Phú là con giai. Bao nhiêu hy vọng đặt vào đấy! 
					Không ngờ lại phải lòng chị Lụa đã có chồng có con rồi!
 - Nhưng chị ấy còn 
					đẹp lắm. Em mới gặp lần đầu mà em đã giật mình. Hai con mà 
					như thế thì hiếm lắm! Mẹ em bảo là chắc dạo này có của, nên 
					ngày càng đẹp ra! Đã chắc gì cưới người còn con gái mà được 
					như vậy! Em thấy anh chị ấy có vẻ hạnh phúc lắm!
 Minh nhấn mạnh:
 - Cô biết tính anh 
					mà! Anh luôn luôn chống lại mọi thủ tục khắc khe của các cụ, 
					trai tơ không được lấy gái góa! Thích ai thì cứ lấy, tại sao 
					lại cấm con trai không được lập gia đình với người đã có một 
					đời chồng?
 Bàn xong câu chuyện 
					hấp dẫn, Nhi nhìn ra cửa sổ rồi đứng dậy từ giã:
 - Em phải về đây! 
					Bao nhiêu việc ở nhà! Tết, anh nhớ lại nhà em chơi ở luôn ba 
					ngày Tết cho vui! ở đây một mình buồn chết!
 Minh đưa Nhi xuống 
					thang gác và bảo:
 - Anh gởi lời cảm ơn 
					dì. Tết thể nào anh cũng lại mừng tuổi cả nàh!
 Nhi đi rồi, Minh 
					chạy sang bên kia đường, ngồi nói chuyện với lão Sửu. Anh 
					định bụng Tết năm nay, đến nhà vui xuân với ông Sửu, anh sẽ 
					đem theo tất cả món quà mà Lụa vừa tặng cho anh.
 Tối ba mươi Tết, 
					Minh đang sửa soạn bàn thờ để cúng giao thừa thì nghe có 
					tiếng chân người bước nhanh lên gác. Cái cầu thang gỗ ọp ẹp 
					lâu ngày, nên dù bước đi có rón rén đến đâu, cũng không 
					tránh được tiếng động. Tay đang bưng đĩa mứt ngũ vị, Minh 
					đặt vội xuống bàn và đứng im chờ đợi. Anh cố đoán xem ai đến 
					thăm anh vào lúc năm cùng tháng tận này. Dù sao đây cũng là 
					một niềm vui trong lúc cô quạnh. Minh đợi không lâu vì chỉ 
					trong chớp mắt đã nghe tiếng gõ cửa. Minh an tâm vì biết 
					chắc không phải mật thám. Theo kinh nghiệm ngừơi đi trước kể 
					lại cho anh thì trước nhất, mật thám bắt người thường không 
					đi một mình, mà luôn kéo theo cả bọn đến vây từ tứ phía. Thứ 
					hia, bước chân mật thám cũng không bao giờ nhẹ nhàng, rón 
					rén, và không gõ cửa từ tốn. Chúng chỉ đập cửa một tiếng rồi 
					đạp tung cánh cửa xông vào. Sau cùng, mật thám thường ra tay 
					bắt người vào lúc nữa đêm về sáng khi nạn nhân đang say sưa 
					ngủ, chứ ít khi đến bắt khi ngoài đường còn nhiều người qua 
					lại.
 Vừa tháo then cửa, 
					Minh cừa cẩn thận hỏi :
 - Ai đấy?
 Bên ngoài đáp nhỏ:
 - Mở cửa Minh ơi! 
					Tôi đây!
 Nghe giọng nói quen 
					quen, Minh hé cánh cửa và giật mình nhận ra Viên. Minh vẫn 
					biết Viên là người hoạt động hết sức tích cực ở Thành Bộ, 
					nhưng anh không ngờ ngay cả đêm 30 Tết, khi mọi người đang 
					chuẩn bị cùng gia đình đón giao thừa thì Viên vẫn còn lặn 
					lội đi làm công tác cách mạng quên cả tháng ngày. Ý nghĩ ấy 
					làm Minh hết sức cảm phục. Anh nhìn Viên, nói như reo:
 - Trời ơi Viên! Mời 
					anh vào! Có việc gì mà anh tìm tôi vào giờ này?
 Viên dáo dác nhìn 
					xuống cầu thang như sợ có kẻ đang theo dõi. Rồi anh lách 
					nhanh vô và ấp úng nói:
 - Có việc gì đâu! 
					Lại thăm cậu thôi!
 Viên tự động ngồi 
					xuống mép giường. Dưới ánh đèn mờ, Minh nhận ra ngay những 
					nét lo âu trong đôi mắt Viên, trên khuôn mặt nhợt nhạt và 
					dường như toàn thân anh đang rung lên vì xúc động. Phải 
					chăng Viên vừa bị mật thám Pháp rượt bắt và anh đã thoát 
					hiểm trong đường tơ kẻ tóc? Minh tự hỏi rồi khép cửa, cài 
					then và kéo ghế ngồi đối diện Viên. Vừa ngồi xuống, Minh lại 
					đứng lên ngay để rót nước mời khách. Anh có bộ tách cũ chỉ 
					còn ba chiếc và cái ấm ủ đã rách lòi cả bông ra ngoài. Anh 
					bưng cóc nước trao cho Viên, từ tốn nói:
 - Anh uống tạm! nước 
					chè pha từ sáng, chắc đã nguội hết rồi!
 Viên run run đỡ ly 
					nước, đưa lên miệng uống cạn một hơi. Viên nhìn Minh ái 
					ngại. Ngay từ lúc Viên bước vào, Minh đã cảm thấy có chuyện 
					gì bất thường, bởi tuy cùng hoạt động trong Thành Bộ, nhưng 
					giao tình giữa Minh và Viên không gắn bó lắm, vì Minh làm 
					công tác độc lập. Viên lại rất bận với chi đoàn công nhân, 
					nếu không vì lý do đặc biệt nào đó thúc đẩy thì Viên không 
					đến tìm Minh trong đêm 30. Minh dè dặt hỏi:
 - Anh đến tìm tôi, 
					chắc có việc gì? Xin anh cứ cho biết!
 Viên khẽ gật đầu rồi 
					đưa mắt nhìn quanh nhà dù đã biết Minh sống chỉ có một mình. 
					Minh mở to mắt hồi hợp nhìn Viên. Viên chìa cái ly không ra 
					trước mắt Minh và nói nhỏ:
 - Cậu cho tôi xin 
					cốc nước! Tôi khát quá!
 Uống cạn tách thứ 
					nước thứ hai, Viên mới nhập đề:
 - Cậu cho tôi ở tạm 
					đây đêm nay, được không?
 Minh gật đầu:
 - Được chứ anh! Anh 
					ở đến bao giờ chả được! Nhưng có việc gì thế? Anh làm tôi lo 
					quá!
 Im lặng một chút, 
					Viên mới đáp lời:
 - Tôi giết thằng 
					Bazin rồi! Vừa mới giết xong!
 Minh há hốc mồm, 
					trợn mắt nhìn Viên, khá lâu mới nhắc lại:
 - Anh bảo sao? Anh 
					vừa giết thằng Bazin? Thằng mộ phu René Bazin?
 Viên ngước nhìn 
					Minh, khẽ gật đầu. Trong lòng Viên đang tràn ngập những cảm 
					giác phức tạp vàa hỗn độn. Một mặt, anh hãnh diện đã trừng 
					trị được một tên thực dân quái ác. Nhưng mặt khác, anh lại 
					sợ vì biết đâu nay mai mật thám sẽ tìm ra anh!
 Minh lặng người một 
					lúc rồi mới rót cho Viên cốc nước nữa. Anh kéo ghế lại sát 
					trước mặt Viên và chớp mắt nói:
 - Tôi nghe bảo, anh 
					có xin lệnh Tổng Bộ, nhưng Tổng Bộ không cho phép!
 Viên ngượng ngùng 
					đáp:
 - Đúng là anh Học 
					không cho phép. Nhưng giữa lúc Thanh Niên Đồng Chí Hội đang 
					ráo riết vận động lấy tình cảm quần chúng, nếu Quốc Dân Đảng 
					chúng ta không làm một cái gì để đáp lại lòng mong mỏi của 
					đồng bào thì chúng ta sẽ mất lợi khí tuyên truyền. Đồng bào 
					đang căm thù thằng René Bazin. Các đồng chí đại diện cho chi 
					đoàn công nhân đều thúc giục tôi thanh toán nó. Tôi làm việ 
					này hoàn toàn là vì đảng!
 Minh cãi:
 - Anh làm vì đảng, 
					nhưng đảng không cho phép, sao anh vẫn làm! Anh là ủy viên 
					Thành Bộ mà anh cãi lời đảng trưởng, anh cãi lời Tổng Bộ. 
					Nhỡ mai kia anh nhân danh Thành Bộ, ban bố ra mệnh lệnh, có 
					đồng chí nào cãi lệnh anh lúc ấy anh xử trí như thế nào?
 Viên không biết trả 
					lời ra sao, đành cúi đầu ngồi yên. Anh nhớ lại lúc được kết 
					nạp, anh đã long trọng tuyên đọc lời thề gồm bốn điều: " 
					Tuyệt đối trung thành với Đảng. Tuyệt đối phục tùng mệnh 
					lệnh Đảng. Tuyệt đối giữ bí mật của Đảng. Tuyệt đối hy sinh 
					cho công việc của Đảng. Nếu trái lời thề, tôi xin chịu tội 
					tử hình"! Anh đã vi phạm điều thứ hai, bất tuân mệnh lệnh 
					của đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Tổng Bộ!
 Minh đứng dậy, tiến 
					lại cửa sổ trong xuống con đường vắng khách bộ hành qua lại. 
					Những chiếc xe kéo thưa thớt chạy vội vã trong đêm trừ tịch. 
					Lác đác từ xa, đã nghe thấy tiếng pháo nổ lẻ tẻ như muốn 
					tóng khứ thật nhanh năm con Rồng đầy sóng gió để đón chào 
					Xuân Kỷ Tỵ với hy vọng sẽ an bình hơn.
 Minh đứng suy nghĩ 
					một lúc, rồi quay lại ngồi xuống chỗ cũ. Bằng tình đồng chí, 
					Minh đổi giọng hiền hòa hơn:
 - Anh Viên ạ! Đằng 
					nào chuyện cũng xảy ra rồi. Thôi thì cứ tạm gác lại, tạm 
					quên đi, xem như việc của năm cũ, không bận lòng nữa. Anh ở 
					đây đón Tết với tôi. Tôi chỉ có một mình, chẳng ai chú ý 
					tới. Anh ở đây là tiện hơn cả! Từ từ rồi nghe ngóng thế nào!
 Viên thở phào ngẩng 
					đầu lên nhìn Minh thầm ngỏ ý cảm ơn. Minh hỏi:
 - Anh ăn gì chưa? Có 
					đói không? Gác hết mọi chuyện, anh với tôi đón giao thừa! Cỗ 
					nhà nghèo! Có cái gì! Mình ăn cái nấy!
 Vừa nói Minh vừa lấy 
					bánh chưng và chai rượu mùi bày ra bàn. Viên cũng đứng dậy, 
					cố nở nụ cười để vui với bạn trong giờ phút tống cụ nghinh 
					tân, mặc dầu trong đầu anh vẫn còn đang hết sức hoang mang. 
					Minh rót rượu ra hai cái cốc, rủ Viên nâng ly, cùng uống 
					cạn. Chất men thấm nhanh, mấy phút sau, cả hia đều thấy lâng 
					lâng một cảm giác dễ chịu. Với óc tò mò cố hữu của một nhà 
					báo, Minh đột ngột quay lại đề tài cũ, hỏi Viên:
 - Đầu đuôi như thế 
					nào, anh kể cho tôi nghe đi!
 Viên buông đũa, đốt 
					điếu thuốc rồi chậm rãi nói:
 - Tôi kể cho cậu 
					nghe vì cậu vừa là đồng chí, vừa nhà báo. Mai kia nếu tôi có 
					mệnh hệ nào thì...
 Minh ngắt lời:
 - Anh chỉ nói dại!
 Viên gật đầu nhấn 
					mạnh:
 - Tôi nói thật 
					đó!... Nếu chẳng may tôi bị bắt, bị địch thủ tiêu hoặc phải 
					hy sinh tính mạng cho Đảng thì cậu phải ghi lại những điều 
					tôi kể với cậu hôm nay, để người sau biết được tường tận!... 
					Cậu còn nhớ hôm nọ tôi có dẫn một đồng chí đến đây, giới 
					thiệu với cậu...
 Minh ngắt lời:
 - Anh Lân phải 
					không? Tôi nhớ mà!
 Viên gật đầu. Anh 
					dụi điếu thuốc cháy dở vào tàn thuốc, rồi ngẩng lên kể.
 ... Chiều nay, 30 
					Tết, Ủy Viên Thành Bộ Hà Nội Nguyễn Văn Viên, hẹn hai đồng 
					chí Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung đến chợ Hôm, tức ngã 3 
					phố Huế và phố Hàm Long, nằm trong khu vực phía Đông Nam Hà 
					Nội, Nguyễn Đức Lung còn có cái tên gọi thân mật là Ký Cao, 
					để phân biệt với Ký Con, tức Đặng Trần Nghiệp cùng làm việc 
					ở Khách Sạn Việt Nam. Đặng Trần Nghiệp người nhỏ bé, dáng 
					thư sinh trắng trẻo, con ông thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc Hà 
					Nội. Năm 28 tuổi nghiệp vào bán hàng cho hiệu Gô-Đa. Hai năm 
					sau, 1928, gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng, làm thư ký tại 
					Khách Sạn Việt Nam. Vì dáng dấp nhỏ bé và ít tuổi nêm các 
					đồng chí gọi là Ký Con. Sau này, Khách Sạn Việt Nam bị giải 
					tán, Ký Con phụ trách ban ám sát của Đảng, chuyên trừng trị 
					những kẻ phản bội Đảng theo Pháp. Mật thám Pháp treo giải 
					thưởng 5000 đồng cho ai bắt được Ký Con. Thời ấy một đám nhà 
					quê chỉ tốn khoảng 15 đồng! Người Việt trung lưu mỗi năm có 
					lợi tức khoảng 168 đồng. Như thế đủ biết vai trò của Ký Con 
					quan trọng đến mức nào dưới mắt mật thám Pháp. Trở lại buổi 
					hẹn quan trọng tại phố Huế chiều 30 Tết giữa ba đồng chí 
					Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, và Nguyễn Đức Lung Ký Cao. 
					Phố Huế vốn trước đây là con đường thiên lý để lính chạy 
					trạm, đưa tin tức và lệnh lạc từ triều đình Huế ra Thăng 
					Long và ngược lại. Còn chợ Hôm có nghĩa là chợ chiều, chuyên 
					bán những thứ mà buổi sáng ế ẩm còn đọng lại. Chợ họp trên 
					khúc đường quanh co, ban đầu chủ yếu là các bạn hàng từ thôn 
					quê mang gà vịt bán cho các trại lính hoặc bỏ mối cho các 
					chợ lẻ để phân phác khắp nơi trong nội thành. Vì vậy khúc 
					đường ấy còn có tên gọi là Dốc Hàng Gà Chợ Hôm. Về sau chợ 
					họp suốt cả ngày, trở nên khu thị tứ sầm uất, nhưng người ta 
					vẫn giữ cái tên khởi đầu là Chợ Hôm bởi mọi người đã quá 
					quen với cái tên đó.
 Đi dọc Phố Huế, cả 
					ba người tới trước căn nhà số 110, gần ngã ba con đường nhỏ 
					tên là Maribel, đứng lảng vãng xa nhìn vào đó. Đó là căn nhà 
					của Germanei Carcelle, cô gái Pháp lai Việt xin đẹp, nhân 
					tình của gã thực dân mộ phu René Bazin mà Viên đã theo dõi 
					cả tháng nay. Germaine là nhân viên bán hàng hiệu Gô-Đa, một 
					cửa hàng nổi tiếng thuộc công ty Lucia chuyên bán các tạp 
					phẩm nhập cảng từ bên mẫu quốc. Gô-Đa nằm trên phố Tràng 
					Tiền mà người dân Việt quen gọi là phố Tây bởi phố ấy hầu 
					như chỉ dành riêng cho Pháp với những sinh hoạt tài chánh 
					quan trọng, tượng trưng cho sự phồn thịnh của thực dân. 
					Những ngân hàng, những khách sạn, những tiệm ăn, những rạp 
					hát, những công ty nhập cảng ô-tô và xe đạp, những cửa hàng 
					bách hóa sang trọng, đều nằm tại đây để phục vụ nhu cầu kiều 
					dân Pháp. Cũng chính tại phố Tràng Tiền này, căn nhà số 3 
					mang tên Poinsard et Veyret, chuyên nhập cảng kim khí, máy 
					móc, là nơi Nguyễn Văn Viên đứng bán hàng từ mấy năm nay. Từ 
					chỗ Viên làm, đi bộ thêm vài chục căn nữa trên phố Tràng 
					Tiền, đến căn nhàsố 58 là tư thất của tên mộ phu René Bazin 
					mà tối nay Viên dự trù sẽ thanh toán. Để khời sự kế hoạch 
					này, Viên tính toán rất chu đáo. Anh được biết trong kho 
					hàng củaPoinsard et Veyret có cất giấu một số vũ khí và anh 
					quyết định lấy cắp một khẩu súng lục với mấy viên đạn, giao 
					cho Lân tập bắn để dùng cho buổi hẹn hôm nay. Viên biết rõ 
					nhà Bazin. Nhưng phố Tràng Tiền là nơi đô hội, Pháp kiều 
					quá đông mà cảnh sát sắc phục cũng như mật thám lúc nào cũng 
					đi tới đi lui, không thể ra tay được. Rất may là cứ mỗi buổi 
					chiều, sau khi hết giờ làm việc, Bazin thường xuống phố Chợ 
					Hôm thăm người tình, có khi ở lại ăn cơm tối, khuya mới mới 
					về. Biết rõ đường đi nước bước như thế, chiều nay Viên hẹn 
					hai đồng chí đến chờ từ lúc nhá nhem tối.
 - Chiều 30, bạn hàng 
					vắng dần. Hầu như ai cũng vội vã trở về chuẩn bị đón giao 
					thừa. Đối diện căn nhà của Germaine phía bên kia đường, sát 
					ngã ba phố harmand, có cái miễu nhỏ nắm dưới gốc cây già, 
					chiều nay khói hương nghi ngút bốc lên. Quanh năm ở đó có 
					những ông bà thầy bói ngồi trên chõng đoán số cho khách hiếu 
					kỳ cầu vận may. Năm cùng tháng tận, một số bạn hàng còn nán 
					lại, gieo quẻ cuối cùng trong năm Thìn để hy vọng một tương 
					lai tốt đep hơn sang năm Tỵ.
 Cây si già cằn cõi 
					âm u, ngôi miếu nhỏ khói hương trầm mặc, khách đứng ngồi rãi 
					rác xem bói, vài gánh hàng rong bày biện trước miếu, tất cả 
					góp chung lại thành một cảnh sinh hoạt khá nhộn nhịp, rất 
					thuận tiện cho ba đồng chí Lân, Lung, và Viên đứng trà trộn 
					để nhìn sang nhà của nhân tình Bazin. Ngay từ lúc mới tới, 
					Viên đã nhận ra chiếc xe ô-tô màu xanh đậm của Bazin đậu 
					phía bên kia đường, từ trong nhà cô Germaine có thể trong 
					thẳng ra mồn một. Gã tài xế đứng thơ thẩn trên lề,, cạnh đầu 
					xe, phì phèo hút thuốc. Nhìn nét mặt điềm tĩnh đến lạnh lùng 
					của Lân, Viên ghé dặn dò Lân mấy câu rồi thả bộ sang căn phố 
					bên cạnh miễu. Đó là tiệm thuốc lào khá lớn. Anh toan bước 
					vào, nhưng thấy trong hiệu không có ai, anh lại đi thẳng, 
					đưa mắt lơ đãng nhìn hai bên đường, cố trấn áp nỗi xúc động 
					trong lòng. Lâu lâu, anh liếc nhìn Lân và Lung đứng bên cạnh 
					miễu, khẽ gật đầu mỉm cười ra vẻ bình thản để hai đồng chí 
					yên tâm.
 Trời tối dần, người 
					cũng thưa dần. Thời gian dường như trôi qua quá chậm. Khoảng 
					8 giờ, Viên trở lại sau miễu bên cạnh hai đồng chí, sốt ruột 
					vì Bazin vẫn chưa ra. Nguyễn Văn Lung rút trong túi áo ra, 
					cái phong thư có đóng dấu hãng tàu Bạch Thái Bưởi, cầm sẵn 
					trên tay.
 Phong bì ấy chỉ đựng 
					có một trang giấy viết mấy hàng kết án Bazin, nhưng dùng 
					giấy tờ của công ty Bạch Thái Bưởi để Bazin chú ý vì họ Bạch 
					lúc ấy là một nhà doanh nghiệp lừng lẫy mà cả Pháp lẫn Việt 
					đều nghe danh .danh. Bạch Thái Bưởi nguyên là họ Đỗ, con 
					nhà nghò ở Hà Đông, làm nghề bán hàng rong nuôi mẹ. Nhờ 
					được một người nhà giàu họ Bạch nhận làm con nuôi và cho đổi 
					họ, lớn lên Bạch Thái Bưởi làm thư ký cho hãng buôn Pháp, gây dựng vốn liếng rồi lao vào khai thác hầm mỏ và tàu thủy, trở thành nhà thưong mại tài tình bậc nhất của người Việt 
					vào đầu thế kỷ.
 Ba người đang thì 
					thầm nói chuyện thì bên kia đường, Bazin từ trong nhà nhân 
					tình bước ra, đội chiếc mũ đen lên đầu, tiến lại xe. Gã 
					tài xế vội vàng quăng điếu thuốc, chạy lại mở cửa sau. Cô 
					Germaine thì đứng thập thò trong khung cửa, đưa tay vẫy 
					Bazin. Lập tức Viên vỗ nhẹ vào lưng Nguyễn Đức Lung.
 Lung chạy lao qua 
					đường. Trước khi chui vào xe, Bazin còn quay lại chào 
					người yêu. Lung đến trước mặt, trao chiếc phong bì và nói 
					bằng tiếng Pháp :
 - Thưa ông ! Có 
					người gửi cho ông bức thư này !
 Bazin ngơ ngác đỡ lấy, bốc ngay ra xem. Bên này đường, Viên 
				lại vỗ vai Nguyễn Văn Lân, lập tức Lân chạy vụt qua, tay phải 
				thò vào ngực, cầm sẳn khẩu súng. Viên cũng chạy theo sang để 
				hỗ trợ tinh thần và để phòng có gì trục trặc. Vừa lúc ấy, chủ 
				tiệm thuốc lào kế nhà Germaine đem bánh pháo khá dài ra trước 
				sân châm đốt. Lát đát xa xa cũng bắt đầu vang vọng tiếng pháo 
				đêm trừ tịch. Trời mờ tối, Bazin còn đang trố mắt đọc lá thư 
				thì Lân đã đến trước mặt rút súng bắn thẳng vào mặt Bazin. Gã 
				té quị xuống, Lân bắn bồi thêm hai phát nữa rồi mới bỏ đi. Phố 
				xá ít ai nghe được tiếng súng vì pháo vẫn nổ ran. Chỉ có cô 
				nhân tình kêu rú lên và bỏ chạy vào nhà, khép chặc cửa lại. Gã 
				tài xế thì mặt tái mét, không biết phản ứng thế nào, đành 
				luống cuống mở cửa xe chui vào ngồi chết cứng trước vô-lăng.
 Thi hành xong nhiệm 
					vụ, cả ba chạy thụt vào con đường nhỏ hai bên còn là bãi 
					đất trống tăm tối với ao hồ chằng chịt. Con đường nhỏ ấy 
					Pháp đặt tên là Harmand, tên của một vị bác sĩ Pháp từng 
					đại diện Pháp ký hòa ước với triều đình Huế năm 1873. Ba 
					đồng chí chia tay nhau ở khúc đường này, mỗi người đi một 
					hướng khác nhau. Riêng Nguyễn văn Viên thì chạy lại Thôn 
					Giáo Phường, tới nhà một đồng chí ở Phố Goussard, tức Chợ 
					Đuổi, thay bộ quần áo khác, để đề phòng có người đã nhận 
					diện được Viên lúc thi hành bản án. Bộ quần áo ấy ,Viên 
					được đồng chí Lê Thành Vỵ gói lại và quăng xuống hồ. Sau 
					khi thông báo cho Lê Thành Vỵ biết đầu đuôi câu chuyện, Viên bỏ đi ngay vì Vỵ là một nhân vật nổi tiếng của Quốc Dân 
					Đảng, có mặt bên Nguyễn Thái Học từ ngày thành lập Nam Đồng 
					Thư Xã. Tư gia của Lê Thành Vỵ từng dùng làm hội trường 
					khai sinh Việt Nam Quốc Dân Đảng đêm lễ Noel năm 1927. Lê 
					Thành Vỵ cũng là người góp phần mượn vốn để khai thác khách 
					sạn Việt Nam, đồng thời chính anh cũng đứng tên xin giấy 
					phép cho thuê phòng trọ và bán rượu khai vị tại khách sạn. Nói chung Lê Thành Vỵ là một nhân vật nổi tiếng, giữ thế 
					công khai và hợp pháp để làm việc cho đảng, bởi thế Viên 
					thấy mình không thể nán lại, có thể gây nguy hiểm cho cả 
					hai người. Minh sống một mình trong xóm Khâm Thiên, ít ai 
					chú ý. Với mật thám Pháp, Minh là một bóng mờ chưa bị theo 
					dõi. Pháp chỉ biết Minh là một nhà báo đấu tranh cho độc 
					lập, nhưng có thể chưa biết Minh là đảng viên Quốc Dân Đảng, tạm thời đến đó là an toàn hơn cả !
 Viên kể xong câu 
					chuyện, cúi đầu nhìn xuống sàn nhà ra vẻ trầm tư. Minh 
					cũng yên lặng ngẫm nghĩ, mắt nheo lại 
				vì khói thuốc.
 Minh gắp thêm bánh 
					chưng vào bát cho Viên rồi hỏi :
 - Anh bảo là sau khi 
					giết chết Bazin, anh tạt vào gặp anh Trác, rồi qua cả nhà 
					anh Vỵ. Như thế có nghĩa là các anh ấy đều biết trước kế 
					hoạch giết Bazin của anh ?
 Viên gật đầu nhấn 
					mạnh :
 - Biết chứ !
 - Và họ tán thành kế 
					hoạch ấy ?
 - Tất nhiên rồi !
 - Thế anh có nói cho 
					họ biết là anh xin lệnh Tổng Bộ mà Tổng Bộ phản đối không ?
 Viên cúi đầu ngẫm 
					nghĩ một chút rồi trả lời bằng giọng ngậm ngùi :
 - Thấy anh em hăng 
					hái quá, tôi không muốn làm họ thất vọng, nên tôi giấu họ. Tôi nghĩ bụng : Thôi thì mình cứ làm, rồi tôi sẽ lên gặp 
					anh Học và nhận lỗi với tổng bộ !
 Minh yên lặng nhìn 
					Viên. Trong khoảnh khắc, lòng anh chỉ còn lại sự cảm phục 
					mà quên hết những ý tưởng trách cứ với người đồng chí đã quá 
					nhiệt tình với đất nước và vì danh dự của đảng. Minh ân cần 
					bảo Viên :
 - Thôi, anh cứ ở 
					lại đây với tôi, nghe ngóng tình hình rồi mai tính sau !
 Viên cảm động gật 
					đầu. Tuy vậy, sáng hôm sau, mùng một tết Kỷ Tỵ, Minh 
					choàng dậy thì thấy Viên đứng ở cửa số ngó ra đường, khói 
					thuốc bay tỏa mịt mù. Minh vừa bước xuống giường thì Viên 
					quay lại bắt tay, nói vài lời chúc xuân rồi từ giã. Bước 
					ra thanh gát, Viên nghiêm nghị dặn :
 - Những gì tôi kể 
					với cậu tối hôm qua, xin cậu để bụng !
 Minh gật đầu nhấn 
					mạnh :
 - Anh chả phải dặn ! 
					… Nhưng bây giờ anh định đi đâu ?
 Viên cười buồn :
 - Chính tôi cũng 
					chưa biết sẽ đi đâu. Nhưng cứ đi đã !
 Minh đứng nhìn theo 
					Viên lầm lũi bước xuống từng bậc cầu thang cho đến khi anh 
					ta ra khuất hẳn ngoài lề đường, Minh mới thở dài quay vào. Nghĩ đến ông Sửu, Minh phân vân chẳng biết có nên theo ông 
					về nhà ăn Tết hay không ? Giữa tình hình nghiêm trọng này, đầu óc nữa đâu mà vui chơi ! Biết trước nằm nhà cũng không 
					yên, Minh rửa mặt qua loa rồi vội vã thay quần áo chạy đi 
				tìm vài đồng chí trong tổ đảng để dò la tin tức về cái chết của 
				Bazin.
 Ba ngày Tết trôi đi 
					với bao nhiêu hồi hộp trong lòng Minh. Anh không gặp lại 
					Viên, cũng không hề cho ai biết là Viên đã đến căn gát của 
					anh sau khi giết Bazin. Mùng bốn Tết Kỷ Tỵ tức ngày 13 
					tháng 2 năm 1929, báo chí Hà Nội mới loan tin René Bazin bị 
					ám sát. Dù chưa biết nguyên do gì gã bị thanh toán và cá 
					nhân nào, tồ chức nào thanh toán gã, Pháp kiều Hà Thành 
					cùng hết sức hoang mang và kinh sợ. Mật thám Pháp lập tức 
					tung nhân viên đi điều tra khắp nơi để thu thập tin tức và 
					ngày mùng 8 Tết, mới 5 giờ sáng, chúng càn quét đợt đầu 
					tiên, bắt được một số ủy viên trung ương của Tổng Bộ Việt 
					Nam Quốc Dân Đảng. Rất may là Nguyễn Thái Học và Nguyễn 
					Khắc Nhu được báo động kịp thời, trốn thoát cửa sau. 
				Khách sạn Việt Nam bị chính quyền thực dân đóng cửa từ đó.
 Chỉ một thời gian 
					ngắn sau, số đảng viên Quốc Dân Đảng bị bắt lên đến 227 
					người, trong đó hầu hết những nhân vật quang trọng lãnh đạo 
					tổng bộ, thành bộ và các tỉnh bộ đều sa lưới, 
				trong đó có cả Lê Thành Vỵ và Nguyễn Thái Trác.
 Tin dữ đưa đến dồn 
					dập, Minh thấp thỏm lo âu như ngồi trên đống lửa. Chỉ còn 
					một chút an ủi là đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc 
					Nhu chưa bị bắt. Nghe đồn cả hai đả bỏ Hà Nội sang Bắc Ninh. Ông Sửu ưu tư bảo Minh :
 - Thầy đừng lai vãng 
					đến bất cứ nhà ai quen trong lúc này. Tôi độ chừng nhà nào 
					cũng có mật thám theo dõi, thầy đến là chúng nó vồ ngay. Ngày ngày thầy chỉ nên đến tòa báo làm việc rồi về thẳng nhà. Cẩn thận hơn thì thầy tìm cách đi xa, cho qua cái cơn 
					sóng gió này. Cả tháng nay mà chúng nó chưa thăm hỏi đến 
					thầy thì chắc là tên thầy không có trong sổ đen của mật thám 
					!
 Minh gật đầu cám ơn. Anh nhớ lại những 
				lời ông Sửu dặn trước đây và càng thấy những điều tiên đoán của 
				ông thật là chính xác.
 Mười mấy năm trước, Nguyễn Khắc Cần của Quang Phục Hội giết được hai tên lính 
					Pháp thì Pháp bắt nhốt và tra tấn dã man 254 người. Bây giờ, Nguyễn Văn Viên giết được một thằng Tây mộ phu, Pháp bắt 
					227 người gồm toàn yếu nhân, làm lung lay tận gốc ngôi nhà 
					Việt Nam Quốc Dân Đảng đang trên đà xây dựng nền móng tốt 
					đẹp ! Phải chứng kiến những phương thức tra tấn cực kỳ dã 
					man của mật thám Pháp, thì mới thấy được chỉ cần một bất 
					cẩn nhỏ của đảng viên, cũng đủ gây sức tác hại khôn lường 
					cho tổ chức ! Bà Andrée Viollis, nữ ký giả Pháp, đi cùng 
					phái đoàn bộ thuộc địa sang nước ta thời ấy đã uất hận ghi 
					lại trong cuốn “Indochinois S.O.S” một vài cảnh tra tấn các 
					nhà ái quốc Việt Nam mà bà đã được nhìn tận mắt. Chẳng hạn 
					như treo ngược người và đổ xà-bông vào mũi, rạch nhiều vết 
					dao ở lòng bàn chân rồi nhét giẻ hoặc bông gòn vào và tẩm 
					xăng đốt, hoặc lấy kềm kẹp hai bên má cho con mắt bật ra 
					ngoài. Nữ tù nhân bị chúng lột quần áo, bắt nằm ngữa trên 
					sàn rồi một thằng tây vạm vỡ cưỡi xe đạp cán ngang lên bụng 
					hàng chục lần ! Chính vì vậy, người ta cho rằng năm 1929 là 
					thời kỳ mà thực dân Pháp để lộ bộ mặt tàn ác nhất trong suốt 
					gần 100 năm cai trị. Ngoài miệng, Pháp giương cao khẩu 
					hiệu khai hóa văn minh cho dân Việt, nhưng kỳ thực chúng áp 
					dụng những thủ đoạn man rợ còn hơn cả thời quân chủ của nước 
					ta.
 Sau cái chết của 
					Bazin, màng lưới khung bố và truy lùng của mật thám Pháp 
					giang ra rộng lớn và tinh vi quá, các nhân vật chủ chốt của 
					Quốc Dân Đảng cứ lần lượt sa bẫy. 
				Một số cơ quan bí mật của đảng cùng hàng loạt chi bộ địa phương 
				bị phá vỡ.
 Hung tin đưa đến 
					liên tục, cứ hết người này đến người kia bị bắt, làm Minh 
					hoang mang trăn trở, đi ra đi vào, nhớn nhác nhìn quanh mà 
					không biết phải làm gì. Ngày ngày, anh vẫn đến tòa báo, giả vờ cặm cụi làm việc, ít nói chuyện với ai về thời cuộc. Nhưng đêm đêm trên căn gát đìu hiu, Minh thao thức lăn 
					qua lăn lại, không tài nào ngủ được. Mà hễ cố thiếp đi một 
					chút thì lại giật mình choàng dậy như lạc vào cơn ác mộng. Lo lắng quá đôi khi nghĩ quẩn, 
				Minh đâm ra oán trách các đồng chí nông nổi giết chết Bazin làm 
				liên lụy đến biết bao nhiêu người.
 Mấy đồng chí cùng tổ 
					đảng với Minh ở thành bộ, hình như cũng đã sa lưới hoặc bỏ 
					trốn khỏi Hà Nội, vì Minh chẳng gặp được ai từ hôm mùng 4 
					Tết. Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Đức Lung, Nguyễn Văn Lân, tất cả đều không còn làm ở sở cũ. Thậm chí tại hiệu ăn bình 
					dân mà một số các đồng chí thường ăn cơm tháng để có dịp gặp 
					nhau. Minh ghé qua hai hôm liền, đều chẳng thấy ai nữa 
					!Tổng bộ ngày trước nằm ngay tại khách sạn Việt Nam ở phố 
					Hàng Bông Đệm, khi cần kíp, Minh có thể đến đó liên lạc để 
					xin chỉ thị, giờ này mật thám giăng đầy trong ngoài, đảng 
					viên không ai dám lai vãng đến gần. Các nhà văn, nhà báo 
					đàn anh như Nhượng Tống, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khuê, Ngô Thúc Định, đều đã vào nằm trong Hỏa lò. Nhiều người, tên tuổi rất quen, Minh từng có dịp tiếp xúc về nghề nghiệp, nhưng mãi cho đến khi họ bị bắt, 
				Minh mới biết họ cùng là đảng viên Quốc Dân đảng.
 Không biết tính sao, Minh chỉ tìm đến tâm sự với ông Sửu. Mấy ngày tết vui 
					chơi ở nhà em gái ông, làm tình thân giữa ông và Minh càng 
					gắn bó hơn. Nhưng ngày vui qua mau, từ đầu năm đến giờ mỗi 
					lần gặp nhau là mỗi lần chia sẻ những lo âu dày đặc, 
				mặc dù ông Sửu không phải là người của đảng.
 Một buổi sáng cuối 
					tháng 4, Minh từ căn gát xuống, cầm tờ báo chạy sang uống 
					trà với ông Sửu. Hôm qua ở tòa soạn, anh lại được tin một 
					cơ quan của Quốc Dân Đảng ở phố Hàng Bạc bị mật thám xông 
					vào bắt đi ba đồng chí. Bản tin làm Minh cả đêm không ngủ 
					được. Anh tự hỏi chẳng biết bao giờ tới phiên mình ? Ông 
					Sửu đang ăn dở gói xôi lạc, nghe Minh kể, rưng rưng như 
					sắp khóc, ngậm ngùi bảo Minh :
 - Tình hình bi đát 
					lắm thầy ạ ! Thầy không nói tôi cũng biết. Việt Nam Quốc 
					Dân Đảng đến vỡ mất thôi ! Bị bắt nhiều quá ! Bao nhiêu nhân 
					tài vào tù hết …
 Ngừng một chốc, ông 
					tiếp :
 - Không khép thầy 
					phải liệu thu xếp mà đi xa một chuyến. Đi đâu cũng được ! 
					Về quê chẳng hạn, tránh cái khí thế của mật thám lúc này 
					đang nhắm vào các cơ quan đầu não của Quốc Dân Đảng tại Hà 
					Nội !
 Minh đăm chiêu nói :
 - Tự dưng bỏ đi, sợ 
					chúng còn nghi thêm !
 Ông Sửu nhìn đôi mắt 
					đỏ ngầu vì thiếu ngủ của Minh, tội nghiệp nói :
 - Sao thầy không xin 
					tòa báo cái giấy giới thiệu đi công tác. Chẳng hạn như xin 
					xuống Hải Phòng viết reportage về phu khân vác ở bến tàu. Hoặc sang Hưng Yên viết ký sự về lũ lụt. Bên ấy mới vỡ đê 
					năm ngoái … Ấy là tôi đề nghị thế thôi ! Tùy thầy !
 Minh giật mình nhìn 
					ông Sửu ngầm bày tỏ lòng biết ơn về sáng kiến của ông. Anh 
					thở phào, vui mừng đáp :
 - Vâng ! Chắc là tôi 
					phải nghe lời ông ! Đúng đấy ! Nên lánh mặt một thời gian 
					chờ tình hình lắng dịu lại !
 Nói rồi, Minh vội 
					vàng chào ông Sửu, đứng dậy, quay lên gát trọ. Anh phải 
					viết cho xong tập bản thảo để mang lại tòa báo rồi mới xin 
					giấy giới thiệu đi công tác. Có lẽ anh sẽ đi Hưng Yên, 
				nhân tiện về thăm nhà một đôi ngày.
 Mấy hôm sau, Minh 
					ghé thăm bà dì theo thông lệ cứ hai tháng một lần, ăn bữa 
					cơm gia đình và thăm hỏi chuyện xóm làng dưới Hải Ninh. Nhưng mới từ Khâm Thiên rẽ sang Rue Soeur Antoine tức phố 
					Hàng Bột thì tình cờ Minh thấy một người đàn ông mặc âu phục, đầu đội nón bọc vải kaki, đáp xa từ con hẽm nhỏ quẹo ra. Nhìn kỷ thì hóa ra Lê Hữu Cảnh, một đồng chí lớn tuổi mà 
					Minh hết sức nể phục. Minh không biết Cảnh giữ chức vụ gì 
					trong đảng, nhưng lần nào gặp Cảnh, Minh cũng thấy ông đi 
					bên cạnh vài đồng chí ở tổng bộ. Giờ đây, giữa lúc đang 
					hoang mang và cô đơn, bất chợt gặp được Cảnh, Minh mừng 
					quá nhớn nhác nhìn quanh rồi chạy theo gọi :
 - Anh Cảnh, anh 
					Cảnh ơi !
 Cảnh thòng một chân 
					xúông đất, kéo lê bàn chân trên mặt đường vì xe không có 
					thắng. Anh tắp vào lề ở một khoảng đất trống rồi ngoái cổ 
					nhìn lại người vừa gọi mình và gật đầu. Hai bên đường, nhà 
					cửa còn rất thưa thớt. Thỉnh thoảng mới có chiếc xe kéo 
					chạy qua. Cảnh đạp rướn lên mấy thước, dừng lại dưới một 
					tàn cây rồi đứng chờ Minh. Minh chạy tới, nở nụ cười chào 
					Cảnh một lần nữa :
 - Anh Cảnh, em Minh 
					đây. Còn nhớ em không ?
 Minh hỏi vậy thôi 
					chớ dĩ nhiên Minh biết Cảnh không thể quên mình được bởi đã 
					gặp nhau nhiều lần và có đêm Minh đã ngồi đến gần sáng để 
					nghe Cảnh kể những mẫu chuyện cười ra nước mắt hồi Cảnh còn 
					đi lính cho Tây. Hơn thế nữa, hồi chưa giết Bazin, có một 
					bận Cảnh cùng đi với Viên đến căn gát trọ của Minh, ngồi 
					bàn khá lâu về nội dung một tờ truyền đơn mà Viên nhờ Minh 
					thảo. Cái hình ảnh mà Minh nhớ nhất ở Cảnh là lúc nào trong 
					túi cũng có cỗ tràng hạt và đêm dù có thức khuya đến đâu thì 
					trước khi đi ngủ Cảnh cũng ngồi đọc kinh một lúc. Nói chung, 
				trong số các đàn anh ở tổng bộ thì Cảnh là người mà Minh lúc nào 
				cũng ngưỡng phục.
 Cảnh cầm nón quạt mồ 
					hôi vànở nụ cười hỏi :
 - Cậu đi đâu lang 
					thang ra đây ? Vẫn ở Khâm Thiên đấy chứ ?
 Vừa nói, Cảnh vừa 
					leo xuống dựng xe đạp ghếch vào gốc cây. Thoáng trong chốc 
					lát, Minh nhận ngay ra nét lo âu nặng trĩu trên khuôn mặt 
					Cảnh khiến Minh tắt hẳn nụ cười vì biết Cảnh cũng đang mang 
					cùng một tâm trạng như mình. Minh dè dặt nói :
 - Vâng. Em vẫn ở 
					đấy ! Em cứ tưởng anh không còn ở Hà Nội nữa ! Gặp anh, em 
					mừng quá !
 Cảnh nhìn quanh hai 
					bên đường. Thấy không có một bóng người nào qua lại, Cảnh 
					mới kéo tay Minh vòng ra sau bụi cây, ở đó có một mô đất 
					bằng phẳng, phủ lớp cỏ cháy vàng khô. Anh ngồi xuống và 
					tiếp tục cầm cái mũ quạt mồ hôi. Minh cũng ngồi ngay bên 
					cạnh và nhập đề :
 - Hơn hai tháng nay, em không ăn ngủ được …
 Cảnh buồn rầu ngắt 
					lời :
 - Vụ ám sát thằng 
					Bazin chớ gì ! Tôi nghe bảo mấy đồng chí dưới thành bộ tự ý 
					giết nó, không xin lệnh tổng bộ, làm vạ lây cho cả đoàn 
					thể. Mật thám Pháp nhân vụ này, lấy cớ để tiêu diệt mình ! 
					… Nhưng thôi, việc lỡ rồi ! Trách các đồng chí ấy cũng 
					chẳng ích gì ! Có điều, tình hình lúc này căng lắm ! Tổng 
					bộ phải di chuyển liên miên, nhất là anh Học và anh Nhu, không dám ở yên một chỗ !
 Minh hồi hộp gật đầu 
					:
 - Em cũng đoán thế ! 
					Anh chưa bị bắt là may đấy ! Em tưởng anh không còn ở Hà Nội 
					! Hôm nọ em định lại công xưởng hỏa xa tìm anh, nhưng lại 
					đã bị lộ tông tích, chúng nó cài người mai phục … Hôm nay 
					anh không đi làm ư ?
 Cảnh ngắt lời :
 - Tôi mới ở trên Bắc 
					Ninh về, liên lạc với một số đồng chí còn ở nội thành. Nói 
					đúng ra, những người làm việc cho nhà nước bảo hộ như tôi, anh Phó Đức Chính và cánh nhà giáo, thì dù sao mật thám 
					cũng ít để ý hơn. Vì vậy, anh Học mới bảo tôi về đưa tin 
					cho các đồng chí ở Hà Nội biết … Còn cậu thì sao ?
 Minh ưu tư đáp :
 - Chính em cũng đang 
					định hỏi anh. Em có nên nán lại Hà Nội không ? Bị bắt nhiều 
					quá em cũng đăm lo. Chả biết ngày nào tới phiên mình !
 Cảnh nhíu mày hỏi 
					lại :
 - Sao nghe bảo cậu 
					được ông nhà báo nào người Pháp đỡ đầu, nhận làm con nuôi 
					kia mà ! Như thế thì chắc cũng chả đến nỗi nào !
 Minh chớp mắt đáp :
 - Vâng ! Quả có thế 
					! Nhưng ông ấy về Paris rồi ! Vả lại, dù ông ấy còn ở đây 
					thì cũng chả dám đứng ra bảo lãnh em khi biết em tham gia 
					Quốc Dân Đảng ! Ông ấy tuy là nhà báo tiến bộ thật. Nhưng 
					quyền lợi của nước người ta bao giờ chả ưu tiên !
 Im lặng một chút, Cảnh hỏi :
 - Thế cậu có thường 
					xuyên liên lạc với tổ đảng của cậu không ?
 Minh gật đầu nhấn 
					mạnh :
 - Có chứ anh ! Nhưng 
					chả gặp ai cả ! Từ hôm sau tết đến bây giờ, mỗi người trốn 
					một nơi. Dạo trước thì cứ mỗi tuần gặp nhau một lần, chưa 
					kể thỉnh thoảng anh Viên vẫn ghé em giao công tác. Hai 
					tháng nay thì không thấy tăm hơi gì nữa !
 Cảnh im lặng thở dài. Ngẫm nghĩ một lúc, Cảnh đề nghị :
 - Cậu muốn theo tôi 
					sang Bắc Ninh không ? Bên ấy cơ sở của mình đông lắm. Đông 
					mà an toàn vì được quần chúng hết lòng che chở. Nếu cậu 
					thấy ở lại Hà Nội căng thẳng quá thì cậu đi với tôi một 
					chuyến cho khuây khỏa !
 Minh mừng rỡ đáp :
 - Anh cho em theo 
					thì em đi ngay ! Bao giờ đi hở anh ?
 Cảnh đứng dậy đáp :
 - Ngày kia ! Hôm nay 
					với ngày mai tôi phải giải quyết một số công việc. Hẹn cậu 
					ngày kia !
 Rồi Cảnh cho Minh 
					điểm hẹn, giờ giấc và dặn Minh :
 - Đi tay không, đừng mang gì cả ! Càng nhẹ nhàng càng tốt ! Ngộ nhỡ có phải 
					…
 Minh gật đầu nhấn 
					mạnh :
 - Vâng ! Em hiểu ý 
					anh ! … Thôi cứ thế anh nhé ! Ngày kia em gặp anh !
 Cảnh đặt hai bàn tay 
					lên vai Minh, bấu mạnh, rồi từ sau bụi cây, anh tiến ra, dáo dát nhìn tứ phía trước khi leo lên xe đạp, 
				rướn người lao đi.
 Đúng ra thì Cảnh 
					không có quyền rủ Minh cùng đi công tác với Cảnh, bởi Minh 
					không phải người của tổng bộ. Nhưng mấy tháng nay các đồng 
					chí trung ương ủy viên bị bắt quá nhiều Cảnh nghĩ đến việc 
					phải bổ xung nhân sự, cho nên ông dự trù sẽ giới thiệu Minh 
					với Nguyễn Thái Học, mặc dù Minh cũng đã từng gặp Nguyễn 
					Thái Học vài lần. Từ sau đại hội tháng 4 ở Lạc Đạo, bộ 
					tham mưu bên cạnh Nguyễn Thái Học hầu như lúc nào cũng có Sư 
					Trạch, Nguyễn Thị Giang, Phó Đức Chính, Ký con Đặng Trần 
					Nghiệp và Lê Hửu Cảnh. Năm nay Lê Hửu Cảnh đã 34 tuổi, nghĩa là lớn nhất trong nhóm, lại từng trãi, có thời sống 
					bên Tây, cho nên được coi là quân sư thân cận của đảng 
					trưởng. Thậm chí hôm từ Phú Thọ về, đi ngang đền Hùng, Cảnh từng bàn với Phó Đức Chính và Ký Con, yêu cầu đảng bộ 
					đứng ra làm lễ kết hôn cho Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị 
					Giang, vì Học đã ly hôn với người vợ thời thơ ấu do cha mẹ 
					sắp đặt là Nguyễn Thị Cửu tại quê nhà. Với vị thế đắc lực 
					của mình, Cảnh tin rằng Nguyễn Thái Học sẽ chấp thuận yêu 
					cầu của Cảnh, cất nhắc Minh lên làm việc 
				cho tổng bộ và các đảng viên gốc nhà văn nhà báo có tên tuổi đều 
				bị bắt hết.
 Hai hôm sau, đúng 
					hẹn, Minh gặp Cảnh ở nhà ga. Đó là lần đầu tiên Minh đến 
					địa giới tỉnh Bắc Ninh, nơi xuất thân nhiều nhà cánh mang 
					đương thời. Chính ở tỉnh này, giữa năm 1927 khi Việt Nam 
					Quốc Dân Đảng chưa hình thành, đã có nhóm cách mạng của 
					Quản Nhạc định khởi nghĩa đánh úp đồn binh Pháp với sự hậu 
					thuẩn của nhóm Nam Đồng Thư Xã tại Hà Nội. Cũng chính tại 
					tỉnh này, Nguyễn Thế Nghiệp đã đem nhóm của ông sát nhập 
					vào Việt Nam Quốc Dân Đảng và ông trở thành phó chủ tịch 
					đảng trong đại hội đầu tiên vào lễ Noel năm 1927. Bắc Ninh 
					cũng là quê của Phó Đức Chính, một nhân vật kiệt xuất, đang làm cán sự công chánh bên Lào, tìm về tham gia sáng 
					lập Quốc Dân Đảng. Có thể nói, 
				Bắc Ninh là một trong những cái nôi nuôi dưỡng và cung cấp nhân 
				lực cho Quốc Dân đảng ngay từ phút phôi thai.
 Minh theo Cảnh vào 
					làng Đức Hiệp, thuộc phủ Thuận Thành. Băng qua những cánh 
					đồng bát ngát trên con đường đất dẫn vào cổng làng, Minh 
					thấy từng tóan thanh niên ngồi rải rác hút thuốc lào, đưa 
					mắt đăm chiêu nhìn Minh và Cảnh. Từ cái quán lá dưới gốc đa, có ba người đàn ông ngồi uống nước chè, đi sâu hơn vào 
					hẳn trong làng, Minh lại gặp từng nhóm thanh niên, mỗi tốp 
					hai ba người, có cả trẻ con, đứng lố nhố như chờ đợi một 
					cái gì. Minh lo lắng níu cánh tay Cảnh dò hỏi, nhưng Cảnh 
					chỉ gật đầu rảo bước. Minh thấy mặt Cảnh rất nghiêm nhưng 
					không tỏ vẻ gì sợ hãi. Khi đến một căn nhà nằm khuất sau 
					rặng tre già, lại thấy vài người ngồi câu cá ở bờ ao, ngước lên nhìn Cảnh và Minh, 
				làm Minh càng hồi hộp và lo sợ.
 Mãi đến khi vào hẳn 
					trong nhà, Minh mới biết tổng bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng 
					đang chuẩn bị cuộc họp bất thường, và những chàng thanh 
					niên Minh thấy đứng ngồi rải rác từ cổng làng, chính là 
					những cảm tình viên lo việc canh gát cho hội nghị để kịp 
					thời thông báo nếu có dấu hiệu khả nghi bị mật thám theo dõi. Vùng này nằm trong tầm ảnh hưởng sâu rộng của Quốc Dân 
					Đảng, ngay cả những ông tổng, 
				ông lý đang tại chức cũng ngấm ngầm ủng hộ những người yêu nước.
 Được tham gia đại 
					hội của tổng bộ, gặp gỡ những yếu nhân của trung ương, Minh cảm động lắm. Đại biểu các nơi lục tục kéo về, có 
					những khuôn mặt rắn rỏi, đen xạm, rõ ràng là hình ảnh của 
					nông dân. Có những khuôn mặt thư sinh trắng trẻo của người 
					quanh năm làm việc trong văn phòng. Người mặc âu phục, kẻ 
					vận quốc phục. Người thì gồng gánh giả dạng đi buôn. Kẻ 
					thì cấp cặp, xách tráp như đi xem bói tay hay hốt thuốc Bắc. Họ cải trang, đóng kịch, 
				dùng đủ mọi sáng kiến để tránh sự theo dõi của mật thám đang 
				múôn diệt trừ tận gốc rễ của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
 Người đến mỗi lúc 
					một đông, gặp nhau mừng mừng tủi tủi, chia sẻ những gian 
					nan cũng như những thành tích, thăm hỏi xem coi ai còn, ai 
					bị bắt. Trên cái divan và hai cái giường tre trãi chiếu hoa 
					kê ở gian giữa, từng nhóm ngồi xếp bằng quanh khay trà và 
					cái điếu bát, khói thuốc bốc lên liên tục. Ở hai gian bên 
					cạnh và dưới mái hiên sau nhà, quang cảnh cũng ồn ào đầm ấm 
					tương tự như thế. Họ biết hôm nay 
				họ về đây để cùng trang trọng viết một trang sử mới cho đất 
				nước.
 Hai đồng chí phụ 
					trách an ninh mời từng nhóm đại biểu ra sạn, chỉ cho họ 
					những lối thoát bí mật từ trong nhà, chui qua rặng tre 
					trồng làm hàng rào cuối vườn, lách theo những ngỏ ngách để 
					dẫn ra cánh đồng làng trong trường hợp bị chính quyền bố ráp. Ban tổ chức đại hội tổ chức cẩn mật như thế để các đại 
					biểu an lòng ngồi họp, chứ thật ra thì cũng không cần lắm, 
				bởi chức việc làng này đều là cảm tình viên của đảng.
 Minh hồi hộp và sung 
					sướng lắm. Sau khi theo Cảnh lại chào Nguyễn Thái Học và 
					các đồng chí lãnh đạo của tổng bộ. Minh lần lượt bắt tay 
					từng đại biểu và tự giới thiệu mình. Anh biết Cảnh cố ý cất 
					nhắc anh lên để phụ trách soạn thảo các văn kiện của tổng bộ, thay thế các đồng chí nhà văn, nhà báo đã bị bắt. Đều 
					này làm Minh rất cảm động. Quanh anh, những khuôn mặt hoàn 
					toàn xa lạ, bên cạnh những tên tuổi mà Minh từng được 
				nghe nhắc đến nhưng chưa có cơ hội diện kiến trực tiếp bao giờ.
 Minh không phải là 
					đại biểu của thành bộ Hà Nội, nhưng do vận động của Lê Hửu 
					Cảnh, tổng bộ chấp thuận cho Minh được ngồi làm thư ký, ghi biên bản cho hội nghị. Hôm ấy là giữa tháng 5 năm 1929, Nguyễn Thái Học đưa ra đề nghị táo bạo là thành lập Tổng 
					Bộ Chiến Tranh, quyết định lãnh đạo quần chúng tổng khởi 
					nghĩa. Ông nói thẳng đây là một chủ trương bất đắc dĩ vì 
					phải đốt giai đoạn, trái lại với chương trình đã dự trù 
					buổi ban đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng không làm 
					được, bởi đảng viên bị bắt quá nhiều mà lưới mật thám càng 
					ngày càng giăng rộng. Ngồi chờ bị bắt rồi chết gục trong tù 
					thì chẳng thà đánh một trận lớn, dẫu có thua cũng thỏa chí 
					!
 Đảng trưởng chưa dứt 
					câu, phòng họp đã nhao nhao bàn tán, người này nhìn người 
					kia bằng ánh mắt ngạc nhiên. Có người buột miệng nói :
 - Tổng khởi nghĩa 
					bây giờ là giắt nhau vào chỗ chết ! Chưa thể được !
 Nguyễn Thái Học giải 
					thích :
 - Chúng ta tổng khởi 
					nghĩa trong lúc này thì phần thắng không nắm chắc trong tay 
					! Nhưng chúng ta hy sinh ngã xuống để khơi dậy lòng ái quốc 
					và làm những viên gạch lót đường cho những đoàn thể sau này 
					sẽ nối tiếp chúng ta mà đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập 
					cho xứ sở !
 Nguyễn Thái Học 
					ngừng nói, phòng họp lập tức lại vang lên tiếng xầm xì. Người tán đồng cũng đông mà người phản đối cũng nhiều. Đứng 
					đầu phe bất đồng ý kiến với Nguyễn Thái Học là Lê Hửu Cảnh, Cảnh vốn là người thẳng thắn, có ý nghĩ sâu sắc và không 
					ngại mích lòng khi cần phát biểu. Lúc còn đi lính cho Tây, anh đã nhiều lần mạnh dạn phản đối cách cư xử của sĩ quan 
					Pháp đối với An Nam. Bây giờ nghe Nguyễn Thái Học công bố 
					quyết định tổng khởi nghĩa, Cảnh liền đứng dậy nói :
 - Từ sau Tết đến 
					giờ, mới có 3 tháng, chúng ta bị mất quá nhiều đồng chí lỗi 
					lạc, đa số là cấp lãnh đạo trung ủy. Các anh Nhựơng Tống, Hồ 
					Văn Mịch, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, 
					Lê Thành Vỵ, Nguyễn Thái Trác, đều đã bị bắt cả. Còn biết 
					bao nhiêu đồng chí tài đức khác mà tôi không muốn kể ra đây. 
					Tổng cộng trên dưới 200 đồng chí đang chịu cực hình tra tấn 
					ngày đêm. Nhân sự của Tổng Bộ quyết định tổng khởi nghĩa, 
					tôi thấy việc ấy quá liều lĩnh vì chúng ta chưa chuẩn bị. 
					Nếu chúng ta thất bại-mà cứ sự thường là thất bại-thì thực 
					dân nhân dịp này quét sạch Quốc Dân Đảng! Mười năm, hai mươi 
					năm nữa, Đảng của chúng ta cũng sẽ không gây dựng lại được 
					như hôm nay! Tôi xin Tổng Bộ và các đồng chí đại biểu xét 
					lại!
 - Lê Hữu Cảnh dứt 
					lời thì một số đồng chí khác nhụ Nguyễn Tiến Lữ, Nghuyễn 
					Xuân Huạn, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Đều nối tiếp ý của 
					Cảnh, bác bỏ chủ trương tổng khởi nghĩa trong lúc này. Lê 
					Hữu Cảnh lại tiếp:
 - Để bảo toàn lực 
					lượng cua Đảng và nhất là sự duy trì sự hiện diện lâu dài 
					của Đảng, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo Tổng Bộ, nhất là 
					anh Học và anh Như, nên ra nước ngoài ngay, đặt Tổng Bộ ben 
					kia biên giới. Chúng ta đang có lợi thế là chính phủ Dân 
					Quốc cầm quyền bên Trung Hoa. Tổng Bộ đặt cơ quan chỉ huy ở 
					bên ấy, sẽ được chính phủ Tưởng Giới Thạch hỗ trợ, trong 
					nước dù có xảy ra chuyện gì dd nữa, thì thực dân Pháp không 
					làm gì được Tổng Bộ đặt trong nước, nói dại, nếu chẳng may 
					Tỗng Bộ bị vỡ, anh Học, anh Nhu bị bắt, thì đảng viên như 
					rắn bị mất đầu, Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ không còn nữa. Các 
					đồng chí của chúng ta đang ở trong tù sẽ tan rã tinh thần vì 
					không còn điểm tựa để trong mong ngày chiến thắng. Xin Tổng 
					Bộ xét lại!
 Phòng hợp yen lặng 
					ngẫm nghĩ những điều Cảnh vừa nêu ra. Nguyễn Thái Học nhìn 
					khắp lượt cử tọa rồi nói:
 - Tổng Bộ không đi 
					đâu cả! Anh Nhu và tôi không đi đâu cả! Chúng ta làm cách 
					mạng, phải đồng lao cộng khổ với đồng chí, phải nằm gai nếm 
					mật với đồng bào, không phải đứng từ nước ngoài mà chỉ tay 5 
					ngón, mà ném đá giấu tay! Chúng ta có vì Tổ Quốc mà ngả 
					xuống để người sau tiến lên thì cái chết ấy cũng là cái chết 
					xứng đáng, không có gì phải bận lòng!
 Cuối phòng có tiếng 
					nói lớn cất lên:
 - Người xưa tối kỵ 
					chưa xuất quân mà đã nói điều chẳng lành! Đảng trưởng sao 
					lại cứ nói gở như thế! Ta thất bại thế nào được!
 Trên bàn chủ tọa, 
					ngoài Nguyễn Thái Học, có Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính và 
					Sư Trạch, một đảng viên mới vốn là võ sư, lo việc bảo vệ các 
					yếu nhân của Đảng. Ngoài ra còn có cô Giang ngồi ở bàn thư 
					ký bên cạnh Minh. Ký Con Đặng Trần Nghiệp thì đứng ở cuối 
					phòng.
 - Đúng như thế! Tại 
					sao anh Cảnh lại cứ bi quan cho rằng mình sẽ bị thất bại! Ta 
					hiện có đến cả nghìn chi bộ khắp nơi. Chưa kể có cả một khối 
					quốc dân đồng bào ủng hộ, thất bại thế nào được!
 Xứ Nhu dứt lời, một 
					số đại biểu nhao naho cất tiếng ủng hộ làm Cảnh đâm ra lúng 
					túng. Vốn nặng lòng quý mến Xứ Nhu, Lê Hữu Cảnh phân trần:
 - Thưa các đồng chí 
					đại biểu. Tôi không bi quan. Tôi hoàn toàn tin vào chính 
					sách của chúng ta. Nhưng thời cơ chưa đến. Vâng. Đúng là 
					chúng ta có đến hơn 1000 chi bộ, nhưng vũ khí thô sơ, lại 
					khó liên lạc với nhau. Trong khi địch có đến 3 tiểu đoàn bộ 
					binh, 7 tiểu đoàn lính khố đỏ, lại thêm pháo binh và tàu 
					bay. Rồi còn lực lượng đội xếp và đội thám. Tôi vì tiền đồ 
					của Đảng mà phát biểu, chứ thật lòng không muốn đi ngược lại 
					ý kiến của Đảng trưởng!
 Nguyễn Xuân Huân 
					ngồi bên cạnh Cảnh xen vào :
 - Chúng ta làm cách 
					mạng để đánh Tây, như thế thì sớm muộn gì cũng phải đánh ! 
					Có điều đánh lúc này thì chưa phải lúc !
 Phòng họp im lặng 
					trong khoảnh khắc. Rồi Nguyễn Thái Học đề nghị hội nghị lấy 
					biểu quyết bằng cách giơ tay. Nhóm Lê Hửu Cảnh tán thành lề 
					lối sinh hoạt dân chủ của đảng trưởng, nhưng không đồng ý 
					cách bỏ phiếu bằng tay, bởi nhiều người sẽ vì nể nang mà 
					miễn cưỡng giơ tay, trái với ý nghĩ đích thực trong lòng 
					mình. Tuy vậy, Cảnh không dám lên tiếng phản đối bởi 
				thấy khí thế của hội nghị đang nghiêng hẳn về phía Nguyễn Thái 
				Học.
 Kết quả biểu quyết 
					là phe chủ chiến thắng thế. Điều này cũng dễ hiểu, bởi 
					phần đông những đảng viên chủ trương cách mạng hòa bình đều 
					đã đi tù. Hội nghị liền soạn thảo kế hoạch tổng khởi nghĩa 
					để bắt tay vào việc chuẩn bị. Công tác khẩn cấp của giai 
					đoạn này là thiết lập các xưởng chế tạo bom càng nhiều càng 
					tốt, song song với công tác binh vận, tuyên truyền lôi kéo 
					quân nhân người Việt tại các đồng lính Pháp quay về với đất 
					nước, bắn lại quân thù. Sư Trạch đề nghị giao nhiệm vụ này 
					cho cánh phụ nữ đảm trách. Ý kiến 
				được Nguyễn Thái Học tán đồng.
 Ngồi ở bàn thư ký, Minh nhìn Cảnh bằng ánh mắt hết sức ái ngại. Những đều Cảnh 
					nêu ra, Minh thấy hoàn toàn hợp lý. Nhưng quyết định của 
					đảng trưởng và biểu quyết của đa số đại biểu cũng không phải 
					là không hửu lý bởi hoàn cảnh bắt buộc đảng phải hành động. Từ lâu, Minh đã biết trong nội bộ các đồng chí lãnh đạo vẫn 
					có những bất đồng quang điểm về đường lối. Với Nguyễn Thái 
					Học và Nguyễn Khắc Nhu, Quốc Dân Đảng lập ra để hành động, để dùng bạo lực lật đổ chính quyền Pháp, không cần phải vẽ 
					vời những chủ thuyết xa xôi. Nhưng với một số các đồng chí 
					khác, đặc biệt là những người xuất thân từ nhà báo, nhà 
					văn và nhà giáo, thì lại có chủ trương đường dài. Làm cách 
					mạng bằng nhiều phương thức, chẳng hạn như giáo dục, tuyên 
					truyền, vận động quần chúng, chờ thời cơ thuận tiện mới 
					nhất loạt tổng nổi dậy. Khuynh hướng này là những người như 
					Nguyễn Thế Nghiệp, Nhượng Tống và nhiều đồng chí kiên nhẫn 
					khác. Ngay từ đại hội lần thứ hai để bầu ban lãnh đạo nhiệm 
					kỳ mới, tổ chức ngày 1 tháng 7 năm 1928, Nguyễn Thế Nghiệp 
					và Nhượng Tống đã không chụu tham dự vì thấy phe “diều hâu” 
					đông đảo quá ! Giờ này thì cả hai ông đều bị bắt, 
				không còn tiếng nói tại hội nghị.
 Buổi họp bế mạc, các đại biểu phân tán ngay theo nhiều hướng khác nhau ra 
					khỏi làng. Cũng có người ở lại Đức Hiệp, nhưng được bố trí 
					sang những hộ cơ sở khác, tránh tập 
				trung một chỗ.
 Nhóm Lê Hữu Cảnh từ 
					đó có cái tên là “nhóm trung lập” hoặc “phe cải tổ”, bị 
					nhiều đồng chí tỏ thái độ e dè, xa cách, 
				làm Cảnh rất buồn.
 Khi mọi người lần 
					lượt rút lui hết thì trong nhà chỉ còn Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc
 Nhu và Phó Đức Chính. Cảnh cũng nấn ná ở lại. Để tránh ngộ nhận, nhân một lúc 
					vắng vẻ, Cảnh gặp riêng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, khẳng khái nói :
 - Hai anh hiểu cho, tôi tuy có ý kiến bất đồng, nhưng hội nghị đã biểu quyết và 
					thông qua kế hoạch tổng khởi nghĩa thì tôi sẳn sàng chấp 
					hành. Tổng bộ cứ giao nhiệm vụ, tôi cam kết sẽ hoàn thành 
					!
 Xứ Nhu gật đầu trấn 
					an Cảnh :
 - Tôi hiểu ! Đồng 
					chí phát biểu như thế là rất dân chủ !
 Nguyễn Thái Học tiếp 
					lời :
 - Đồng chí cứ về Hà 
					Nội, nay mai sẽ có lệnh cụ thể !
 Cảnh chưa kịp nói gì 
					thêm thì Nguyễn Thái Học lại bảo :
 - Nhưng ngủ lại đây 
					một tối cho khỏe đã, rồi mai hẵng lên đường !
 Nguyễn Khắc Nhu hiểu 
					ý, thân mật vỗ vai Cảnh và thêm :
 - Tôi cũng cần bàn 
					với ông vài việc vì dù sao ông cũng có thời đi lính cho Tây, 
				biết nhiều về quân sự.
 Xứ Nhu biết trong 
					lòng Nguyễn Thái Học đã chớm nghi ngờ Cảnh. Chính vì nghi 
					ngờ, đảng trưởng mới giữ chân Cảnh lại, bởi các yếu nhân 
					của đảng đều đang tập trung tại căn nhà này. Nếu để Cảnh ra 
					đi, rủi ro Cảnh phản bội, thì tổng bộ sẽ lọt hết vào tay 
					địch. Chim đậu cành mềm, từ đầu năm đến giờ, trong nội bộ 
					Quốc Dân Đảng đã có đến mấy kẻ làm nội tuyến, phá tan bao 
					nhiêu cơ quan của đảng. Cho nên bây giờ Nguyễn Thái Học bắt 
					đầu tỏ thái độ dè dặt, ngay cả với Cảnh. Ông sợ rằng Lê 
					Hửu Cảnh vì bất mãn với quyết định tổng khởi nghĩa của tổng 
					bộ, có thể sinh ra mất lập trường, rồi đứng về phía giặc. Cảnh không biết ý định của đảng trưởng, 
				nên hết sức cảm động vì được cả Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc 
				Nhu níu lại bàn chuyện.
 Xứ Nhu lôi Cảnh ra 
					sau nhà, ngồi uống trà dưới mái hiên trông ra mảnh vườn 
					trồng đầy đậu đũa. Dù sao đi nữa, Xứ Nhu cũng là người 
					từng trải, không muốn đẩy Cảnh ra khỏi đoàn thể khi chưa 
					nắm chắc được bằng chứng vững chắc là Cảnh muốn bỏ đảng. Làm như thế, vừa mất đi một nhân tài, vừa có thể dồn Cảnh 
					vào chân tường để trở thành kẻ bội phản. Huống chi ông biết 
					Cảnh vì đảng mà hiến kế, cho nên ông cần xoa dịu Cảnh trong 
					lúc này. Ông nhập đề thẳng, giao cho Cảnh phụ trách việc 
					chế tạo chất nổ, các loại bom đơn giản để dùng trong ngày 
					khởi nghĩa. Cảnh khẳng khái nhận lời ngay, Cảnh bảo :
 - Anh cứ tin ở em ! 
					Lời thề tuyệt đối trung thành với đảng, em không bao giờ 
					quên !
 Khi chỉ có hai người 
					với nhau, Cảnh luôn luôn gọi Xứ Nhu là anh và xưng em vì 
					chẳng những Cảnh thua Xứ Nhu đến 13 tuổi, mà hơn thế nữa, 
				Cảnh biết rất rõ quá trình hoạt động thật sôi nổi của Xứ Nhu 
				ngay từ thuở thiếu thời.
 Nguyễn Khắc Nhu sinh 
					năm 1882 tại làng Song Khê, gần thị xã Bắc Giang. Thân phụ 
					ông là một nhà nho lận đận khoa cửa nhưng truyền được cho 
					Nhu cái tính hiếu học ngay từ thuở nhỏ, quyết nuôi chí 
					thành đạt để mang niềm vui lại cho hai đấng sinh thành. Không may, khi Nhu 12 tuổi thì mồ côi cha, phải lao vào 
					cuộc đời, trở thành rường cột kinh tế cho gia đình. Công 
					việc đầu tiên của Nhu là xin chăn trâu cho cụ Tú Bảng trong 
					làng để vừa có gạo mang về, vừa được cụ Tú cho ngồi học 
					chung với các con của cụ vào buổi tối. Cuộc sống tuy vất vả, nhưng Nhu rất hài lòng vì được tiếp tục việc học. Tiếc 
					rằng chẳng được bao lâu thì cụ Tú được người ta mời ra tỉnh 
					làm gia sư, cậu bé Nhu đành ở lại và đi bắt cua dọc theo 
					các bờ ao, ven ruộng trong làng. Từ đấy, 
				bút nghiên phải tạm gác lại.
 Một hôm, Nhu đi xa, ra bắt cua mãi trên thị xã, bên bờ sông lớn. Nhìn thấy 
					thiên hạ lên xuống chiếc tàu thủy đang thả neo đón khách tại 
					bến sông. Nhu tò mò leo lên, ngơ ngác đi lang thang trên 
					tàu. Tàu chạy lúc nào không hay. Nhu hoảng hốt quá, không 
					biết làm sao để quay về nhà với mẹ. May có người thợ phụ 
					việc trên tàu, thấy Nhu đứng mếu máo, mới tiến lại hỏi 
					thăm. Nhu kể hết sự tình. Ông thợ động lòng thương hại, lại vì chưa có con trai, nên ông ngỏ ý sẳn sàng nhận Nhu 
					làm con nuôi. Ông đưa Nhu về nhà mình ở Phả Lại, cho học 
					chữ Hán tiếp tục, lại thêm cả tiếng Tây và chữ Quốc Ngữ. Hai năm sau ông mới báo tin cho mẹ Nhu ở làng Song Khê để bà 
					biết là Nhu hiện đang ở với ông. 
				Bà mẹ mừng quá liên cử người đến cảm ơn và xin cho Nhu quay về 
				làng.
 Đoàn tụ là một niềm 
					vui lớn, nhưng từ đấy bút nghiên lại phải tạm hoãn vì không 
					có tiền và không có thầy. Ngày ngày đi làm vớ vẩn, 
				Nhu vẫn nôn nóng ôm giấc mơ có ngày được đi học trở lại.
 Một dịp may mắn, có 
					người mách bảo cho Nhu biết vị sư trụ trì ở chùa làng có 
					thời từng lều chõng đi thi. Nhu liền đến gặp, ngỏ ý xin 
					vào làm việc lặt vặt cho chùa để hy vọng được sư ông cho thọ 
					giáo. Nhà sư thấy Nhu có chí, bèn thu nhận làm môn đệ. Ít 
					lâu sau, nhà sư lại gửi Nhu sang chùa làng Lạc Giản, cách 
					Song Khê khoảng 5 cây số, để Nhu học thêm vì nhà sư bên 
					chùa ấy có trình độ cao hơn. Nhờ vậy, chỉ hơn một năm sau, Nhu đã thi đỗ khóa sinh. Để Nhu có điều kiện 
					tịến xa, một lần nữa nhà sư lại gửi Nhu sang tận làng Nội 
					Duệ, ở đó có ngôi trường của cụ cử Đường nằm bên cạnh chùa 
					Lim. Cụ cử Đường là một nhà nho yêu nước, lại có tính 
					quảng giao, tìm người đồng chí hướng để kết bạn. Chính 
					những tháng ngày ngồi tại ngôi trường này, Nhu đã được 
					trang bị tinh thần ái quốc, mở ra một khúc rẽ mới cho cuộc 
					đời mình. Năm 1903, Nhu 21 tuổi, cụ Phan Bội Châu trên 
					đường bôn ba kiếm tìm đồng chí đánh Pháp, đã ghé thăm cụ cử 
					Đường, thầy học của Nhu. Cụ Phan ngỏ ý tìm một người khả 
					tín, thông thạo đường đi nước bước để đưa cụ đi gặp nhà 
					cách mạng Hoàng Hoa Thám. Cụ cử Đường liền giao trọng trách 
					này cho Nguyễn Khắc Nhu. Thế là thầy trò lên đường, trèo 
					đèo vượt suối đến đồn Phồn Xương, nơi nghĩa quân Đề Thám 
					đang đóng trại. Bài học đầu tịên cũng là bài học mạnh mẽ 
					nhất mà Nhu đã học được của Cụ Phan Bội Châu là chỉ con 
					đường vũ trang mới đánh đuổi được thực dân. Nhu nhớ mãi lời 
					dạy ấy như một tia sáng chiếu soi sáng hành trình ái quốc 
					của Nhu sau này. Đánh giặc Pháp, phải dùng bạo lực !
 Đưa cụ Phan đi rồi, Nhu quay về chuẩn bị kỳ thi hương. Nhưng theo thông lệ của 
					nhà Nguyễn, để giới hạn bớt số sĩ tử, bất cứ ai trước khi 
					lều chõng đi thi hương, đều phải trãi qua một kỳ sát hạch 
					phúc khảo tại địa phương, tổ chức theo từng xứ. Ngày ấy, miền Bắc chia ra làm bốn xứ : Bắc, Nam, Đông, Đoài, mỗi 
					xứ gồm vài tỉnh. Chẳng hạn như khi nói xứ Nam, người ta 
					hiểu ngay là gồm Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình. Khi nói đến xứ Đoài, người ta hiểu ngay là Sơn 
					Tây, Vĩnh Phúc Yên và mấy tỉnh lân cận. Nguyễn Khắc Nhu dự 
					thi sát hạch toàn xứ và đỗ thủ khoa. Từ đó, Nhu mới có cái 
					tên là ông Đầu Xứ, hoặc gọi tắt là Xứ Nhu. Đỗ đầu xứ như 
					ông, chưa phải là một văn bằng chính thức của triều đình để 
					ra làm quan, nhưng nó cho thấy trình độ học vấn của ông 
					không thua gì bậc cử nhân của triều Nguyễn. Chỉ tiếc rằng, giống như thân phụ, ông mang kiếp lận đận khoa cử. Bản 
					thân Nguyễn Khắc Nhu đi thi hương hai lần đều không đậu, 
				làm nhiều sĩ tử đồng khóa hết sức ngạc nhiên.
 Trở về làng, tạm 
					gát lại chuyện đèn sách, ông cầm đầu một toán thanh niên 17 
					người sang Quảng Châu tìm cụ Phan Bội Châu để tham gia phong 
					trào Đông Du. Nhưng qua đến nơi thì cụ Phan đã lưu lạc xứ 
					khác, không sao tìm gặp được. Phái đoàn nấn ná ở lại Quảng 
					Châu chờ tin, bị nhà cầm quyền Trung Quốc bắt nhốt một thời 
					gian. May nhờ Xứ Nhu có chữ nghĩa nên mới được nể nang và 
					thả cho về. Từ ấy, Nguyễn Khắc Nhu làm nghề dạy học tại 
					làng Thịnh Liệt, cách ga kép khoảng 5 cây số. Lòng yêu 
					nước của ông đã để lộ ra một cách khá rõ rệt qua những vần 
					thơ ông sáng tác cũng như những bài giảng cho học trò và 
					thậm chí qua những câu đối ông víết trên tường lớp học. Ông 
					cũng là người đi tiên phong hô hào dân làng cải thiện đời 
					sống vệ sinh, đào giếng lấy nước uống, chống mê tín dị 
					đoan, bỏ thuốc phiện và cờ bạc. Xứ Nhu làm thơ, viết báo, lấy tên làng Song Khê làm bút hiệu. Nhớ lời cụ Phan Bội 
					Châu đã dạy, Xứ Nhu cho mở trường đào tạo nhân tài, nâng 
					cao dân trí để chuẩn bị lớp người tương lai cho đất nước Từ 
					hình thức cách mạng gián tiếp ấy, Xứ Nhu chuyển hướng sang 
					hình thức tích cực hơn. Cùng các đồng chí trong nhóm Đông 
					Du ngày trước, thành lập tổ chức lấy tên là “Việt Nam Dân 
					Quốc”, chủ trương võ trang chống Pháp. Tổ chức của ông 
					nhanh chóng thu hút đông đảo đồng bào địa phương, kể cả phụ 
					nữ, chẳng hạn như ba chị em cô Bắc, cô Giang, cô Tình ở 
					phủ Lạng Thương. Việt Nam Quốc Dân cấp tốc chuẩn bị ngày 
					khởi nghĩa, nhắm vào các đồn binh Pháp ở Đáp Cầu, Bắc Ninh, Phả Lại. Trong khi chờ đợi, họ mở những cuộc tập kích lẻ 
					tẻ vào các đồn binh Pháp, gây được nhiều tiếng vang trong 
					dân chúng. Những vụ binh biến nho nhỏ ấy, đều được nhóm 
					Nam Đồng Thư ở Hà Nội ngấm ngầm ủng hộ. Nguyễn Khắc Nhu rắp 
					tâm làm lớn một vố trong toàn vùng Nhưng kế hoạch chưa thực 
					hiện được thì khôngmay bị lộ, vì xưởng chế tạo vũ khí thình 
					lình phát nổ, khiến Pháp ra tay khủng bố. Nhờ tổ chức chặc 
					chẽ, kín đáo, mỗi cơ quan, mỗi cá nhân đều hoạt động biệt 
					lập nhau, nên dù bị địch truy lùng gắt gao, lực lượng Việt 
					Nam Quốc Dân không bị sứt mẻ bao nhiêu. Nhờ vậy, khi nhóm 
					Nam Đồng Thư Xã biến thành Việt Nam Quốc Dân Đảng thì Nguyễn 
					Khắc Nhu đem toàn bộ nhân sự của đảng mình sát nhập vào với 
					Nguyễn Thái Học. Năm ấy, Nguyễn Khắc Nhu đã 45, 
				hơn Nguyễn Thái Học gần 20 tuổi.
 Vì tuổi đời khá cao, lại thêm kinh nghiệm hoat động lâu năm và trình độ học vấn 
					uyên bác, Nguyễn Khắc Nhu được các đồng chí hết sức nể 
					trọng, thường giao cho những trong trách lớn nhất của đảng, chẳng hạn như hai lần được bầu làm chủ tịch đảng.
 Sự tham gia của 
					Nguyễn Khắc Nhu cùng tổ chức của ông, đã làm thay đổi hẳn 
					bộ mặt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ít nhất là ở 3 lãnh vực : 
					Thuở đầu khi kết nạp đảng viên, Quốc Dân Đảng đã bỏ quên 
					vai trò phụ nữ. Nhờ Nguyễn Khắc Nhu, những người như cô 
					Giang, cô Bắc mới được đảng trọng dụng. Thứ hai, thuở đầu 
					khi kết nạp đảng viên, Quốc Dân Đảng chỉ chú trọng đến tầng 
					lớp trí thức thành phố. Nhờ Nguyễn Khắc Nhu, khuynh hướng 
					chủ chiến của Nguyễn Thái Học mới được ủng hộ mạnh mẽ và 
					chiếm đa số trong hội nghị, 
				điển hình là quyết định tổng khởi nghĩa vừa thắng thế trong 
				phiên họp lịch sử hôm nay, tại làng Đức Hiệp giữa thánh 5 năm 
				1929.
 Dù hội nghị đã quyết 
					định tổng khởi nghĩa, Lê Hửu Cảnh vẫn cố bám lấy ý kiến của 
					mình. Ngồi riêng với Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, Cảnh tha thiết nhắc lại :
 - Anh Học, tôi xin 
					anh ! Anh nên ra nước ngoài. Sang Tàu hoặc Xiêm. Đối với 
					đồng bào cũng như đồng chí, vai trò của anh rất quan trọng. Lãnh tụ là điểm tựa của đòan thể Đảng không có tôi, không 
					có các đồng chí khác cũng chả sao. Nhưng không có anh thì 
					không được ! Cụ Phan Bôi Châu bị bắt, Việt Nam Quang Phục 
					Hội kể như tan rã ngay ! Nói dại, anh mà bị bắt, Quốc Dân 
					Đảng chắc chắn sẽ xuống dốc ! Anh nên nghe lời tôi !
 Nể Cảnh là người 
					thân cận chia ngọt sẻ bùi trong mấy tháng qua, Nguyễn Thái 
					Học không nở lớn tiếng, nhưng trong thâm sâu ông rất bực vì 
					những phát biểu của Cảnh tại hội nghị đã làm lung lạc một số 
					đồng chí ! Bao nhiêu thiện cảm của ông dành cho Cảnh từ 
					trước đến nay, bổng giảm hẳn đi và 
				thay thế vào đó là sự ngờ vực lập trường của Cảnh.
 Tối hôm ấy, Cảnh 
					ngồi đọc kinh rất lâu. Sáng hôm sau, mặt trời chưa lên, 
				Cảnh đã cùng Minh lên đường trở về Hà Nội.
 Suốt quãng đường 
					Cảnh trầm ngâm không nói. Minh nhìn Cảnh dò xét :
 - Ý kiến của anh, nhiều đại biểu ngấm ngầm tán thành, nhưng họ ngại, không 
					dám nói ra !
 Cảnh gật đầu đáp nhỏ 
					:
 - Những người có 
					công lớn với đảng như Nhượng Tống, Nguyễn Thế Nghiệp, Hồ 
					Văn Mịch, đều bị bắt cả rồi. Thành ra, tiếng nói của tôi 
					trở nên thiểu số tại hội nghị, không lay chuyển được anh 
					Học, anh Nhu !
 Rồi hai người lại 
					ngồi yên cho tới lúc chia tay ở sân ga. Giờ này, Cảnh vẫn 
					là nhân viên trong xưởng hỏa xa, cho nên anh phải trở lại 
					sở làm ngay, vì lâu quá sợ người ta nghi. Minh thì quay về 
					căn gác trọ, tiếp tục sống những ngày nơm nớp lo âu vì 
					chiến dịch càn quét của mật thám Pháp vẫn đang tiếp diễn một 
					cách tàn bạo, không phải chỉ nhắm riêng Việt Nam Quốc Dân 
					Đảng, mà muốn tận diệt tất cả mọi đòan thể chống đối, 
				trong đó có Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội cũng là 
				một mục tiêu chính yếu.
 Những ngày kế tiếp, Minh nghĩ nhiều đến Lê Hửu Cảnh và cảm thấy tội nghiệp cho 
					một người cách mạng yêu nước như Cảnh mà giờ đây lâm vào 
					tình trạng cô đơn và bị các đồng chí ngờ vực, xa lánh. Trong cái nhìn của Minh thì Lê Hửu Cảnh là một nhân vật kiệt 
					xuất của đảng, làm việc gì cũng tính toán cẩn trọng. Minh 
					bứt rứt đi tìm Cảnh và gặp anh hai lần ở chỗ Cảnh làm. Lần 
					nào, Cảnh cũng rũ Minh đi ra quán cóc ăn trưa và bàn chuyện 
					thời sự. Ánh mắt của Cảnh không giấu nổi nỗi ưu tư, khiến 
					Minh lắm lúc cũng phải mủi lòng !
 Quả thật, Minh đóan 
					đúng, Cảnh đang chịu những ngày dằn dặt nhất bởi tổng bộ 
					không giao công tác gì cho Cảnh từ sau hội nghị Đức Hiệp. Đồng chí cũng ít ai muốn đến để gặp Cảnh vì sợ tổng bộ cho 
					là kéo bè kết đảng trong lúc tình hình khẩn trương, chuẩn 
					bị tổng khởi nghĩa. Chẳng những thế, Cảnh còn biết Nguyễn 
					Thái Học đã chỉ thị cho Ký Con Đặng Trần Nghiệp phải theo 
					dõi hành vi của Cảnh trong lúc này, để nếu cần thì ra tay 
					trừng trị. Cảnh buồn lắm. Đích thân đi tìm Ký Con ở Hà Nội 
					và vài lần như thế, Ký Con mới hiểu bụng dạ của Cảnh. Nhưng dĩ nhiên Ký Con giấu kín, không tiết lộ cho Nguyễn 
					Thái Học biết. Cảnh bảo Ký Con :
 -Anh học quyết định 
					tổng khởi nghĩa lúc này thì quả là vội vả thật ! Người ta 
					phê bình anh ấy theo chủ nghĩa “anh hùng cá nhân” ! Nhưng đa 
					số các đại biểu đã đồng ý thì tôi cũng phải tuân theo mệnh 
					lệnh đảng chứ đi ngược lại làm sao được !
 Cũng may cho Cảnh là 
					từ lâu Ký Con vốn nể Cảnh là người từng trải và gan dạ, nên 
					giờ này dù tổng bộ cho nghi ngờ, Cảnh vẫn dễ dàng tạo lại 
					niềm tin trong lòng Ký Con, lúc ấy mới 21 tuổi.
 Từ đó, Cảnh lặng lẽ 
					giúp Ký Con chế bom để dùng trong ngay tại thủ đô Hà Nội 
					trong đêm tổng khởi nghĩa, hầu đánh 
				lạc hướng sự chú ý của chính quyền Pháp khi nghĩa quân tấn công 
				ở các tỉnh.
 Những ngày nặng nề 
					kế tiếp nhau trôi qua rất chậm, Minh trở lại Hà Nội đếm 
					thời gian trôi trong nỗi thấp thỏm lo âu. Cũng giống như 
					Cảnh, Minh nôn nóng chờ lệnh của tổng bộ, nhưng chờ mõi 
					mòn mà chả thấy ai liên lạc từ sau khi chia tay các đồng chí 
					lãnh đạo tại hội nghị Đức Hiệp. Lúc đầu, anh chỉ nghĩ rằng 
					tổng bộ không còn ở Hà Nội nữa, các đồng chí lãnh đạo phải 
					cải trang bôn ba nay đây mai đó, nên chưa có dịp giao công 
					tác cho Minh. Tuy nhiên, dần dần anh hiểu ra rằng, Nguyễn 
					Thái Học không dùng anh bởi anh là đàn em của Lê Hửu Cảnh, người đang bị tổng bộ nghi ngờ vì những phát biểu ngược 
					chiều tại hội nghị. Để tránh bớt căng thẳng, Minh ghé thăm 
					bà dì, nhờ cô em họ xuống Hải Ninh thăm dò tình hình trước, rồi anh xách va-li về thăm nhà một thời gian cho khuây 
					khỏa. Thời gian này, cũng chính là lúc mà Hậu được lệnh 
					thóat ly, giã từ Hải Ninh, lên đường theo tiếng gọi của 
					Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
 
 Chương 6
 
 Buổi sáng hôm ấy Hậu khăn gói giã từ Hải 
				Ninh, băng ngang cánh đồng làng lên mặt đê, rồi cứ thế rảo 
				bước tới thị xã gặp Quảng. Lúc ấy Quảng đang sắp sửa ăn trưa. Hiệu thuốc lào vẫn mở cửa, nhưng Quảng mời Hậu ngồi ăn luôn 
				ngay bên trong, trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ bày đầy ấm chén và điếu 
				cày. Hậu bỏ nón, buông cái túi cói xuống chân bàn rồi kéo ghế 
				ngồi đối diện Quảng. Quảng vói tay khép cửa sổ sau lưng rồi hạ 
				giọng bảo Hậu :
 - Trước tiên, chị phải lấy một cái tên mới. Tên cũ ở làng 
				không dùng được nữa, vì mọi người đều biết, 
				rất dễ bị lộ.
 Nghĩ đến thái độ dứt khoát của mình, dám gạt nước mắt giã từ 
				cha mẹ và quê nhà, Hậu chọn tên mới là Quyết, để đánh dấu sự 
				quyết tâm thoát ly, đồng thời cũng tự nhắc nhở mình không nản 
				lòng trên bước đường chông gai sắp tới. Quảng hài lòng bảo :
 - Tốt lắm ! Như vậy từ nay tên của chị là Vũ 
				thị Quyết.
 Rồi ông xòe bàn tay, nhắc Hậu ăn cơm. Bữa cơm rất đơn giản chỉ 
				có cá quả kho với khế phơi khô, thêm bát muối vừng bên cạnh, nhưng Hậu thấy rất ngon vì đang đói bụng sau quãng đường dài 
				cuốc bộ. Quảng bảo :
 - Tối nay chị ngủ tạm ở đây. Sáng mai sẽ có người đưa chị đi 
				xuống Hà Nội. Đi tàu lửa. Lẽ ra thì tôi phải đi cùng với chị, nhưng tôi còn đợi một đồng chí nữa. Chị cứ đi trước đi. Có thể 
				mình sẽ gặp nhau ở dưới ấy cũng chưa biết chừng !
 Cơm trưa xong, Hậu lang thang ra con phố chính của thị xã, mặc 
				dù không cần mua bán gì. Lòng cô bâng khuân xao xuyến vì nhớ 
				cha mẹ và các em ở nhà, mặc dù mới xa Hải Ninh có mấy tiếng 
				đồng hồ. Hai năm nay, từ ngày dấn thân hoạt động, cô đã sống 
				thường trực trong nỗi lo âu phập phòng. Nhưng chuyến đi hôm nay 
				mới thật sự đặt chân lên lộ trình sinh tử, chẳng biết trong 
				tương lai rồi sẽ ra sao. Chỉ có điều là trái tim cô đang tràn 
				đầy nhiệt huyết, vì cô hãnh diện mình 
				theo đuổi một lý tưởng mà cô cho là hết sức chính đáng.
 Tối hôm ấy, Hậu ngủ lại hiệu thuốc lào Vĩnh Bảo. Ông Quảng 
				nhường cho Hậu chiếc giường có căng mùng và trải chiếu hoa. Còn 
				ông thì nằm trên cái ghế mây kê sát cửa ra vào. Ông không nói 
				chuyện nhịều với Hậu bởi nhiệm vụ của ông chỉ là giao liên, 
				đại diện tỉnh bộ đưa người lên thành bộ ở Hà nội mà thôi.
 Sáng hôm sau, Hậu thức giấc lúc ông Quảng đã sắp mở cửa tiệm. Vì đêm qua thao thức nhớ nhà, nên Hậu ngủ trễ, chắc phải quá 
				nữa khuya mới thiếp đi. Cô ngồi dậy, vén mùng, gấp chăn và 
				ngượng ngùng nhìn ông Quảng mỉm cười. Ông bảo :
 - Cô ra sau xúc miệng rửa mặt đi, 
				rồi vào đây ta nói chuyện.
 Hậu làm theo lời ông dặn. Lúc quay vào thì ông Quảng đã mua sẳn 
				đĩa xôi gấc và một khoanh giò đặt trên bàn cho Hậu. Ăn sáng thế 
				này thì sang quá, quanh năm Hậu chả được động tới. Ông Quảng 
				mời Hậu rồi nói :
 - Lẽ ra, hôm nay có người đi cùng chị xuống Hà Nội. Nhưng vào 
				phút chót, đồng chí ấy lại không đi được. Chị đành đi mình vậy 
				!
 Hậu véo miếng xôi, hốt hoảng nói :
 - Chết ! Tôi biết đàng nào mà mò !
 Quảng cười trấn an :
 - Không sao ! Dễ lắm. Tôi sẽ chỉ đường cho chị từ đây ra nhà ga. Chị mua vé đi Hà Nội. Lên xe hỏa rồi là kể như xong. 
				Đến sân ga sẽ có người đón chị.
 Hậu vừa nhai vừa lo lắng than :
 - Có chắc không đấy anh ? Chỉ sợ không có người đón, tôi đi lớ 
				ngớ, người ta sinh nghi !
 Quảng gật đầu quả quyết :
 - Tôi đã bố trí xong cả rồi !
 Rồi Quảng giục Hậu :
 - Ăn đi ! Chị ăn no đi đã ! Hay là bọc theo ăn trên xe hỏa cũng 
				được !
 Hậu gật đầu đồng ý. Cô muốn đi sớm vì sợ xuống tới Hà Nội thì 
				tối mất. Cô quay vào lấy cái giỏ cói của mình. Còn Quảng thì 
				trút dĩa xôi vào miếng lá chuối khô, gói lại để Hậu bỏ luôn vào 
				giỏ, ăn dọc đường. Quảng dặn dò tỉ mỉ đường đi nước bước, rồi 
				ân cần chia tay, chúc Hậu công tác tốt, hy 
				vọng có ngày gặp lại.
 Buổi chiều, Hậu đặt chân đến Hà Nội. Đây là lần đầu tiên trong 
				đời, cô có mặt ở thủ đô, nên nhìn chỗ nào cũng lạ mắt. Tay ôm 
				khư khư cái giỏ cói, Hậu hoang mang bước ra khỏi nhà ga. Hình 
				ảnh đầu tiên đập vào mắt Hậu là mấy cô gái tân thời, có người 
				mặc đầm, có người mặc áo dài nhưng dám mặc quần trắng, đi bên 
				cạnh những anh lính Tây. Đối với Hậu cũng như đa số phụ nữ miền 
				Bắc lúc ấy, mặc quần đã là cách mạng rồi, huống chi lại dám 
				mặc quần trắng ! Đại đa số vẫn là váy đen và đi chân đất, đủ cả 
				bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chỉ buổi tối, trước khi lên 
				giường, các cô mới mang đôi guốc ra giàn nước hoặc xuống ao rữa 
				chân để đi ngủ. Sáng sớm tỉnh dậy, bước xuống giường là trở về 
				chân không như thường lệ. Thi sĩ thời đó không ai làm thơ ca 
				ngợi “gót son” hay “gót hồng” của người mình yêu, 
				bởi gót nào cũng nứt nẻ vì lao động và vì đi bộ.
 Hậu bước ra lề đường, choáng ngộp bởi quang cảnh chung quanh. Xe kéo, xe ngựa thì vẫn nườm nượp, nhưng lâu lâu lại có những 
				chiếc xe đạp cao lênh khênh, thô kệch chay qua chạy lại mà hiếm 
				khi Hậu thấy ở làng mình. Hậu đứng ngó quanh hai bên đường, lo 
				sợ không gặp người giao liên như Quảng đã dặn trước. Bổng cô 
				giật thót người toan đánh rơi cái giỏ cói vì tiếng còi quá lớn 
				hét lên bên tai. Cô bước lui vào và định thần nhìn lại : Một 
				chiếc ô tô vừa chạy ngang. Dân Hà Nội thì đã quen mắt, nhưng 
				người nhà quê như Hậu, nom thấy xe hơi thì kinh hãi lắm, như 
				nhìn thấy quái vật lù lù chạy trên đường ! Chiếc xe đi khỏi, Hậu thở phào, đặt bàn tay lên ngực rồi chậm chạp bước theo vỉa 
				hè, vừa đi vừa nhìn dáo dác tứ phía. Một chiếc xe kéo cũ kỹ 
				chạy vượt lên phía trước Hậu và tấp vào lề đường. Anh phu xe 
				còn khá trẻ, quần ta sắn lên khỏi đâu gối, áo cánh nâu bạc 
				thếch gió sương, bỏ nón chào Hậu và nói nhỏ :
 - Mời chị lên xe !
 Hậu sợ hãi lắc đầu lia lịa :
 - Không ! Cảm ơn ông ! Tôi đi bộ quen rồi !
 Dứt lời Hậu bước nhanh hơn như chạy trốn. Người kéo xe cất 
				tiếng gọi :
 - Chị Quyết ! Chị lên xe đi !
 Anh ta gọi lần thứ hai, Hậu mới sực nhớ ra mình có cái bí danh 
				mới là Vũ thị Quyết mà chỉ có một vài đồng chí trong tổ chức 
				biết được. Hậu dừng lại, quay đầu ngơ ngác nhien lại anh ta. Anh phu xe nỡ nụ cười hiền hòa và bảo :
 - Chị lên xe, tôi kéo. Chị mới lên Hà Nội lần đầu, biết đàng 
				nào mà mò !
 Hậu hoàn hồn mỉm cười và hỏi :
 - Hóa ra anh là …
 Người kia ngắt lời :
 - Vâng ! Tôi đây. Anh Quảng không dặn chị hay sao ?
 Anh phu xe đang nói dở câu thì có hai người đàn ông mặc âu phục 
				từ phía nhà ga đi ra, xăm xăm bước tới phía Hậu, nét mặt rất 
				khả nghi. Sợ là mật thám theo dõi, anh phu xe vội lớn tiếng 
				bảo Hậu :
 - Xin bà hai hào ! Từ đây lại đằng ấy xa lắm, lại toàn đường 
				dốc. Bà cho hai hào tôi mới kéo !
 Hậu ngần ngại đứng yên. Cô chưa bao giờ ngồi xe kéo. Đàn bà 
				nhà quê suốt đời chỉ đi bộ. Xe kéo là thứ phương tiện dành cho 
				các thầy thông, thầy phán, hoặc những phú thương thị thành chứ 
				một người nhà quê chân đất như Hậu leo lên xe coi nó chướng mắt 
				lắm. Chờ hai người đàn ông lạ mặt đi xa, anh phu mới giục :
 - Chị lên đi. Đừng đứng giằng co ở đây, người ta để ý !
 Hậu miễng cưỡng leo lên, nhíu mày bảo:
 - Ngại quá, bắt anh kéo !
 - Người chị nhẹ như bông, ngại cái gì ! Tôi đã kéo những ông 
				khách béo trục béo tròn, nặng như tạ gạo ! Chị ăn thua gì !
 Anh ta nói đúng, Hậu dáng người mảnh mai, bà Lương vẫn thường 
				nói đùa với bạn bè của Hậu :
 - Cái Hậu nhà này mỗi lần có việc phải lên đê, chỉ sợ gió thổi 
				bay xuống sông ! Người gì mà cứ như là ốm đói !
 Anh phu xe bắt đầu khom lưng kéo. Qua những dãi phố xầm uất, anh 
				đi chậm lại và giảng cho Hậu nghe những sinih hoạt của phố 
				phường mà anh chắc chắn là Hậu chưa hề quen biết. Cuối cùng anh 
				đưa Hậu đến một con hẻm nhỏ thuộc khu lao động có tên là ngõ Lò 
				Rèn và dặn Hậu cứ tự nhiên đi vào, sẽ có người đứng đón ở căn số 
				19. Anh dừng xe. Hậu làm bộ trả tiền để nghe anh dặn:
 - Cái nhà có cánh cửa gỗ sơn màu xanh đậm. Trước sân có giàn bí 
				và hai sợi dây phơi. Chị cứ vào đi. Tôi đứng chờ ở ngoài này. 
				Nếu vạn nhất không có ai ở trong nhà, hoặc cửa khóa ngoài thì 
				chị quay đầu ra đây. Dặn hờ chị thế thôi, chứ chắc chắn có người 
				đang đợi chị, vì tôi đã hẹn rồi!
 - Hậu gật đầu rồi xăm xăm bước đi, không dám nhìn hai bên con 
				hẻm. Cô dừng lại bên căn nhà nhỏ, thấp lè tè như cái bát úp mà 
				người giao liên đã dặn dò, thấy cánh cửa màu xanh mở hé và thấp 
				thoáng vài người bên trong. Cô ho một tiếng rồi mạnh dạn bước 
				chân vào. Đó là căn nhà thuê dùng làm chỗ hoạt động và là chỗ 
				tạm trú cho cán bộ thoát ly khỏi thành phố trước khi Thàn bộ Hà 
				Nội bố trí đi những nơi khác. Mọi thứ trong nhà đều cũ kĩ, xiêu 
				vẹo. Bốn người đàn ông ngồi vây quanh một chiếc bàn vuông, cùng 
				đứng dậy chào Hậu với ánh mắt trìu mến. Một người mặt áo dài 
				trắng, dáng dấp thư sinh, bước vội lại đỡ giỏ và nón cho Hậu rồi 
				nềm nở lên tiếng:
 - Chị Quyết phải không ạ mời chị vào trong này!
 Giai đoạn này phụ nữ thoát ly cũng khá nhiều nhưng so với đàn 
				ông thì vẫn chưa đáng kể. Ở nhiều nơi phong trào các cô bỏ nhà, 
				hoặc theo Quốc Dân Đảng, hoặc theo Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí 
				Hội, lan rộng quá, đền độ cha mẹ phải vội vã gã chồng để ngăn 
				chặn. Phụ nữ đảm trách công tác liên lạc bao giờ cũng dễ hơn đàn 
				ông, cho nên sự hiện diện của Hậu trong căn nhà này là một điều 
				quý giá khiến cá đồng chí điều phấn khởi.
 Người mặt áo dài đón Hậu rồi quay ra cửa nhìn hai bên con hẻm 
				xem có ai theo dõi không. Con hẻm này có một điểm lợi là nhà chỉ 
				nằm dọc theo một bên, còn bên kia là bức tường gạch cao đã lên 
				rêu xanh mốc. Nghĩa là không có nhà đối diện để nhìn vào nhà 
				mình. Bên kia bức tường là một cư xá thuộc loại bình dân, hình 
				như ngày trước Pháp xây làm trại gia binh, bây giờ đơn vị rút 
				đi, dân tứ xứ mua lại để ở.
 Anh ta đưa Hậu vào hẳn sau bức vách, đặt cái giỏ sát tường, úp 
				cái nón lên trên rồi chờ Hậu trở ra để giới thiệu với các đồng 
				chí mà Hậu sẽ sống chung và làm việc chung trong những ngày xắp 
				tới. Lần đầu tiên ngồi bên một đám đàn ông không hề quen biết 
				trong một căn nhà xa lạ, Hậu xấu hổ quá, từ lời ăn tiếng nói đến 
				cử chỉ đều lúng túng mất hết cả bình tĩnh, khác hẳn với hai năm 
				qua từng lãnh đạo chi bộ Hải Ninh. Lãnh đạo chi bộ Hải Ninh thật 
				ra là lãnh đạo toàn phụ nữ và hơn thế nữa toàn là phụ nữ quen 
				biết nhau trong làng, lại thêm cô em gái là Duyên bên cạnh, nên 
				gần giống như sinh hoạt trong một gia đình. Còn ở đây thì toàn 
				người lạ mà lại là đàn ông, làm Hậu chùn bước muốn bỏ ngay lập 
				tức. Cả đến cách xưng hô, Hậu cũng thấy rất ngượng mồm. Bốn 
				người đàn ông đều lớn tuổi hơn Hậu. Lẽ tự nhiên là Hậu phải goi 
				họ là anh xưng em, nhưng họ không bằng lòng. Họ muốn Hậu xưng 
				tôi, cũng như họ gọi Hậu bằng chị. Hậu ngồi khép nép ở mép 
				giường, cái giường duy nhất kê sát vách, trải chiếc chiếu cũ đã 
				gãy mòn cả bốn cạnh. Người mặc áo dài ra vẻ có học thức, lúc nào 
				cũng tươi cười nềm nở, tỏ rõ phong cách lãnh đạo.
 Anh ta bảo Hậu:
 - Chị ở tạm đây chờ đến khi có công tác cụ thể.
 Rồi anh ta chỉ tay về phía ba người đàn ông ngồi ở bàn và tiếp:
 - Đây là anh Kiệt, anh Thông, và anh Mão.
 Hậu cuối đầu chào ba người nhưng không biết nói gì, cô nhìn 
				thoáng từng người và nhận ra ngay họ cũng xuất thân lao động như 
				Hậu, nên trông ai cũng cục mịch, da ngăm đen, khác hẳn anh chàng 
				thư sinh mặc áo dài trắng. Anh dặn dò thêm vài câu rồi đứng dậy 
				từ giã, thậm chí Hậu chưa biết tên anh là gì. Mãi về sau, Hậu 
				mới khám phá ra đó Lê Tiến, công tác trên Thành Bộ Hà Nội. Lê 
				Tiến xuất thân con nhà giàu, giác ngộ cách mạng, gia nhập Thanh 
				Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ngay từ buổi mới thành lập và bây 
				giờ là Phó Bí thư Thành Bộ Hà Nội.
 Đêm đầu tiên nằm ở cơ sở là cả một cực hình đối với Hậu. Nhà chỉ 
				có một chiếc giường, ba người đàn ông nằm chung. Họ nhường cái 
				bàn cho Hậu, nhưng chẳn có mùng màn chiếu gối. Cái bàn tuy là 
				hình chữ nhật nhưng chiều dài vẫn quá ngắn. Hậu cứ co quắp tênh 
				bênh trên đó, ngượng ngùng không tài nào ngũ được. Mùi nước mắm, 
				cá khô, rồi mùi ẩm mốc thấm lâu vào lớp gỗ mặt bàn, bốc lên 
				trong đêm tối rất khó chịu. Lại thêm từng làn mũi xông vào đốt, 
				Hậu cứ liên tiếp vỗ khắp người rồi lâu lâu lại ngồi dậy, xuống 
				đất nằm để được dũi thẳng chân. Xuống đất thì mũi lại càng nhiều 
				hơn, Hậu lại mò mẫm leo lên. Không ngũ được Hậu trăn trở nhớ nhà 
				ra riết, chỉ mogn cho trời mau sáng. Khi ngoài đường có tiếng 
				rao “Bánh Tây” lần thứ nhất, Hậu thở phào ngồi bật lên, xuống 
				bếp nấu nước pha trà. Pha xong ấm trà, Hậu ra sân sau rửa mặt, 
				thấy hai bàn tay đầy những vết máu của cả chục con mũi đêm qua. 
				Người đàn ông tên Kiệt chạy đi đâu kiếm được chiếc chiếu nhỏ và 
				chiếc mùng cá nhân mang về cho Hậu làm Hậu mừng hơn bắt được 
				của. Hậu cảm động bảo:
 - Cám ơn anh! Anh đưa màn cho tôi, rồi các anh nằm không hay 
				sao?
 Kiệt vốn có tính khôi hài nên thản nhiên đáp:
 - Da chúng tôi dù sao cũng dày hơn da chị! Muỗi cắn chẵn hề hấn 
				gì đâu!
 Từ đó, ngày qua ngày Hậu làm quen với nếp sống mới của những 
				khuôn mặt trước lạ sau quen. Hậu thấy yên lòng vì xem ra ai cũng 
				hiền cả. Công tác ở đây chưa có gì nhiều. Kiệt và Thông sáng nào 
				cũng ra đi, tìm cách len lỏi vào hàng ngũ công nhân - chẳng hạn 
				lò gạch Cát Linh - để làm nhiệm vụ vô-sản-hóa, tuyên truyền cho 
				đường lối của tổ chức. Hậu thì ở nhà nấu cơm, những bữa cơm hết 
				sức đơn giản bởi tất cả đều phải tự túc, không có ngân khoảng 
				nào cấp dưỡng. Kiệt thuê xe kéo, bữa có bữa không. Thông thì đi 
				gánh than, nhưng cũng chẵn có việc thường xuyên. Hôm nào mai mắn 
				kiếm được một hai hào về đưa hết cho Hậu để góp vào tiền chợ và 
				tiền giấp mực để in tài liệu. Chỉ có Mão vì chữ nghĩa khá hơn 
				hai người kia, lại có hoa tay viết chữ đẹp, nên được bố trí ở 
				nhà nấu thạch, in truyền đơn, dự trữ sẵn. Việc in ấn tuy không 
				nhiều, nhưng đôi khi phải chờ đêm xuống mới dám làm, nên ban 
				ngày ở nhà Hậu và Mão có nhiều thì giờ đọc taì liệu rồi bàn luận 
				về nội dung những cuốn sách Thành Bộ bí mật gởi xuống. Mão trước 
				đây đi lính cho Tây, giác ngộ cách mạng, bỏ hàng ngũ, được kết 
				nạp, cho học chữ quốc ngữ rồi thoát ly xuống Hà Nội trước Hậu 
				sáu tháng. Mão là người đầu tiên có mặt ở cơ sở này. Rồi kế đến 
				là Kiệt và sau cùng là Thông. Ngoài việc in truyền đơn, Mão cũng 
				đãm nhận công tác giao liên mỗi khi Lê Tiến cần phổ biến một chỉ 
				thị mới của Thành Bộ. Bởi vậy, Mão luôn luôn túc trực tại nhà, 
				không phải ra ngoài kiếm việc.
 Để che mắt thiên hạ, để phòng trường hợp có người lạ bất chợt 
				vào nhà hoặc những khi cần đem truyền đơn ra ngoài, Mão phải đảm 
				luôn công việc sản suất vàng mã, nghĩa là in ra những xấp tiền 
				giả để người ta dem đốt ở những đám tang hoặc ngày giỗ, ngày Tết 
				hay lễ vu lan cúng các cô hồn. Mão tung tin cho hàng xóm biết 
				nghề chính của mình là in tiền âm phủ, cung cấp cho cửa hiệu bán 
				hương nhan và vàng mã ở chợ Đồng Xuân. Tiến trình xản xuất vàng 
				mã cũng đơn giãn như in truyền đơn: Chỉ việc phết mực vào cái 
				khung gỗ có khắc hình những đồng xu đồng trinh thời xưa, rồi in 
				lên tờ giấy bản. Làm lâu quen ty thì mực sẽ phết đều, tềin in ra 
				không bị lem luốc vì đậm quá hay nhợt nhạt vì mực ít quá. In 
				rồi, đem từng tờ hong cho khô trước khi xếp thành từng xắp trăm 
				tờ. Phải đúng một trăm tờ mới đựơc, chứ đếm thiếu là coi như 
				đánh lừa thần thánh! Giấy in tiền cũng thế, phải dùng bản xấu và 
				mỏng, để khi đốt lớp tro sẽ theo gió bay đi, tan hết, thì tiền 
				mới gởi sang thế giới bên kia cho người chết xài! Đứng trên lập 
				trường vô sản và vô thần, Mão coi những trò này là mê tín dị 
				đoan, cần phải bài trừ. Nhưng tạm thời Mão vẫn phải làm để có 
				thể công khai đưa truyền đơn bằng cách xếp chồng những tờ tiền 
				giả nằm lên trên.
 Ngày đầu tiên mới đến, Hậu tò mò đứng nhìn Mão in tiền. Mão cười 
				nói với Hậu:
 - Đúng là đem tiền giả bán lấy tiền thật! Đã chết rồi còn tiêu 
				quái thế nào được nữa mà phải gởi tiền xuống đấy!
 Nhớ lời bà Lương có lần giảng, Hậu nhắc lại:
 - Mẹ tôi bảo, không được gọi là tiền giả. Phải gọi là tiền âm 
				phủ. Cũng không được nói là “đốt tiền ”, mà phải nói là “ hóa 
				vàng “!
 Mão nói:
 - Mình chống duy tâm mà phải làm nghề duy tâm! Chị thấy buồn 
				cười không?
 Câu hỏi bất ngờ làm Hậu đứng yên. Cô chưa bao giờ đặt vấn đề 
				trong đầu là đốt vàng mã thì bị coi là duy tâm. Cô chỉ biết đó 
				là phong tục của dân gian truyền từ đời này qua đời khác, chẳng 
				ai thắc mắc nó là duy tâm hay duy vật, cũng chẳng ai đặt câu hỏi 
				là điều đó đúng hay sai. Cái gì đã có sẵn thì cứ để yên như vậy 
				cần gì phải thay đổi! Huống chi mẹ cô lúc nào cũng là người rộng 
				rãi khi hóa vàng trong ngày giỗ thân nhân hoặc lễ vu lan mà 
				chính cô khi đi bên mẹ cũng cảm thấy việc đó có ý nghĩa. Ít ra 
				đó là tấm lòng thành để tưởng nhớ người quá cố!
 Hậu cố nhớ lại có lần ông Lương đã kể lại sự tích này cho cả nhà 
				nghe trong bữa cơm. Cô ngẫm nghĩ một chút để xắp xếp ý tưởng rồi 
				nói:
 - Bố tôi bảo là thuở xa xưa bên Tàu, người ta có tục chia của 
				cho người chết để người chết có cái mà tiêu ở thế giới bên kia. 
				Hễ nhà có người chết thì chôn theo biết bao nhiêu vàng bạc châu 
				báu. Vua chúa và phú hộ còn chôn theo cả vợ bé hoặc nàng hầu 
				nữa. Đến thời nhà Đường vua thấy làm như thế, dần dần của cải sẽ 
				cạn hết, vì chỉ một thời gian sau trên dương gian sẽ chẵn còn 
				châu báu nữa. Vua truyền cho nhân gian làm tiền giả mà đốt cho 
				đỡ phí phạm. Đốt xong thì tiền sẽ thự động “ hoá vàng “ bay 
				xuống âm phủ!
 Nghe Hậu kể rành mạch về sự tích tiền âm phủ, Mão hết sức cảm 
				phục. Anh thầm nhủ trong bụng: Con ông giáo có khác! Hậu lại 
				thêm:
 - Giờ này, đa số dân mình vẫn tin là có thế giới bên kia. Cho 
				nên không phải người ta chỉ đốt tiền giả, mà còn đốt cả hình 
				nhân nữa, vì cho rằng những hình nhân đó sau khi đốt, sẽ biến 
				thành người thật. Bố tôi bảo là, có những bà vợ nặng máu ghen, 
				khi chồng chết, chỉ đốt tiền chứ không chịu đốt hình nhân phụ 
				nữ, sợ đám hình nhân ấy sẽ sống dậy thành vợ lẽ của chồng mình 
				dưới âm phủ!
 Mão càng nể kiến thức của Hậu. Gã buộc miệng nói:
 - À thì ra là thế! Buồn cười nhỉ!
 Từ đó, ngày ngày Thông và Kiệt đi làm, ở nhà chỉ còn Hậu quanh 
				quẩn bên Mão, phụ Mão những việc lặt vặt khi Mão cần đến. Mão 
				thấy tháng ngày đầm ấm hơn gấp bội vì có Mão bên cạnh, bù đắp 
				thời gian vừa qua, thui thủi một mình từ sáng tới chiều, lóng 
				ngóng chờ Thông và Kiệt đi làm về cùng ăn cơm tối, nói chuyện 
				cho vui. Mão lại càng sung sướng hơn vì từ khi có Hậu, Mão không 
				phải phụ trách thổi cơm nữa. Mọi việc lớn nhỏ trong nhà: xách 
				nước, quét nhà, bổ củi v.v... Hậu đều chu toàn một cách gọn ghẽ, 
				như thói quen làm lụng khi còn ở Hải Ninh.
 Số tiền ít ỏi Hậu bọc theo,, tiêu thật dè xẻn cũng chỉ được hai 
				tháng là hết nhẵn. Hậu phải bán luôn sợi dây chuyền vàng mẹ cô 
				mới mua cho năm ngoái. Gạo thời ấy rất rẻ, loại xấu chỉ có hai 
				hào một thúng hai mươi cân. Nhưng dù rẻ đến đâu mà tiền cứ tiêu 
				ra, không kiếm đồng nào thì rồi cũng cạn sạch. Từ đó, bữa cơm 
				bữa cháo rất khổ sở.
 Nhưng chẳng riêng gì Hậu, dân cư cùng chung con hẻm với Hậu đều 
				là hạng cùng đinh chạy ăn từng bữa. Mà đã nghèo thì thường lại 
				đông con. Trong nhà chật chội, nóng bức, thành ra ai cũng kéo 
				ra ngoài, tạo ra cái sinh hoạt hỗn độn suốt ngày trên con hẻm. Tiếng khóc con nít hầu như chả bao giờ dứt. Tiếng chồng quát vợ 
				ngày nào cũng có. Cha mẹ đánh con, hàng xóm chửi nhau, cộng 
				với tiếng rao hàng liên tục, làm cho Hậu lắm khi bực mình vì 
				chưa quen. Hai mươi năm ở Hải Ninh, cô sống êm đềm trong một 
				căn nhà rộng, cách biệt láng giềng bởi mảnh vườn và cái ao, có 
				bao giờ thấy thị thành náo nhiệt như thế này ! Huống chi trước 
				khi lên đây, cô cứ tưởng Hà Nội chỉ tòan người giàu sang và văn 
				minh, nhan nhản trai thanh gái lịch. Nào ngờ họ còn sống vất 
				vả hơn cả gia đình cô ở nông thôn. Mảo hiểu tâm trạng của Hậu 
				nên giải thích :
 Anh Lê Tiến bảo tôi thuê chỗ này là vì người chung quanh vừa 
				nghèo vừa đông. Ít ai
 để ý đến mình. Gặp ai mình cũng cần phải kết thân với họ. Nhất 
				là hai nhà hai bên. Bên tay phải nhà mình là vợ chồng ông Rao. Ông ấy làm nghề “tóc rối đổi kẹo”
 Hậu ngắt lời :
 - Tôi có gặp rồi. Sáng nào ông ấy cũng gánh đôi quang gánh đi 
				thật sớm !
 Mão gật đầu :
 - Còn bà vợ thì đi mua đồng nát, mang về đổ đầy sân sau, chờ 
				người ta đến lấy. Chị thấy đấy : Nồi, nêu, soong, chảo, chậu thao, mâm đồng, lúc nào cũng chất lên cả đống ! Hai vợ 
				chồng ấy thì hiền lành cả !
 Ngừng một chút Mão lại thêm :
 - Còn bên tay trái nhà mình là bà Vỵ. Bà ấy thì không làm gì cả 
				vì bận con mọn !
 Rồi Mão tiếp tục đề cập đến các cán bộ khác, nói cho Hậu biết 
				ngành nghề và gia cảnh của từng người. Mão kết luận :
 - Nói chung, tất cả đều thuộc thành phần nhân dân lao động. Chả biết mình có ở đây lâu không, nhưng còn ở ngày nào thì ngày 
				nấy phải hòa mình vào quần chúng. Anh Lê Tiến thường dặn chúng 
				tôi như thế ! Họ đều nghèo như mình. Có người còn nghèo hơn cả 
				chị và tôi nữa !
 Tuy nhiên nghèo không đáng ngại bằng nỗi lo bị mật thám phát 
				giác. Bốn người sống trong nỗi căng thẳng thường trực, lúc nào 
				cũng lấm lét, nhìn ai cũng ngờ vực. Có hôm Hậu vừa xách giỏ ra 
				chợ thì tình cờ thấy một người quen cùng quê ở Hải Ninh cũng 
				đang lang thang trước cửa hàng vải. Hậu giật mình hoảng hốt, vội quay đi và lủi nhanh vào đám đông. Hậu chưa hề báo cho gia 
				đình biết là cô đang ở đây, vì điều đó sai nguyên tắc. Nếu gặp 
				người quen chắc chắn sẽ bị lộ. Bởi vậy lúc nào Hậu cũng phải mở 
				to đôi mắt nhìn quanh để đề phòng. Lên Hà Nội, trong thâm sâu 
				chỉ mong có dịp gặp lại Trần Khải, 
				nhưng chả bao giờ nghe các đồng chí nhắc đến mà Hậu cũng không 
				dám hỏi.
 Đối với hàng xóm hai bên trong cùng con hẻm, Hậu tỏ ra rất thân 
				tình, sẳn sàng giúp họ những công việc lặt vặt như gánh nước 
				hay bổ củi. Thậm chí có hôm bế con cho họ cả buổi mà vẫn vui vẻ 
				nói cười, thành ra ai cũng quí mến Hậu. Những lúc ôm con nhà 
				hàng xóm, Hậu thường thấy nhớ nhà ray rứt vì chẳng biết bố mẹ 
				sống chết ra sao từ ngày Hậu bỏ đi. Đôi khi vừa làm bếp, Hậu 
				vừa thầm nhủ :
 - Thoát ly gia đình theo cách mạng, tưởng làm việc gì to tát, hóa ra xuống Hà Nội chỉ để nấu ăn hoặc bế con cho người ta ! Làm 
				cách mạng kiểu này thì có đánh được thằng Tây nào đâu !
 Đối với Hậu, ngay từ buổi ban đầu được Tân tuyên truyền, Hậu 
				chỉ nghĩ đến việc đi vận động phụ nữ chống Pháp, hoặc thậm chí 
				cầm súng lao ra chiến trường. Thế mà gần nữa năm bỏ cha bỏ mẹ 
				ra đi, Hậu chỉ làm việc nội trợ, nấu cơm cho các đồng chí và 
				nơm nớp lo sợ mật thám đến bắt. Hậu sốt ruột lắm vì thấy việc 
				thóat ly của mình không mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hậu 
				than với Mão điều này thì Mão bảo :
 - Trước hôm chị đến, mật thám phát hiện một cơ sở của ta bên 
				ngõ Ngọc Ngà. Bốn đồng chí bị bắt, hiện đang bị giam ở Hỏa lò. Mật thám vẫn đang tiếp tục điều tra. Vì vậy các anh lãnh đạo 
				mới chỉ thị mình án binh bất động !
 Mão vì cảm tình với Hậu nên mới phun ra điều đó, chớ thật ra 
				Mão không có quyền tiết lộ. Để tránh việc bị bắt giây chuyền, mỗi cơ sở đều hoạt động riêng lẻ, không biết nhau, cũng không 
				tiết lộ tên đồng chí không may bị bắt. Nhờ Mão nói, Hậu hiểu 
				ra, từ đó mới thôi trách móc lãnh đạo. Hậu sợ nhất là chưa làm 
				được gì, đã bị bắt rồi chết trong tù, giống như anh Tân của 
				Hậu, chưa đụng được thằng tây nào, đã gục ngã vì sốt rét !
 Một hôm, trẻ con bên kia bờ tường đối diện đá trái banh lọt vào 
				nhà Hậu. Hậu đang vặt rau sau nhà, Mão thì đang in truyền đơn 
				trong buồng, tức là tấm cót quây sát vách nhà bếp. Như thông 
				lệ, cửa nhà ngoài vẫn hé mở để tránh sự ngờ vực của mật thám. Hậu vừa múc nước vào thau thì có tiếng gọi trước hè :
 - Có ai trong nhà không ?
 Mão hốt hoảng lấy cái bao tải phủ vội lên đống truyền đơn đang 
				in dở. Còn Hậu thì tái mặt đứng yên một chỗ, lúng túng không 
				biết chạy đi đâu. Ngòai cửa, giọng nói nhắc lại lần thứ hai. Hậu mới cố lấy lại bình tỉnh bước ra. Mão núp trong góc nhà ngó 
				ra. Một người đàn ông trc5 tuổi ngoài 30, lễ phép cúi đầu chào 
				Hậu rồi chỉ vào góc nhà và nói :
 - Cô cảm phiền, cho tôi xin quả bóng. Cháu nó chơi, chẳng may 
				bay sang đây !
 Hậu thở phào cúi xuống lượm trái banh đưa lại. Người đàn ông 
				nói cám ơn nhưng không đi ngay. Ông ta nấn ná đứng gợi chuyện 
				làm quen :
 - Chắc cô ở đâu mới đến đây ? Bác Cử, chủ căn nhà cô đang thuê 
				này, dạo trước hay sang chơi với bố tôi. Bây giờ ông ấy giàu 
				rồi, ít khi thấy mặt !
 Vừa nói, anh ta vừa đảo mắt nhìn quanh khắp căn nhà nhỏ làm Hậu 
				lo sợ ú ớ đáp :
 - Vâng … chào ông … Tôi ở đây … cũng lâu rối. Nhưng mà tôi ít 
				đi đâu, thành thử chả gặp ai !
 Người đàn ông chưa chịu buông tha. Anh ta tiếp :
 - Gia đình có trẻ con không cô ? Nếu có thì bảo chúng nó sang 
				chơi với trẻ con nhà tôi ! Sân bên nhà tôi rộng rãi lắm !
 - Cám ơn ông. Nhà tôi toàn người lớn thôi ạ !
 Anh ta bổng nhìn Hậu đăm đăm như dò xét rồi mới gật đầu giã từ, cầm quả bóng đi về. Hậu hoang mang quay vào. Mão cũng đang tái 
				mặt theo dõi và dự định nếu mật thám ập vào thì anh sẽ nhảy bờ 
				tường phía sau, lao qua nhà hàng xóm tẩu thóat.
 Buổi chiều, Thông và Kiệt trở về. Hậu kể lại câu chuyện trái 
				banh hồi ban sáng cho mọi người nghe rồi kết luận :
 - Biết đâu nó là thằng chỉ điểm tay sai mật thám. Nó giả vờ đá 
				quả bóng vào nhà mình để có cơ dò xét !
 Mão nói vuốt theo ý của Hậu :
 - Tôi cũng đoán thế ! Chị Quyết đưa cho nó quả bóng rồi, 
				nó cứ đứng mãi không chịu về.
 Hậu gật gù nói thêm :
 - Đứng không thì nói làm gì ! Nó còn nhìn khắp nhà rồi hỏi nhà 
				mình có trẻ con không. Hàng xóm láng giềng gì mà tò mò thế ?
 Kiệt nghe dứt câu chuyện hoảng hốt hỏi Mão :
 - Thế đã giấu hết tài liệu đi chưa ?
 Mão nhìn Kiệt lắc đầu, Kiệt đứng bật dậy, chạy vào buồng in, tức là tấm cót quay tròn sát vách. Anh thấy máy in thạch, khay 
				mực và từng xếp truyền đơn vẫn còn nằm trơ vơ dưới cái gầm bàn 
				gỗ mộc. Anh quay ra, nắm chặc bàn tay, nghiến răng bảo Mão :
 - Thế này là bỏ mẹ cả lũ ! Sao lại có thể bất cẩn đến như thế ! 
				Hễ đã nghi ngờ thì phải giấu hết tài liệu đi chứ. Từ trưa đến 
				giờ, bao nhiêu tang vật cứ nằm tênh hênh ra đây. Ngộ nhỡ nó ập 
				vào thì chạy làm sao cho kịp. Đoãng quá !
 Nghe Kiệt nói, cả ba khuôn mặt cùng giật mình kinh hãi. Mãi 
				đến lúc đó, Mão mới thấy mình sơ hở. Lập tức Thông chạy vào, xếp vội mọi thứ bỏ vô chiếc rương gỗ sơn đen rồi cùng Kiệt 
				khiêng ra sau nhà. Kiệt bực mình không thèm nhìn Mão. Anh làm 
				hiệu bảo Thông cùng anh vần cái lu nước sang một bên, lật tấm 
				ván đây nấp hầm, rồi khiêng cái rương tài liệu thả xuống đó. Xong rồi, hai người đậy nấp hầm, đẩy cái lu nước cho đè lên 
				bên trên, đồng thời nhặt mấy mẩu gạch vụn và bát chén vỡ vứt 
				lung tung bên cạnh lu. Cái hố này họ đào ngay từ khi mới 
				don vào và hôm nay là lần thứ hai họ dùng đến.
 Thông và Kiệt rửa tay, xoa vào quần cho khô rồi quay vào nhà. Mão ngồi ở bàn, 
				ngượng ngùng phân trần một câu nhưng càng làm cho Kiệt bực bội 
				thêm.
 Thông trầm ngâm nói :
 - Sáng mai tôi đi tìm anh Lê Tuấn, báo cáo tình hình cho anh ấy 
				biết rồi xin chỉ thị của Thành bộ. Nếu chỗ này lộ rồi, thì 
				mình phải tìm cơ sở khác. Dù sao đi nữa cũng cần cảnh giác !
 Tối hôm đó, Hậu phập phòng lo âu, chỉ sợ chuyện bất trắc xãy 
				ra trong đêm. Cô nghe tiếng trở mình liên tục trên giường bên 
				cạnh và biết chắc ba đồng chí kia cũng trăn trở ưu tư như cô. Mãi đến gần sáng Hậu mới ngủ được. Lúc Hậu thức giấc thì mặt 
				trời đã lên cao. Thông đã đi từ tờ mờ sáng rồi, Kiệt và Mão 
				thì đang ngồi ăn khoai lang, uống nước lã cho căng bụng. Hai 
				người nói chuyện nho nhỏ theo thói quen. Hậu hơi ngạc nhiên vì 
				giờ này Kiệt vẫn chưa đi làm, nhưng cô ngại không dám hỏi. Rửa 
				mặt xong, Hậu từ dưới bếp đi lên, Kiệt quay lại vui vẻ nói :
 - Kéo xe lúc này cũng có tiền. Nhưng ngặt một nỗi là mình không 
				có tiền để thuê xe kéo ! Đúng là cái vòng lẩn quẩn !
 Hậu cười buồn :
 - Tôi bây giờ cũng hết nhẵn rồi. Hôm nay chắc phải bắt các anh 
				ăn cháo muối !
 Vốn tính hay khôi hài, Kiệt cười theo :
 - Tôi có hỏi vay đâu mà chị khai là chị hết tiền !
 - Anh muốn vay tôi cũng chả có !
 Kiệt nghiêm mặt bảo :
 - Ba đứa chúng tôi đều là thanh niên sức dài vai rộng mà chả làm 
				gì ra tiền, để chị bán cả tư trang. Chúng tôi lấy làm áy náy 
				lắm !
 Hậu hài lòng đáp lại :
 - Anh này lại khách sáo rồi ! Đã bảo đừng nhắc đến chuyện ấy nữa 
				cơ mà !
 Hậu vừa nói dứt thì Thông trở về, có Lê Tiến theo sau. Mỗi lần 
				gặp Lê Tiến, Hậu điều cảm thấy bồi hồi nhớ lại hình ảnh người 
				anh của mình đã chết. Ngày trước anh Tân của Hậu cũng hay mặc 
				áo dài trắng và cũng có cái dáng trí thức như Lê Tiến. Chỉ khác 
				một điều là Lê Tiến nói năng nhỏ nhẹ hơn và trên môi lúc nào 
				cũng dường như có sẵn nụ cười ngay cả những hôm nhịn đói vì hết 
				gạo.
 Buổi họp diễn ra nhanh chóng quanh rổ khoai luộc. Theo thói 
				quen, Lê Tiến nhập đề bằng một số tin tức rất phấn khởi, chẳng 
				hạn như thợ thuyền đình công tại bến cảng Sài Gòn, công nhân 
				đồn điền cao su đât đỏ nổi lên chống lại bọn cai thợ. Toàn 
				những tin mà không thể kiểm chứng được, nhằm mục đích để động 
				viên đồng chí và để chứng tỏ phe ta đang đồng bộ thắng lợi khắp 
				nơi trên phạm vi cả nước. Sau đó, Lê Tiến mới chuyển sang vấn 
				đề phải giải quyết trước mắt. Anh nói :
 - Anh Thông vừa báo cáo với tôi câu chuyện quả bóng đá hôm qua. Chắc chỉ là tình cờ, nhưng cảnh giác như thế là tốt. Trước mắt, chúng ta cứ ở đây vì là khu lao động ít ai để ý. Nhưng tôi đề 
				nghị từ nay chị Quyết với anh Mão phải giả vờ đóng vai vợ chồng, nấu cơm tháng cho anh Thông và anh Kiệt. 
				Như thế thì người ngoài mới không chú ý.
 Hậu nhíu mày khẻ đưa mắt nhìn Mão rồi ngượng ngùng cúi xuống. Mão thì cố giữ nét bình thản nhưng trong lòng chợt dấy lên một 
				niềm vui. Lê Tiến kể tiếp :
 - Tôi cũng sơ ý không dặn anh Mão ngay từ hôm đầu. Bên Khâm 
				Thiên, người ta cũng chỉ vì sơ hở mà bị bắt. Một đồng chí ở 
				Bắc Ninh, thoát ly lên Hà Nội, cũng giống như đồng chí Quyết. Hàng xóm thấy tự dưng có một cô gái đến sống chung với hai người 
				đàn ông. Tất nhiên họ phải sinh nghi. Nếu không phải là gái ăn 
				sương thì tất nhiên là hội kín. Bọn chỉ điểm tay sai mật thám 
				lúc này thiếu gì, chỗ nào mà chả có ! Đồng chí ấy mới lên Khâm 
				Thiên được có hai tuần thì bị bắt. Mật thám kéo đến vây nhà vào 
				lúc 4 giờ sáng, nên không ai chạy thoát !
 Hậu nhíu mày hỏi Lê Tiến :
 - Báo cáo anh, tôi tưởng khi cơ sở bên ấy bị lộ, các đồng chí 
				bên ấy bị bắt, thì chúng tôi dọn đi chỗ khác, chứ sao lại cứ ở 
				đây ?
 Lê Tiến gật đầu cười :
 - Chị sợ các đồng chí ấy bị tra tấn, rồi có người yếu đuối, chịu đựng không được, sẽ khai ra chỗ này chớ gì ? Cái ấy thì 
				chị không lo ! Họ có biết chị ở đây đâu mà khai ? Tất cả các cơ 
				sở, các trạm giao liên, đều không biết nhau, không liên lạc 
				hàng ngang. Chỗ nào biết chỗ nấy ! Chỉ trực tiếp liên lạc với 
				thành bộ mà thôi !
 Hậu thở phào nhẹ nhõm, đưa mắt nhìn Kiệt, Mão và Thông. Cả ba 
				cùng nhìn lại Hậu một cách cảm phục vì Hậu đã nêu ra một thắc 
				mắc mà chính họ đang ưu tư. Hậu cười bảo Lê Tiến :
 - Đúng là tôi có cái tật lo bò trắng răng ! Lãnh đạo đã dự kiến 
				cả rồi !
 Lê Tiến nhìn Thông và Kiệt dặn thêm :
 - Sáng sáng, dù chẳng có việc gì, hai anh cũng phải giả vờ như 
				đi làm, để hàng xóm khỏi phải nghi ngờ. Vả lại, phân tán lực 
				lượng bao giờ cũng tốt hơn !
 Mọi cái đầu cùng gật. Mão đưa mắt nhìn Hậu, rộn rã niềm vui. Càng ngày Mão càng nặng tình cảm với Hậu. Mão lại có lợi thế 
				hơn hai đồng chí kia là Mão không phải đi làm, có nghĩa là suốt 
				ngày quanh quẩn bên Hậu. Bao nhiêu lần Mão đã đứng trong nhà, len lén nhìn Hậu, khi cô ngồi gội đầu ở góc sân. Buổi tối, khi Hậu đứng tắm trong tấm cót quay tròn sau nhà bếp, Mão cũng 
				vẫn trông ra, mặc dù không thấy gì. Đang thầm yêu trộm nhớ như 
				vậy thì bổng dưng Lê Tiến chỉ thị Mão phải làm chồng của Hậu ! 
				Bất chiến tự nhiên thành ! Mão thấy đúng là cơ hội trời cho, không nên bỏ lở thời cơ. Mão ngước nhìn Lê Tiến thầm cám ơn sự 
				sáng suốt của người lãnh đạo. Rồi đây vai trò của người chồng 
				giả biết đâu chẳng biến thành thật. Mão sẽ cưới Hậu, hai vợ 
				chồng cùng làm cách mạng !
 Riêng Hậu thì không vui ti’ nào. Chỉ vì mệnh lệnh mà phải chấp 
				hành, chứ trong ba người, Hậu vốn ít thiện cảm với Mão nhất. Cái người mà Hậu thấy gần gũi hơn là Kiệt, vì tính tình Kiệt 
				lúc nào cũng vui vẻ, kể cả những khi uống nước lã cẩm hơi. Rồi 
				kế đến là Thông. Chỉ vì Mão thường xuyên ở nhà, cho nên gã mới 
				được gán cho Hậu. Cọ mĩm cười nhìn Lê Tiến nói :
 - Báo cáo anh. Đóng vai nấu cơm tháng cho hai người ăn thì từ 
				nay sáng nào tôi cũng phải đi chợ ? Chả nhẽ cứ xách cái giỏ 
				không, đi rồi lại về !
 Lê Tiến nhìn Hậu cười hiền hòa :
 - Chị phải khắc phục chớ tôi biết làm sao ! Đi chợ là cứ đi. Nhét cái gì ở dưới đáy giỏ cho nó phồng lên, rồi mua bó rau bỏ 
				lên trên !
 Hậu gật đầu :
 - Vâng, tôi cũng định như thế !
 Lê Tiến trông ra cửa và bảo mọi người :
 - Cần thống nhất với nhau về ám hiệu truớc cửa. Hôm nọ tôi đã 
				gợi ý với chị Quyết và anh Mão rồi. Chẳng hạn nếu lở bị lộ hoặc 
				bị nghi ngờ, thì người nhà nên treo cái khăn trên giây phơi. Thí dụ thế. Ám hiệu nào cũng được, miễng phải có và phải thống 
				nhất với nhau, để người đi công tác về, hễ nhìn thấy thì bỏ đi 
				thẳng, không cần vào nhà nữa
 Thông đáp thay cả bọn :
 - Vâng ! Chúng tôi đã nhất trí cả rồi. Anh thấy trước cửa nhà 
				lúc nào cũng có cái khăn vắt trên giây phơi. Nếu chẳng may bị 
				mật thám ập vào, thì ai có mặt trong nhà, phải cố gắng giật bỏ 
				cái khăn. Đó là dấu hiệu bị lộ !
 Lê Tiến trấn an :
 - Hoạt động bí mật thì chủ yếu là phải cảnh giác ! Nhưng nói để 
				ba anh và chị Quyết yên lòng. Thành bộ đánh giá cơ sở này là 
				kín đáo nhất, vì nằm lọt trong xóm lao động, không sợ nhân dân 
				tố giác. Nhất là nếu ta làm tốt công tác dân vận, thì lại càng 
				an toàn hơn. Hôm nọ, tôi có bàn với anh em trên ấy xem có cần 
				dọn đi nhà khác hay không, thì ai cũng nhất trí với nhau chỗ 
				này là tốt nhất ! Tạm thời thì không nên đi đâu cả !
 Hậu gật đầu tiếp lời Lê Tiến :
 - Tôi cũng nhất trí với anh. Dạo mới lên đây, tôi hãi lắm. Nhưng dần dần rồi thấy hàng xóm láng giềng aai cũng cư xử như 
				người nhà, tôi mới đỡ lo !
 Ngoài ngõ, có tiếng rao của hàng chè đỗ đen. Rồi cô hàng chè 
				đặt gánh ngồi xuống bán ngay trước cửa nhà Hậu. Cô ngồi đó là 
				vì muốn nương nhờ bóng mát của tàn cây quéo mọc bên kia bức 
				tường gạch tức là trong mảnh sân của nhà hàng xóm đối diện nhà 
				Hậu. Chính từ mảnh sân đó, hôm qua trẻ con đã đá trái bóng bay 
				sang nhà Hậu làm cả bọn sợ suốt nguyên đêm. Trong nhà, Lê Tiến 
				lo lắng trông ra quan sát cô hàng chè xem có dấu hiệu gì là 
				thành phần chỉ điểm cộng tác với mật thám Pháp hay chăng ? Với 
				Lê Tiến thì bất cứ ai cũng phải nghi ngờ để đề phòng, nhất là 
				khi người đó lại dừng chân ngay trước cửa cơ sở của mình ! Biết 
				ý Lê Tiến, Hậu nói nhỏ :
 - Con bé này nó hay ngồi bán ở đây lắm. Mấy tháng nay rồi ! 
				Thỉnh thoảng tôi cũng có gợi chuyện làm quen thân với nó. Mẹ 
				chết, bố tục huyền. Ở với dì ghẻ thành ra khổ từ bé !
 Lê Tiến thấy an lòng, không còn bận tâm đề phòng cô hàng chè 
				nữa .Trước khi đứng dây ra về. Lê Tiến truyền đạt thêm vài kinh 
				nghiệm để áp dụng những chỗ khác. Anh nói
 - Tôi dặn cái này nữa. Anh Mão với chị Quyết nhớ hộ tôi. Đã 
				đóng vai vợ chồng thì thỉnh thoảng cũng phải giả vờ cãi nhau, giã vờ đánh ghen cho nó ầm lên một tí. Vợ chồng mà không bao 
				giờ cãi nhau thì chắc chắn không phải vợ chồng !
 Mọi người cùng cười. Hậu sực nhớ ra một chi tiết quan trọng, cô nói :
 - Anh bảo tôi với anh Mão giả vờ làm vợ chồng ? Nhưng ngộ nhở 
				người ta hỏi giấy giá thú thì làm sao ?
 Lê Tiến giải thích :
 - Ai hỏi ? Chủ yếu là che mắt thiên hạ thôi, để hàng xóm đừng 
				có ngờ vực mà đi tố giác mình. Nói chung, 
				mình phải cho moi người biết đây là một gia đình như mọi gia 
				đình khác.
 Im lặng một chút Lê Tiến lại tiếp :
 - Riêng chị Quyết nấu cơm tháng thì thỉnh thoảng cũng phải khua 
				dao động thớt, phi hành mỡ tỏi cho thơm lừng lên, chứ chả nhẽ 
				nấu cơm tháng mà cho người ta ăn toàn rau luộc !
 Kiệt lại được dịp nói đùa :
 - Khua dao động thớt thì chị Quyết làm được, vì chị ấy vốn có 
				tính giận cá chém thớt !
 Hậu nguýt Kiệt :
 - Anh này ! Tôi mà giận cá là tôi chém cá, chứ không chém thớt 
				! Anh không tin, hôm nào tôi giận anh, anh chắc biết !
 Lê Tiến nhìn Hậu ngạc nhiên, anh không ngờ một cô gái quê lên 
				đây có mấy tháng mà ăn nói bạo dạn như thế. Thời này nam nữ thọ 
				thọ bất thân, phụ nữ bao giờ cũng dè dặt khép kín. Nhưng như 
				thế cũng tốt thôi. Hoạt động cách mạng bao nhiêu gian khổ và 
				nguy hiểm chờ đón, vui được lúc nào thì cứ vui. Lê Tiến đứng 
				dậy chào mọi người. Hậu chạy nhanh ra cửa ,dáo dác nhìn hai bên 
				đường rồi Lê Tiến mới ra sau. 
				Anh gật đầu chào Hậu lần nữa rồi đi mau ra con lộ chính.
 Từ hôm ấy, Mão đối xử với Hậu khác hẳn. Chỉ thị của Lê Tiến là 
				hai người đóng vai vợ chồng giả, nhưng rõ ràng Mão muốn mượn 
				gió bẻ măng, coi Hậu như người vợ thật ở ngoài đời. Trước mặt 
				hàng xóm Mão nói năng với Hậu dịu dàng lắm :
 - Mình đi chợ, nhớ mua hộ tôi bánh thuốc lào !
 Hoặc âu yếm hơn :
 - Mình ơi ! Vào tôi nhờ một tí !
 Và Hậu dĩ nhiên cũng đáp lễ tương xứng với sự chân tình của Mão 
				để người ngoài khỏi thắc mắc. Chẳng hạn như Hậu ân cần nói :
 - Nhà đã khỏi nhức đầu chưa ? Để em chạy sang bên hàng xóm, xin 
				mấy lá giầu không về đánh gió. Nhà chờ em một tí !
 Nhưng màn kịch ấy Hậu diễn khéo lắm, đến nỗi Mão tưởng Hậu có 
				cảm tình đặc biệt với mình và vì thế gã mạnh dạn tiến xa hơn, hy vọng lộng giả thành chân. Lúc đầu, Hậu không để ý bởi chỉ 
				nghĩ rằng Mão chấp hành lệnh của Thành Bộ. Nhưng rồi, ngay cả 
				những lúc trong nhà chỉ có hai người, Mão cũng không gọi Hậu là 
				“chị Quyết” như trước nữa, mà cứ thản nhiên gọi “mình ơi” một 
				cách ngọt ngào như người chồng thật. Hậu biết ý đồ lợi dụng của 
				Mão nhưng đành nén tiếng thở dài và tự an ủi : Thôi thì cứ để 
				cho anh ấy quen miệng đi, càng tránh được sự 
				nghi ngờ của đám đông.
 Một hôm, nhà chỉ có hai người, Hậu đang vá áo trên giường, Mão tiến lại, moi trong túi ra hai đồng, trao cho Hậu và bảo :
 - Mình cầm lấy mà tiêu dần !
 Hậu trố mắt ngơ ngác nhìn Mão. Đã hai hôm nay nhà không còn gì 
				ăn. Hậu phải sang vay bà hàng xóm đấu gạo về nấu cháo muối. Hậu ray rức hối hận hôm ra đi, Duyên đã đưa cho cô một số tiền 
				mà cô nhất định không nhận. Giờ này bụng cồn cào như có đàn 
				kiến bò mà không xoay đâu ra nổi một hào. Vậy mà bất ngờ Mão 
				chìa ra hai đồng bạc ! Hai đồng là một món tiền khá lớn bởi một 
				hào đong được mười cân gạo loại xấu. Cơ sở đã trãi qua những 
				ngày nhịn đói, uống nước lã cầm hơi và Hậu phải bán cả sợi dây 
				chuyền của mình. Thế mà Mão vẫn thủ riêng một số vốn, không 
				đưa ra. Hơn thế nữa, nếu Mão muốn đóng góp thì đáng lẽ nên đưa 
				tiền cho Hậu trước mặt mọi người, chứ sao lại chờ Thông và Kiệt 
				vắng nhà, mới trao riêng cho Hậu ? Như thế thì chắc chắn là vì 
				tình riêng chứ không phải vì tổ chức. Hậu cảm thấy bực bội, nhưng cố nhịn hỏi lại :
 - Ở đâu ra thế này ?
 Mão cười :
 -Thì mình cứ cầm lấy đi. Thắc mắc làm gì ? Của tôi cũng là của 
				mình mà !
 Rõ ràng là một lời tán tỉnh công khai ! Hậu ngừng tay kim, mặt 
				đanh lại. Lúc này, Hậu đã đổi hẳn tính nết, không còn e ấp 
				rụt rè như thời mới thoát ly. Cô ngẩng lên nghiêm trang bảo :
 - Anh Mão ! Anh với tôi là vợ choồng giả chớ không phải vợ chồng 
				thật. Những lúc chỉ có hai người, yêu cầu anh đừng xưng hô như 
				thế !
 Mão không nao núng. Gã nhìn Hậu đăm đăm và nhận ra càng ngày 
				Hậu càng đẹp, khác hẳn buổi đầu mới từ quê ôm quần áo lên đây. Gã tiến lại bên Hậu, ngồi xuống mép giường, đặt bàn tay lên 
				vai Hậu và bảo :
 - Cả xóm này ai cũng biết tôi và em là đôi vợ chồng, sống chung 
				với nhau. Đằng nào thì mình cũng mang tiếng rồi. Thế thì tại 
				sao không biến chuyện giả thành chuyện thật ! Tôi chắc chắn đoàn 
				thể cũng sẽ tán thành !
 Hậu hất tay Mão ra, đứng dậy quả quyết đáp :
 - Đoàn thể tán thành nhưng tôi không tán thành ! Tôi thoát ly đi 
				làm cách mạng chứ không phải bỏ nhà đi lấy chồng !
 Mão níu kéo :
 - Lập gia đình rồi cũng vẫn làm cách mạng được chứ, cứ gì phải 
				độc thân !
 Hậu hay gắt :
 - Nhưng tôi chưa muốn lập gia đình !
 Vừa lúc ấy, bà Vỵ bên hàng xóm bưng sang dĩa xôi lạc, đứng 
				thập thò ngoài cửa và vui vẻ bảo Hậu :
 - Biếu cô tí chút cô ăn lấy thảo. Gọi là của ít mà lòng nhiều !
 Mùi cơm nếp nóng bốc lên ngào ngạt làm Hậu càng cồn cào đói bụng. Hậu biết bà muốn trả ơn Hậu suốt tuần vừa qua, ngày nào Hậu 
				cũng gánh cho bà cả chum nước đầy khi đứa con út của bà lên sởi. Bà ở sát vách với Hậu, ra vào lúc nào cũng thấy nhau, dù 
				không muốn thân cũng phải làm thân. Tuổi bà năm nay chưa quá 40, nhưng trông già lắm, từ khuôn mặt đến dáng đi. Có lẽ một 
				phần vì nghèo, một phần vì quanh năm u buồn bởi chồng bà ở hẳn 
				với vợ lẽ bên Ô Chợ Dừa, năm khi mười họa mới mò về thăm bà một 
				lần. Đã túng thiếu, giờ này lại sinh thêm đứa con mới hơn ba 
				tuổi, cứ ôm quặt quẹo quanh năm vì không có tiền mua thuốc. Cô 
				con gái đầu lòng lấy chồng ở ngoại ô, làm nghề thợ nhuộm, cũng 
				ít thấy về chơi. Chỉ có thằng thứ hai, mười baảy tuổi làm phụ 
				thợ mộc cho người ta, tháng tháng đem 
				đồng lương ít ỏi về nuôi bà.
 Lần đầu nghe bà kể về gia cảnh, Hậu thấy buồn ray rức và oán 
				trách đàn ông có tính đèo bồng. Bà Vỵ chưa biết Hậu có chồng là 
				Mão, cứ tưởng Hậu là em gái của một trong mấy người đàn ông 
				trong nhà Hậu, nên bà thở dài :
 - Đàn ông trăm thằng như một cô ạ ! Hễ nó lấy được mình rồi là 
				nó chán ngay ! Ông giời sinh ra cái số tôi nó khổ. Chứ tôi bíêt 
				thế này thì thà cứ ở vậy như cô cho nó sướng cái thân !
 Hậu đắn đo một chút rồi hỏi lại :
 - Nhưng cháu hỏi cái này không phải, bà bỏ qua cho. Ông nhà bỏ 
				bà đi biền biệt, cả năm mới về một lần. Bà đã biết thế, sao 
				lại để cho có con làm gì cho nó khổ ?
 Bà Vỵ chép miệng than :
 - Thế mới dốt chứ cô ! Thằng Hựu nhà tôi nó cũng cứ oán tôi mãi. Giờ này nó vẫn nói ! Nhưng lỡ rồi biết làm sao bây giờ ! Khổ 
				thân thằng bé, mới nứt mắt ra đã phải đi làm rồi mà tiền công 
				có bao nhiêu đâu !
 Nói cô đừng cười ! Ông ấy bỏ tôi cả năm giời chả ngó ngàng gì cả. Đến khi ông ấy về, tỉ tê vài câu thì mình lại quên ngay ! Cô 
				còn trẻ người non dạ, cô chưa biết đâu. Đàn bà chúng mình, ai 
				cũng yếu lòng cả ! Cho nên suốt đời bị đàn ông nó đánh lừa !
 Hậu lắc đầu tỏ vẻ cứng rắn :
 - Cháu không yếu lòng ! Dứt khoát như thế ! Tử tế với cháu thì 
				cháu tử tế lại. Còn hễ đã hất hủi cháu thì cháu sẽ dứt khoát 
				ngay ! Sống một mình !
 Bà Vỵ nhìn Hậu cười khinh bỉ :
 - Dạo tôi còn con gái tôi cũng mạnh mồm như cô, nhưng có chồng 
				rồi nó khác ! Cô cứ chờ đi rồi cô khắc biết !
 Hậu chợt hối hận vì biết mình vừa phát biểu một câu làm chạm tự 
				ái của bà Vỵ. Cô vội chữa lại :
 - Bà nói đúng đấy ! Mẹ cháu cũng bảo cháu thế ! Cháu nói đùa cho 
				vui thôi !
 Rồi Hậu bùi ngùi than :
 - Đàn bà nói chung, ai cũng khổ cả, bà nhỉ !
 Bà Vỵ gật đầu đồng ý và chớp mắt như sắp khóc. Từ đó, Hậu càng 
				quí bà hơn vì biết rõ hoàn cảnh hẩm hiu của bà. Mỗi khi nghe 
				con bà khóc, Hậu thường chạy ngay sang xem bà có cần gì không. Bà cũng đáp lại bằng cách lâu lâu mang cho Hậu một món ăn, chẳng hạn như dĩa xôi lạc hôm nay. Nhìn dĩa xôi lạc, Hậu mừng 
				lắm, dù mỗi người chỉ được một miếng. Buồn ngủ gặp chiếu manh. Cô vội chạy ra, đỡ dĩa xôi lạc và khách sáo nói :
 - Bà cứ bày vẽ ! .... Vâng. Bà có lòng, cháu xin bà !
 Bà Vỵ đứng yên tại cửa hân hoan nói :
 - Thằng bé hôm nay đỡ nhiều rồi cô ạ ! Chắc chỉ độ vài hôm nữa 
				là khỏi hẳn. Tôi sẽ bế cháu sang chào cô !
 Hậu nói :
 - Vâng. Cháu có lời mừng cho bà. Hôm nọ, thấy nó sốt li bì, cháu lo quá !
 Mão lợi dụng tình thế tiến lại sau lưng Hậu và bảo bà :
 - Chỗ hàng xóm láng giềng với nhau, bà cần gì cứ gọi một tiếng. Cháu sẽ bảo nhà cháu sang giúp bà !Bà cần đi đâu, cứ mang 
				thằng bé sang đây. Nhà cháu quí trẻ con lắm !
 Bà Vỵ nhìn Hậu rồi nhìn Mão một cách ngạc nhiên. Từ mấy tháng 
				nay, Hậu qua lại với bà kể cũng thân lắm, nhưng bà vẫn không 
				hề biết Hậu là vợ của Mão. Mỗi khi nói chuyện Hậu chỉ dùng mấy 
				chữ “gia đình cháu”, hoặc “bên nhà cháu”, khiến bà cứ tưởng 
				bốn người ấy là anh em, mà Hậu là em út. Bây giờ mới biết Hậu 
				là vợ của Mão, bà bảo
 - Sao cô chú không sinh một cháu bé cho vui cửa vui nhà ! Đợi 
				đến bao giờ ?
 Mão cười đáp ngay :
 -Cháu cũng cứ bảo thế mãi, nhưng mà nhà cháu chưa muốn có con !
 Vừa nói Mão vừa âu yếm đặt bàn tay lên vai Hậu. Hậu hất ra và 
				mắng :
 - Phải gió cái anh này !
 Hậu mắng thật, nhưng Hậu lại cho rằng đó chỉ là câu nói chữa 
				ngượng trước mặt người lạ. Bà Vỵ nhìn lại Hậu, không đoán được 
				tuổi là bao nhiêu, nhưng thấy Mão có vẻ già dặn, trên dưới 30, thì cho rằng hai người lấy nhau đã lâu mà không có con. Bà 
				đăm ra hối hận lúc nảy đã nhanh nhẩu đoảng hỏi Hậu “Sao không 
				sanh một bé cho vui cửa vui nhà”. Nghĩ lại, bà thấy ngượng, vội chào từ giả ra về. Bà nhè nhẹ bước vào nhà vì đứa con đang 
				nằm ngủ trên võng. Thằng bé hay bị giật mình, nên hễ nó ngủ 
				thì bà cứ phải rón rén không dám khua động. Bà ngồi xuống mép 
				giường, vói tay đưa võng cho con. Nghĩ tới Hậu, tự dưng bà 
				thấy bực mình vì cả mấy tháng nay tâm sự với Hậu chuyện chồng 
				con, bà thường nói câu “cô còn con gái, cô chưa biết đâu”, thế mà Hậu không hề cãi chính, không hề cho bà biết là Hậu đã 
				có chồng ! Nếu bíêt Hậu đã có chồng rồi thì bà đã không lớn 
				tiếng mạt sát đàn ông “trăm thằng như một, thấy gái là rút đầu 
				vào !” Hôm nay, bà mới biết Mão là chồng của Hậu, mà Mão thì 
				rõ ràng không có tính đèo bòng vợ lẽ vợ mọn như chồng bà ! Tại 
				sao Hậu lại giấu bà ? Bà sẽ phải hỏi cho ra nhẽ ! Mà cái ông Mão 
				này mới lạ chứ ! Chồng gì mà đần độn, suốt ngày ru rú ở trong 
				nhà, chưa bao giờ thấy lớn tiếng mắng vợ lấy một câu ! Đời bà, bà đã chứng kiến biết bao nhiêu gia đình trong xã hội : Chưa có 
				thằng chồng nào không đánh vợ mỗi năm ít nhất một lần ! Hèn lắm 
				thì cũng phải giả vờ say rượu rồi chửi vợ vài câu ! Vợ chồng 
				không cãi nhau thì đâi phải là vợ chồng ! Trên đời này có thể có 
				một người đàn bà lấy chồng rồi mà vẫn sướng như Hậu sao ? Bà khổ 
				đau trăm chìêu mà Hậu thì cứ nhởn nhơ như còn con gái ! Ông trời 
				sao nở bất công như vậy ? Tự dưng bà thấy mất hẳn cảm tình với 
				Hậu !
 Bà Vỵ về rồi, Mão tiến nhanh lại bàn, toan véo miếng xôi vì 
				thèm cơm nếp đã lâu. Nhưng Hậu bưng thẳng xúông bếp, lấy rổ úp 
				lại và nói :
 - Chờ các anh ấy về, ăn luôn thể !
 Mão buồn rầu nén tiếng thở dài, trở lại với xấp tài liệu đang 
				in dở. Đó là một tờ truyền đơn của Việt Nam Thanh Niên 
				Cách Mạng Đồng Chí Hội kêu gọi công nhân bến cảng đình công để 
				hổ trợ công nhân đồn điền cao su trong Nam đang đấu tranh chống 
				lại bọn cai thợ tàn ác.
 Hậu từ dưới bếp đi lên, đến bên Mão và nhắc :
 - AnhMão ! Tôi không nói đùa đâu đấy. Hể ở nhà chỉ có mình anh 
				với tôi, thì anh phải xưng hô cho đúng nguyên tắc. Anh nhớ 
				rằng, anh với tôi chỉ là chồng vợ giả theo chỉ thị của tổ chức 
				thôi !
 Rồi Hậu trả lại cho Mão hai đồng bạc và nói :
 - Chốc nữa, anh Thông với anh Kiệt đi làm về, anh đưa cho tôi 
				trước mặt họ thì tốt hơn !
 Mão vừa buồn vừa bực. Biết Hậu không có cảm tình với mình, 
				Mão thấy ấm ức và thoáng có ý định bỏ cuộc.
 Nhưng rồi những ngày kế tiếp ,lủi thủi vào ra chỉ có hai người, nhất là những đêm khuya trằn trọc, hình ảnh rạo rực của Hậu lại 
				bừng lên sống trong lòng Mão, thúc đẩy Mão kiên trì theo đuổi. Mão nghĩ : Làm cách mạng phải kiên trì mới thành công, thì tán 
				gái cũng phải kiên trì mới có thể thắng lợi !
 Một hôm Hậu đang nhóm lửa trong bếp. Cô ngồi xổm, khom lưng 
				xuống thổi cục than hồng. Mão từ phía sau tiến lại, bất thần 
				ngồi xuống và ôm ngang bụng Hậu. Hậu quay lại, vớ đôi đũa quật 
				mạnh vào đầu, nhưng Mão né được, nhe răng cười hề hề. Bất đắc 
				dĩ, Hậu phải dọa :
 - Anh không bỏ cái thói hủ hóa ấy, thế nào tôi cũng báo cáo lên 
				Thành Bộ để anh Lê Tiến kỷ luật anh !
 Mão lủi thủi quay đi, lửa hờn lóe lên trong ánh mắt. Hậu biết, 
				nhưng bất cần.
 Ngày thấy dài lê thê, Hậu chỉ mong đến chiều để đón Thông và 
				Kiệt về ăn cơm chung cho vui. Hậu lúc này đã hết cả e thẹn, ít 
				phải giử gìn ý tứ. Sống chung với ba người đàn ông, cô rất 
				thoải mái tự nhiên, nhất là với Thông và Kiệt là hai người cư 
				xử đúng mức trong tình đồng chí. Vì không ưa Mão, phản ứng tự 
				nhiên của cô là thân với hai ngừơi kia hơn để Mão đừng hy vong 
				gì nữa. Hậu muốn nhắn với Mão cái thông địêp rằng : Nếu coi Hậu 
				là đồng chí, là em gái, thì sẽ được Hậu đối xử bằng tỉnh cảm 
				chân thật và đậm đà. Còn nếu như cố tình muốn tán tỉnh Hậu, tức là muốn đẩy Hậu vào cái thế phải tự đề phòng !
 Ngồi nhà mãi tù chân quá, một buổi sáng chủ nhật Hậu rũ Kiệt đi 
				dạo phố Hà Nội. Kiệt ngay tình hăm hở nhận lời liền. Nhưng Mão 
				lạnh lùng lên tiếng nhắc Hậu :
 - Đi thế nào được ! Cả nước đều biết chị là vợ tôi ! Không nhẽ 
				bỏ chồng ở nhà để đi với giai !
 Vừa nói Mão vừa hầm hầm nhìn Kiệt bằng ánh mắt thù hận. Mão tức 
				là vì : Trong ba thằng đàn ông ở nhà này thì Kiệt là đứa thông 
				minh và khôn ngoan nhất, mặc dù Kiệt xuất thân chỉ là thợ nung 
				gạch. Dĩ nhiên Kiệt lúc nào cũng nhớ cái chỉ thị của Lê Tiến : 
				Trước mặt quần chúng, Hậu là vợ của Mão ! Thế thì tại sao Hậu 
				vừa rủ đi phố, Kiệt lại nhận lời ngay ! Hoạt động bí mật đâu có 
				thể sơ hở như thế được ? Mão chợt thấy buốt nhói vì trong đầu 
				lóe lên mối ngờ vực :
 - Hay là hai đứa chúng nó đã thông đồng với nhau từ lâu rồi mà 
				mình không biết !
 Cùng với ý nghĩ ấy, Mão sực nhớ lại những lần Mão bắt gặp hai 
				người nói chuyện với nhau thân mật một cách khác thường và trong 
				mỗi bửa cơm, Kiệt vì có óc khôi hài, nói ra câu gì Hậu cũng 
				bật cười tán thưởng. Nhiều câu pha trò của Kiệt, Mão thấy vô 
				duyên lắm mà chả hiểu tại sao vẫn làm Hậu cười như nắc nẻ. Có 
				hôm đang ăn cháo, nghe Kiệt kể chuyện vui, Hậu nhịn cười không 
				được, phải buông bát đủa xuống và bảo :
 - Anh làm tôi chết sặc mất, anh Kiệt ơi !
 Với Mão, thì rõ ràng cái cười của Hậu có thể là do Hậu có cảm 
				tình với Kiệt, chứ chẳng phải vì Kiệt ăn nói có duyên !
 Về phần Kiệt, nghe Mão nhắc nhở bằng giọng chua chát, anh ngạc 
				nhiên lắm. Hậu rủ anh đi chợ Đồng Xuân, phản ứng tự nhiên của 
				anh là nhận lời bởi thừơng ngày anh hay công tác ở khu vực đó. Anh cũng cảm thông với Hậu là từ ngày xuống Hà Nội, cứ ru rú ở 
				nhà, mang tiếng là ở thủ đô mà chẳng nhìn thấy phố phường, nên 
				anh muốn chiều ý Hậu, đưa cô đi một vòng cho biết với người. Mão can anh là phải, bởi trước mặt hàng xóm, Hậu đã lỡ nhận 
				Mão là chồng. Nếu nay thấy Hậu đi với người khác, hàng xóm sẽ 
				thắc mắc và có thể gây rắc rối cho hoạt động của cơ sở bởi thời 
				ấy lễ giáo rất nghiêm ngặt. Kiệt chỉ không hình dung nổi tại 
				sao Mão lại cản anh và Hậu bằng cái giọng chua chát như thế ! 
				Anh toan lên tiếng thì Hậu cười nói :
 - Ừ nhỉ ! Tôi quên ! Quên rằng mình ván đã đóng thuyền ! Thôi, đành nằm nhà vậy !
 Thông đang uống trà, ngẩng lên nhìn Hậu tội nghiệp, ngay tình 
				bảo :
 - Chị Quyết thích xem phố, sao không bảo anh Mão đưa đi ? Hôm 
				nay có việc gì đâu ? Tôi với anh Kiệt ở nhà trông nhà. Anh Mão 
				đưa chị Quyết đi là danh chánh ngôn thuận, không ai nói vào đâu 
				được !
 Trong ba người đàn ông thì Thông vốn hòa nhã và lịch sự hơn cả. Kiệt thì hay nói đùa nhưng lại nóng tính hơn. Còn Mão thì lầm 
				lì bí hiểm, ít hòa đồng với hai ông kia. Mão vịn vào câu nói 
				của Thông, đổi giận làm lành, vui vẻ lên tiếng :
 - Phải đấy ! Chị Quyết muốn xuống chợ Đồng Xuân, tôi đưa chị đi 
				! Từ hôm đến đây, tôi cứ nghe chị nhắc chợ Đồng Xuân mãi !
 Hậu thẳn thắn từ chối :
 - Thôi ! Tôi ở nhà cũng được !
 Mặt Mão tối sầm lại, ngượng ngùng cúi xúông, vớ cái điếu cày 
				dưới chân, run run tra thuốc vào nõ và châm lửa hút. Kiệt làm 
				như không để ý đến thái độ của Mão, thản nhiên nhìn Hậu và cười 
				cười đọc câu tục ngữ :
 - Gái có chồng như gông đeo cổ ! Các cụ nói chả sai tí nào !
 Hậu cũng cười theo :
 - Thà có chồng thật thì đeo gông cũng chả sao ! Chồng giả mà 
				phải đeo gông mới chán chứ !
 Thật ra thì Hậu có đi ra phố với Mão cũng chẳng lợi lộc gì cho 
				gã bởi thời này, đàn ông đàn bà, dù là vợ chồng chính thức, cũng chưa có thói quen sánh vai đi song song với nhau nơi công 
				cộng. Thường thì chồng đi trước, vợ lẽo đẽo theo sau, cách xa 
				cả vài thước. Đi kề sát bên nhau, chẳng những xã hội không 
				chấp nhận mà chính người phụ nữ cũng tự cảm thấy xấu hổ vô cùng. Mão và Hậu, suốt mấy tháng nay đều ở bên nhau, dưới một mái 
				nhà nhỏ, nhất là ban ngày chỉ có hai ngừơi. Cho nên xét ra thì 
				đâu cần phải đi phố mới có cơ hội tâm sự riêng tư ! Ở nhà dễ hơn 
				chứ ! Nhưng chẳng qua là vì “vô duyên đối diện bất tương phùng”, sống bên Mão nhưng lòng Hậu không rung động vì Mão, thế thôi 
				!
 Thông rót thêm trà vào cốc rồi gật gù bảo :
 - Chị Quyết chả múôn đi nữa thì ở nhà nói chuyện cho vui. Cả 
				tuần lể, anh Kiệt với tôi đi làm. Chỉ có ngày chủ nhật là có 
				mặt đầy đủ ở nhà !
 Kiệt gật đầu đồng ý với Thông, bởi Thông vừa phát biểu một câu 
				đúng ý với Kiệt. Cuộc sống thiếu thốn và căng thẳng, có bóng 
				dáng phụ nữ trong nhà như một cô em gái, là một nìêm an ủi lớn 
				cho hai người sau mỗi ngày cúôc bộ đi lang thang đó đây. Thông 
				bằng giọng trầm xuống và nói nhỏ hơn, như sợ có người rình nghe 
				:
 - Ở với nhau được ngày nào quí ngày ấy ! Nay mai Thành Bộ điều 
				đi công tác mỗi người mỗi nơi, dễ gì gặp lại nhau !
 Câu nói của Thông làm Hậu và Kiệt tắt hẳn niềm vui. Quả đúng 
				như thế. Ai cũng thấp thõm chẳng bịết tương lai như thế nào. Họ cố tình đùa giởn chỉ nhằm mục đích để tạm quên nổi lo âu 
				thường trực đè nặng trong đầu mà thôi. Căn phòng nhỏ bổng chìm 
				trong im lặng. Thông xoay xoay ly trà nóng trong tay, Kiệt đăm 
				chiêu nhìn ra phía cửa, mấy ngón tay gỏ nhịp nhè nhẹ trên mặt 
				bàn. Mão bỏ vào trong tấm cót, giang sơn riêng của Mão mà ít 
				khi Hậu bước chân vào.
 Ngồi yên được một lúc, Hậu phá vỡ cái không khí trầm lắng bằng 
				cách quay sang bảo Kiệt :
 - Anh Kiệt ! Kể chuyện đi chứ ! Anh Thông vừa bảo chủ nhật ngồi 
				nhà đông đủ cho vui. Không vui thì ở nhà làm gì ? Anh không kể 
				chuyện thì tôi đi đây. Đi mình, chả cần ai đưa cả !
 Thông cũng đưa đẩy theo Hậu :
 - Đúng rồi ! Có chuyện gì vui thì nói đi nào !
 Quay sang Hậu, Thông nói :
 - Chị Quyết biết không ? Tôi thì tôi cứ bảo với anh Kiệt là 
				“Trong bụng ông, cơm thì ít mà chuyện thì nhiều !”. Không biết 
				moi ở đâu ra mà lắm thế ? Lắm hôm hai đứa chúng tôi đi bộ rạc cả 
				hai chân, vừa đói vừa khát mà anh ấy cứ kể chuyện thản nhiên 
				như không, làm tôi bật cười giữa đường, ai cũng phải nhìn !
 Kiệt gật đầu giải thích :
 - Nhờ mấy năm tôi làm ở lò gạch. Nung gạch, khuân gạch, xếp 
				gạch. Công vịệc nặng nề lắm mà chủ lò gạch lại rất khó chịu, kiểm tra từng viên, mẻ một tí là không được ! Thành ra anh em 
				chúng tôi thi nhau kể chuyện để giết thì giờ và đỡ bực mình. 
				Nhiều chuyện làm các bà các cô xấu hổ đỏ mặt, cứ mắng tôi là 
				“đồ phải gió” ! Mắng thế nhưng mà lại cứ bắt tôi phải kể ! Đàn 
				bà lạ thật ! Chúa là hay giả vờ !
 Hậu nói :
 - Có gì đâu mà anh bảo là lạ ! Anh cũng phải cho chúng tôi giả 
				vờ một tí để làm duyên chứ ! .... Đâu ? Anh thử kể cho tôi một 
				chuyện xem thế nào mà các bà ấy mắng anh ?
 Kiệt lắc đầu đáp :
 - Tự dưng chị hỏi tôi thì tôi không nhớ ra ? Chốc nữa nhớ ra 
				chuyện gì thì tôi sẽ kể ngay !
 Thông nhắc :
 - Cái chuyện hôm qua anh kể cho tôi nghe. Vui ra phết ! Anh kể 
				lại cho chị Quyết nghe đi. Cái anh chàng đi lính cho Tây !
 Kiệt sực nhớ ra, tự dưng cười một mình. Thời này thiên hạ hay 
				chế ra những mẩu chuyện châm biếm những người đi lính cho Pháp 
				vì coi họ là tay sai cho giặc, phản lại đất nước. Kiệt kể :
 - Có anh chàng nhà quê kia, dốt đặc cán mai, đi lính cho Tây, nhưng không biết một chữ tiếng Tây nào. Tây đưa về huấn luyện 
				bên mẫu quốc. Ngày lĩnh lương, cửa trại lính luôn luôn có 
				những cô gái giang hồ tụ tập để moi tiền của lính. Anh chàng 
				nhà quê này cũng được một cô gái thật đẹp đến làm quen. Cô gái 
				giang hồ bíêt anh chàng này không bíêt nói tiếng Tây, nên cô 
				mang sẳn một xấp giấy và một cái bút. Hễ cô muốn gì thì cứ việc 
				vẽ ra. Chẳng hạn thích ăn thịt bò thì vẽ con bò, thích ăn thịt 
				gà thì vẽ con gà là anh chàng hiểu ngay. Hôm ấy, cô gái kéo 
				anh chàng lại một chỗ vắng rồi vẽ cái giường, ý múôn rủ anh 
				chàng này vào buồng ngủ để kiếm tiền. Cô đưa tờ giấy cho anh ta 
				xem và liếc mắt đưa tình nhìn anh ta chờ đợi. Anh nhà quê này 
				vừa thấy hình cái giừơng thì tái mắt quay đi chỗ khác và lẩm bẩm 
				nói “Mẹ nó ! Nó mới gặp mình lần đầu mà tại sao nó biết dạo 
				trước mình làm nghề thợ mộc !”.
 Kiệt kể dứt, Hậu phá lên cười. Thông cũng cười vang nhà dù đã 
				nghe Kiệt kể mấy lần rồi. Riêng Mão đứng bên trong tấm cót thì 
				phản ứng ngược lại. Chẳng những gã không nhếch mép, mà mặt 
				bổng đanh lại vì uất hận. Vốn mang sẳn mặc cảm, Mão cho rằng 
				Kiệt cố tình kể chuyện này để làm nhục Mão, bởi ngày trước Mão 
				có đi lính cho Tây, dù chỉ một thời gian ngắn.
 Bên ngoài, tiếng cười của Thông và Hậu như những mũi dao đâm 
				vào tim Mão. Mão không ngờ Hậu trơ trẽn đến như thế. Chuyện 
				này là chuyện của đàn ông. Thế mà Hậu cũng dám nghe rồi cười 
				khanh khách, chẳng giữ gìn gì cả ! Mão ứa gan, nhưng đành đứng 
				yên nuốt giận chứ biết làm gì bây giờ ! Mão nghe Hậu nói một 
				cách bạo dạn :
 - Anh Kiệt ạ ! Các bà các cô mắng anh cũng là phải ! Làm gì ở 
				trên đời này lại có những người đàn ông khờ như thế !
 Thông cười đáp thay Kiệt :
 - Có chứ sao không ? Giá như tôi là anh chàng lính nhà quê ấy, thì chính tôi cũng chả hiểu cô gái vẽ cái giường để làm gì !
 Những ngày kế tiếp Mão cứ hầm hầm nhìn Hậu, hết giận rồi lại dỗ, hết cay đắng lai ngọt ngào, như đứa con nít. Nhưng Hậu không 
				xiêu lòng bởi biết mình không thể nào yêu Mão được. Giữa Hậu và 
				Mão, tình đồng chí thì có, nhưng tình vợ chồng thì 
				muôn đời sẽ không thành.
 Một ngày chủ nhật, Lê Tiến bất ngờ ghé thăm, đem theo một 
				người mà anh giới thiệu là Ngô Gia Tự. Hậu vừa dọn cơm trưa, vội lấy thêm bát đũa và đon đả nói :
 - May quá. Chúng tôi vừa ngồi vào. Gặp bửa, mời hai anh dùng 
				luôn thể !
 Lê Tiến không khách sáo, anh kéo ghế ngồi và nói :
 - Chúng tôi ngồi chơi thôi. Ăn thì lại hụt mất phần của người 
				khác !
 Hậu đáp thay mọi người :
 - Sức hai anh mà ăn thì bao nhiêu mà sợ hụt ! Thiếu, tôi thổi 
				thêm. Nhà còn gạo.
 Thông, Mão và Kiệt đã gặp Ngô Gia Tự vào lần. Nhưng với Hậu 
				thì đây là lần đầu. Tự cầm đũa nhưng không gắp gì cả. Gã đến 
				để nói chớ không phải đến để ăn. Gã phân tích tình hình chính 
				trị quốc tế cũng như Việt Nam rồi kết luận :
 - Trong điều kiện như thế, Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội 
				không còn đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Vai trò lãnh đạo từ nay phải giao cho đảng của giai cấp công 
				nhân. Tại đại hội thanh niên toàn quốc vừa rồi. Đoàn đại biểu 
				Bắc Kỳ đã quyết định thoát ly tổ chức Thanh Niên để thành lập 
				Đông Dương Cộng Sản Đảng, 
				đi theo ánh sáng cách mạng tháng 10 của Liên Bang Sô Viết.
 Ngưng lại một chút, Lê Tiến tiếp lời Ngô Gia Tự :
 - Như vậy, kể từ hôm nay, chi bộ của các đồng chí là chi bộ 
				của Đông Dương Cộng Sản Đảng. Các đồng chí đương nhiên là đảng 
				viên cộng sản !
 Những điều này thì Hậu cũng đã nghe nói đến, nhất là những tài 
				liệu mà thành bộ vẫn đưa xuống cho Hậu đọc tại cơ sở. Nhưng hôm 
				nay mới được Thành bộ thông báo chính thức. Lý do là vì hai 
				tiếng Cộng Sản từ trước đến nay vẫn còn làm một số đông đoàn 
				viên Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội không cảm thấy thoải mái. Họ chỉ múôn gia nhập một tổ chức chống Pháp. Đó là cái đich 
				duy nhất và cuối cùng của họ. Lý thuyết 
				cộng sản thì phức tạp và có nhiều chủ trương đi quá xa làm cho 
				họ ngần ngại.
 Mà chẳng phải chỉ riêng quần chúng mới có thái độ dè dặt với hai 
				tiếng Cộng Sản, đến ngay như nội bộ các đảng viên cũng vì suy 
				nghĩ khác nhau nên đảng mới vỡ ra làm ba mảnh. Cái khác biệt 
				chính yếu nằm ở hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất : một 
				số đảng viên chủ trương rằng chỉ nên dùng Cộng Sản làm phương 
				tiện để giải phóng đất nước, bởi lý thuyết cộng sản dễ lôi kéo 
				nhân dân lao động, những thành phần bị áp bức, lớp người cùng 
				đinh không có gì để mất. Trước những khuyết điểm quả thật lớn 
				lao của tư bản và thuộc địa, thì cộng sản là chiêu bài thật hấp 
				dẫn. Khuynh hướng thứ hai là chủ trương rằng, chế độ cộng sản 
				không những chỉ là phương tiện giải phóng dân tộc, mà đi xa hơn, nó còn là cứu cánh cuối cùng của xã hội loài người. Phải áp 
				dụng chế độ cộng sản thì xã hội mới đạt tới thiên đàng hạ giới !
 Hai khuynh hướng đối chọi ấy làm nảy sinh những trach chấp nội 
				bộ và đưa đến đổ vỡ vào năm 1929. Phải chờ qua tháng một năm 
				sau, 1930, ba nhóm Đông Dương Cộng Sản Đảng, 
				An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn mới họp 
				mặt tại HongKong để thống nhất dưới một danh xưng là Đông Dương 
				Cộng Sản Đảng do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo.
 Ngoài hè, có tiếng rao chè đổ đen, rồi cô gái bán chè đặt 
				quang gánh xuống bên bờ tường đối diện ngay nhà Hậu. Lê Tiến lo 
				sợ nhìn ra, nhưng Hậu giơ tay trấn an Lê Tiến ngay. Ngô Gia Tự 
				đưa mắt nhìn Lê Tiến làm hiệu. Lê Tiến lên tiếng :
 - Công tác đầu tiên của các đồng chí để hướng về đảng cộng sản 
				của Liên Bang Sô Viết vĩ đại, là các đồng chí chuẩn bị dán 
				áp-phích và rải truyền đơn mừng ngày kỷ niệm Cách Mạng tháng 10. Đồng chí Mão lo cung cấp truyền đơn cho tóan thành phố Hà Nội. Càng nhiều càng tốt ! Gần đến ngày kỷ niệm, tôi sẽ bố trí 
				người đến lấy !
 Mão gật đầu chấp nhận chỉ thị :
 - Vâng. Tôi sẽ tranh thủ ! Còn đến 3 tháng nữa, thừa thì giờ 
				chuẩn bị !
 Hậu giục Lê Tiến và Ngô Gia Tự :
 - Hai anh ăn đi đã chứ. Cơm còn nhiều. Hai anh đừng có ngại ! 
				Anh Tiến ! Ăn đi ! Anh cứ có cái tật hay làm khách ! Anh Tự, có 
				một bát lưng mà ăn mãi không hết !
 Lê Tiến cười xòa, cầm đũa lên. Ngô Gia Tự quay sang hỏi va 
				động viên Hậu. Tự nói:
 - Đồng chí Tiến cho tui biết chị la em của anh Tân. Anh Tân nằm 
				xuống là một mất mát lớn cho cách mệnh. Tôi tin chị sẽ tiếp con 
				đường anh Tân đã vạch ra!
 Hậu cảm động chớp mắt hỏi lại:
 - Anh quen anh Tân em lâu chưa?
 - Chúng tôi biết biết nhau và quen nhau từ dạo tổ chức bãi 
				trường để chống Pháp xử án Phan Bội Châu!
 Hậu không nói gì nữa. Lê Tiến nhìn Ngô Gia Tự. Tự khẽ gật đầu. 
				Lê Tiến buông đũa, nghiêm trang nói:
 - Tôi đã hội ý các đồng chí trên Thành và nhất trí đề cử đồng 
				chí Kiệt làm bí làm bí thư chi bộ các đồng chí. Đồng chí Kiệt 
				trước đây la công nhân lò gạch, giác ngộ cách mạng, tham gia tổ 
				chức va thoát ly từ năm ngoái. Đồng chí lãnh đạo chi bộ là xứng 
				đáng!
 Hậu và Thông cùng nhìn Kiệt gật đầu hàm ý chúc mừng. Chỉ riêng 
				Mão thì lặng thinh cuối xuống, cố giấu nỗi thất vọng. Mão vẫn tự 
				hào là người chữ nghĩa hơn cả Kiệt, Thông và Hậu. Không ngờ Mão 
				không được Thành Bộ đánh giá đúng mức! Nhưng Lê Tiến đã nói thì 
				Mão đành chấp nhận mà thôi.
 Hậu đứng dậy lấy tăm xỉa răng và rót hai cóc nước trà cho khách. 
				Lê Tiến bưng ngay một ly, nói cám ơn rồi nói tiếp:
 Chi bộ của các đồng chí hiện có 4 người. Nay sắp sửa chỉ có 3 
				người. Là vì tuần tới, Thành Bộ muốn điều đồng chí Thông sang 
				Đoài. Cụ thể công tác là gì thì tôi sẽ thông báo sau. Trước mắt, 
				đồng chí Thông cứ chuẩn bị sẵn, bất ngờ tôi cho người đến gọi là 
				lên đường!
 Thông lưỡng lự một chút rồi hỏi Lê Tiến:
 - Sang Đoài là ở đâu hở anh?
 Lê Tiến chưa kịp đáp thì Ngô Gia Tự đáp thay:
 - Bên Sơn Tây!
 Lê Tiến vỗ vai Thông:
 - Vâng! Tôi cứ quen miệng
 Lê Tiến nói đúng. Xưa kia người ta chia miền Bắc ra làm 4 xứ 
				theo hướng Bắc, Nam, Đông, Đoài. Xứ Bắc hay Kinh Bắc là vùng Bắc 
				Ninh. Xứ Nam hay trấn Sơn Nam là Hà Đông, Nam Định, Thái Bình. 
				Xứ Đông là Hải Dương, Hải Phòng, và xứ Đoài là Sơn Tây, Người 
				sau này vẫn quen gọi tên cũ, thay vì nói “đi Sơn Tây” thì họ nói 
				“sang Đoài”.
 Thông tò mò hỏi thêm:
 -Tôi làm gì bên Sơn Tây hở anh?
 Lê Tiến đáp:
 - Chủ yếu vẫn là đi vô sản hóa mấy nhà máy bên ấy. Công nhân 
				đông, tinh thần tốt! Đồng chí sang bên ấy rất có lợi cho cách 
				mệnh. Dĩ nhiên là lúc đầu thể nào cũng có khó khăn.
 Thông cười đáp:
 - Anh đã nhiều lần bảo tôi. Làm cách mạng dễ dàng thì ai chả làm 
				được!
 Lê Tiến uống cạn cốc nước rồi cầm cái tăm đứng dậy. Ngô Gia Tự 
				cũng đứng lên theo. Theo thói quen Hậu chạy ra trước, nhìn hai 
				bên con hẻm. Cô đứng ngay ở cửa vòng cánh tay phải lại sau lưng, 
				đặt bàn tay lên mông ra hiệu bảo Lê Tiến và Ngô Gia Tự đừng ra 
				vội. Cô hỏi thăm con bé bán chè:
 - Hôm nay bán khá không em?
 Em bé vừa quạt ruồi vừa lắc đầu:
 - Ế lắm chị ạ! Từ nãy tới giờ chỉ được hai bát! Chị xơi không, 
				em mời chị một bát!
 Hậu cười:
 - Cảm ơn em, để hôm khác!
 Hậu quay đầu vào đưa mắt làm hiệu bảo Lê Tiến đứng yên trong 
				nhà, vì Hậu vừa thoáng nhìn ra đầu ngõ, thấy trên lề con lộ nhõ 
				có hai người đàn ông lãng vãng ngoài đó. Có thể là mật thám chờ 
				Lê Tiến và Ngô Gia Tự ra để tóm. Con hẻm này chỉ có một lối 
				thoát duy nhất ăn thông ra con đường lớn. Đầu đằng kia là bức 
				tường khá cao, phải bắt ghế mới leo qua được. Hậu lững thững 
				bước dọc theo con lộ chính, cố giữ nét mặt bình thản dù tim đập 
				thình thịch vì hồi hộp. Tới lề đường thì hai người đàn ông lúc 
				nãy đã đi đâu mất. Hậu đứng nhìn quanh tứ phía, quan sát một lúc 
				khá lâu rồi mới quay vào bảo Lê Tiến và Ngô Gia Tự ra về. Đó là 
				lần đầu và cũng là lần cuối, Hậu gặp Ngô Gia Tự. Hậu không biết 
				nhiều về chàng trai 21 tuổi này, ngoại trừ lối nói đầy nhiệt 
				quyết, tạo ấn tượng mạnh mẽ trong đầu Hậu, cho phép Hậu tin rằng 
				Tự là người nắm rất vững đường lối cách mạng của đoàn thể. Tự 
				mặc bộ âu phục màu vàng cũ kỹ, khoác thêm cái áo dạ đen bạc, mặc 
				dù trời nóng bức. Cặp mắt nho nhỏ của Tự bị lông quặm, nên lúc 
				nào cũng chớp lia lịa. Thấy Lê Tiến có vẻ nể nang Ngô Gia Tự, 
				Hậu càng đoán chắc Tự phải là một nhân vật quan trọng của Thanh 
				Niên Cach Mệnh Đồng Chí Hội.
 Hậu đoán không sai, bởi Ngô Gia Tự quan trọng thật! Tự là một 
				trong những người đầu tiên cỗ võ việc thành lập Đảng Cộng Sản 
				trong nội địa Việt Nam khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn ẩn nắp và 
				giật dây từ hải ngoại. Nhóm Cộng Sản tiên phong ấy, gồm khoảng 7 
				người, hăng say nhất là Ngô Gia Tự, Nguyễn Hữu Cảnh, Đỗ Ngọc Du, 
				Nguyễn Phong Sắc và Trịnh Đình Cửu. Tất cả đều tham gia Việt Nam 
				Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội ở lứa tuổi đôi mươi và cùng 
				nóng lòng muốn giải tán đoàn thể này để cải danh công khai thành 
				Đảng Cộng Sản.
 Phải nói rằng lúc ấy, trong khung cảnh tối đen của Việt Nam 
				dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân cấu kết với phong kiến. Lý thuyết Cộng Sản là một cái gì quá mới mẻ và hấp dẫn đối với 
				đám thanh niên trí thức ảnh hưởng Tây học. Họ nhìn thấy ở chủ 
				nghĩa Cộng Sản, một con đường hữu hiệu để giải quyết hai vấn đề 
				lớn của đất nước là đánh đuổi ngoại xâm và xóa hết bất công xã 
				hội. Họ không tìm ra được chủ thuyết nào tốt đẹp hơn, cho nên 
				dồn hết tâm trí, bám vào chủ nghĩa đầy hấp lực này. Điều này 
				cũng dể hiểu, vì sau những thất bại của Việt Nam Quang Phục Hội, lớp thanh niên yêu nước càng ngày càng đông mà không có đảng 
				phái nào hiện diện để họ tham gia ! Duy nhất chỉ có một Việt Nam 
				Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thành lập năm 1925. Rồi mải 
				đến 1929 Quốc Dân Đảng mới ra đời. Khoảng trống từ bốn năm 1925 
				đến 1929, Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội đã thu hút 
				biết bao nhiêu người trẻ ái quốc đang cần tìm một đoàn thể - bất 
				kể là đoàn thể nào – để đứng vào làm đại sự ! Mà khi đã vào rồi 
				thì dẫu biết mình bị lèo lái, bị lợi dụng, cũng đã muộn ! Âu 
				đó cũng là một định mệnh cho lịch sử !
 Chẳng phải chỉ riêng đảng viên Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội 
				mang hoài bão ấy, mà ngay cả đảng Tân Việt, tức Phục Việt hoặc 
				Hưng Nam Hội, vốn thuở đầu khi ra đời, không hề có khuynh 
				hướng Cộng Sản, thế mà dần dần cũng bị lôi cuốn theo hướng đi 
				này, khiến một số đảng viên nồng cốt đã tự ý ly khai và biến 
				thành đảng Cộng Sản, chẳng hạn như Trần Phú, Đặng Thai Mai, 
				Tôn Quang Phiệt .v.v.
 Nói chung, đối với nhóm trí thức trẻ tuổi ấy, thì năm 1929 là 
				thời điểm mà xu thế Cộng Sản đã trở thành chính mùi tại những 
				quốc gia nhược tiểu như Việt Nam, cho nên họ không thể chờ được 
				nữa, phải cấp thiết giương cao lá cờ Cộng Sản làm kim chỉ 
				nam soi đường cho họ.
 Trở lại với Ngô Gia Tự, vốn xuất thân từ một gia đình khá giả ở 
				huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, có anh ruột là tri huyện Ngô Gia 
				Lễ. Tự say mê đọc sách từ nhỏ, nhưng không chủ tâm tiến thân 
				bằng con đường khoa bảng mà gia đình mong muốn. Năm 1926, vừa 
				18 tuổi, Tự gia nhập Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, sang 
				Trung Quốc dự khóa huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc rồi trở về 
				thành lập chi bộ tỉnh Bắc Ninh, gây được cơ sở khá vững chắc 
				tại tỉnh nhà. Năm sau, Tự vào Sài Gòn làm phu 
				khuân vác ở bến cảng để vận động công nhân thoe con đường cách 
				mạng của mình.
 Đầu năm 1929, Tự quay về Hà Nội, liên kết với một số đồng chí 
				thân thiết, rủ nhau bí mật thành lập đảng Cộng Sản mà bất cần ý 
				kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, bởi bíêt Nguyễn Ái Quốc còn 
				muốn mai phục thêm một thời gian nữa. Lúc ấy là tháng 3 năm 
				1929. Nhân có người bạn tâm giao là vợ chồng Trần Văn Cung đang 
				thuê căn nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội, Đỗ Ngọc Du liền ngỏ ý 
				mượn địa điểm, rồi cùng Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn 
				Phong Sắc và Trịnh Đình Cửu, tuyên thệ thành lập Đảng Cộng Sản. Căn nhà số 5D đường Hàm Long chính là cơ quan Cộng sản đầu 
				tiên tại quốc nội, và Đỗ Ngọc Du có thể coi là 
				nhân vật lãnh đạo Cộng Sản tiên phong trong nước Việt Nam.
 Tháng 5 năm 1929, Ngô Gia Tự cùng đoàn đại biểu 3 người lên 
				đường sang Hồng Kông dự đại hội toàn quốc VNTNCMĐCH. Tại đây, với tư cách đại diện Kỳ Bộ Bắc Kỳ, Tự lớn tiếng đề nghị giải 
				tán VNTNCMĐCH để biến thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Nhưng đa 
				số đại biểu không đồng ý, bởi còn tiếc cái danh xưng cũ đã mấy 
				năm, với bao nhiêu công sức của đoàn viên đã vun sới cho nó. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ bỏ về, hội nghị Hồng Kông kể như tan vỡ, đưa đến phân hóa khá trầm trọng trong nội bộ VNTNCMĐCH. Ngô Gia 
				Tự cùng đoàn đại biểu trở về và ngày 17 tháng 6, tại số 312 phố 
				Khâm Thiên, họ thản nhiên tuyên bố biến VNTNCMĐCH thành Đông 
				Dương Cộng Sản Đảng. Ít lâu sau, họ lại dựng lên Tổng Công Hội 
				Đỏ Bắc Kỳ tại nhà số 15 Phố Hàng Nón, làm nền móng cho tổng 
				công đoàn lao động sau này. Nhóm Cộng Sản nóng ruột này, chia 
				nhau nắm giữ những chức vụ quan trọng của Xứ Ủy, mặc dầu trên 
				danh nghĩa chính thức, Bí Thư Xứ Ủy lúc đó vẫn là Mai Ngọc 
				Thiệu, người chủ trương duy trì VNTNCMĐCH.
 Ngòai việc tự ý đứng ra thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, nhóm Ngô Gia Tự, Nguyễn Hữu Cành và Đỗ Ngọc Du còn len lỏi vào 
				đảng Tân Việt, tung ra một số truyền đơn kêu gọi “những đảng 
				viên đã giác ngộ Cộng Sản, hảy dũng cảm thoát ly Tân Việt Cách 
				Mạng để đứng hẳn về hàng ngũ quốc tế vô sản”. Cao trào vận động 
				ấy đã đưa đến kết quả là có 3 đảng Cộng Sản cùng ra đời năm 1929 
				: Đó là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông 
				Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Sự kiện này làm Nguyễn Ái Quốc hết 
				sức lo ngại, vội vàng cầu cứu Liên Xô rồi dùng danh nghĩa quốc 
				tế vô sản, dùng chỉ thị của Liên Xô để triệu tập đại hội thống 
				nhất vào ngày 3 tháng 2 năm 1930. Danh xưng Đảng Cộng Sản Việt 
				Nam bắt đầu được sử dụng từ đấy cho đến khi phải hóa trang lần 
				nữa nhằm lấy lòng dân, đổi tên thành Đảng Lao 
				Động Việt Nam.
 Như thế thì có thể nói : Những viên gạch lót đường tiên khởi tại 
				miền Bắc để đưa Nguyễn Ái Quốc lên đài vinh quang sau này là 
				nhóm thanh niên trẻ gồm Đỗ Ngọc Du, Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong 
				Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu và Trần Phú. Tất cả 
				những người ấy đều nếm trải những đòn thù tàn bạo của mật thám 
				Pháp và đều chết trẻ, chẳng ai sống đến ngày chiến thắng. Người thọ nhất trong nhóm là Đỗ Ngọc Du, mất năm 31 tuổi !
 Đỗ Ngọc Du lớn hơn Ngô Gia Tự một tuổi, sinh quán tại Hải Dương 
				trong một gia đình công chức, có bố làm việc cho Tây. Khi đang 
				đi du học, Du tham gia vận động bãi khóa để ủng hộ hai nhà chí 
				sĩ họ Phan nên bị đuổi học. Năm 1926, 19 tuổi, Du gia nhập 
				VNTNCMĐCH rồi sang Trung Quốc gặp Nguyễn Ái Quốc, dự khóa huấn 
				luyện trước khi trở về Hà Nội họat động. Như đã nói ở trên, Du 
				có công đầu trong việc gâ dựng Đảng Cộng Sản tại quốc nội và 
				đáng coi là thủ lãnh của nhóm Bắc Kỳ cực đoan, mặc dầu trên 
				thực tế, khi chi bộ Đông Dương Cộng Sản đảng Hà Nội ra đời Du 
				chỉ phụ trách công tác kiinh tài cho đảng. Năm 1930, Du bị lộ 
				tông tích, phải trốn gấp sang Trung Quốc và năm sau thì bị bắt 
				tại Thượng Hải, dẫn giải về nước. Du bị kết án khổ sai chung 
				thân, giam ở Hỏa Lò một thời gian rồi đày đi Sơn La và ra Côn 
				Đảo. Năm 1936, nhờ mặt trận Bình Dân thắng thế ở Pháp, hàng 
				loạt chính trị phạm được tha. 
				Du được trở về nhưng bị lao phổi chết năm 1938.
 Trịnh Đình Cửu sinh năm 1901, là con bà Tú Mẫn ở số 61 phố Hàng 
				Đào Hà Nội. Đứng trong nhóm Cộng Sản tiền phong, Cửu là ngừơi 
				trầm lặng, không gây được tiếng vang gì lớn. Nhưng lúc bị bắt 
				đưa ra tòa, mật thám bắt trói luôn bà Tú Mẫn, đẩy ra trước mặt 
				Cửu, cốt ý đem tình mẫu tử để lung lạc Cửu, hy vọng vì thương 
				mẹ mà Cửu cung khai bí mật của tổ chức. Nhưng Cửu quay mặt đi 
				và cứng rắn nói lớn :
 - Tôi chỉ biết có đảng mà thôi !
 Câu nói lạnh lùng ấy làm cho Trịnh Đình Cửu nổi tiếng và trở 
				thành tấm gương cho những người Cộng Sản, gạt bỏ hết tình cảm 
				gia đình !
 Nguyễn Đức Cảnh sinh năm 1908 tại huyện Thụy Anh tỉnh Thái Bình, từ thuở nhỏ đã có một hoàn cảnh sống khá đặc biệt. Đặc biệt ở 
				chỗ là cha Cảnh, ông Nguyễn Đức Tiết, đổ Cử Nhân nhưng không 
				chịu ra làm quan, ông cử Tiết chả biết làm gì nuôi gia đình, nên đem con cái gửi hết cho bạn bè nhờ nuôi hộ và cho đi học ! 
				Những người bạn mà ông cử Nguyễn Đức Tiết nhờ cậy gồm có tiến sĩ 
				Nguyễn Đạo Quán, tri phủ Thái Ninh, là bác ruột và là người đỡ 
				đầu Nguyễn Công Hoan. Vì thế Nguyễn Công Hoan quen biết Nguyễn 
				Đức Cảnh từ lúc còn sống chung cho đến khi Nguyễn Công Hoan bắt 
				đầu viết văn. Cảnh ở nhờ nhà của Nguyễn Công Hoan được một thời 
				gian thì chuyển sang ở nhà quan tuần phủ Thái Bình Trần Thế Mỹ 
				vì mẹ Cảnh có họ xa với bà vợ lẽ của cụ Mỹ. Cụ Mỹ là bạn đồng 
				khóa với tiến sĩ Nguyễn Đạo Quán và cũng chính là thân phụ của 
				Trần Khánh Giư, tức nhà văn Khái Hưng sau này. Trần Khánh Giư, tên thuở nhỏ là Trần Giư. Nhưng khi ra Ninh Giang làm đại lý 
				bán dầu hỏa và than củi, nhớ đến tướng nhà Trần là Trần Khánh 
				Giư cũng có thời bán than, Trần Giư mới thêm chữ “Khánh” vào 
				làm tên đệm cho giống tên vị tướng ấy. 
				Thị xã Ninh Giang chính là bối cảnh mà Khái Hưng dùng làm để 
				viết tiểu thuyêt Thoát Ly sau này.
 Trong ba người : Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Đức Cảnh 
				thì Cảnh trẻ hơn cả, nên vẫn thường gọi hai người kia là anh, xưng em, 
				chẳng những vì tuổi tác mà còn vì mang ơn đã cho Cảnh tá túc.
 Vì tham gia phong trào vận động ủng hộ Phan Bội Châu và Phan Chu 
				Trinh, Cảnh bị đuổi học. Từ đó, Cảnh bỏ Nam định lên Hà Nội 
				sinh sống và gia nhập nhóm Nam Đồng Thư Xã, tức là tiền thân 
				của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lúc này Nguyễn Công Hoan chưa theo 
				Quốc Dân đảng. Một năm sau, gặp lại bạn là Nguyễn Thái Học, học chung trường từ thời thơ ấu, 
				Nguyễn Công Hoan mới chính thức đứng vào đòan thể của Nguyễn 
				Thái Học.
 Năm 1927, Cảnh 19 tuổi, được Nguyễn Thái Học cử sang Quảng 
				Châu gặp tổng bộ VNTNCMĐCH để bàn chuyện kết hợp chống Pháp. Nhưng tại đây Cảnh bị Nguyễn Ái Quốc thuyết phục, 
				bỏ nhóm Quốc Dân đảng để tuyên thệ gia nhập VNTNCMĐCH rồi trở về 
				gieo mầm hạt giống Cộng Sản trong nước.
 Sau khi chủ động thành lập Công Hội Đỏ Bắc Kỳ, Cảnh vào miền 
				Trung, giữ công tác tuyên truyền trong ban thường vụ xứ ủy 
				Trung Kỳ. Nhưng chỉ một năm sau thì bị bắt ở Vinh. 
				Mật thám đưa Cảnh về Hải Phòng và chặt đầu lúc Cảnh mới 24 tuổi.
 Nguyễn Phong Sắc sinh năm 1902 tại làng Bạch Mai, tỉnh Hà Đông. Theo học trường Bưởi rồi sau này dạy học ở tư thục Thăng Long. 
				Năm 1926 Sắc gia nhập VNTNCMĐCH và năm 1929 thì làm bí thư chi 
				bộ Hà Nội.
 Sau khi tham gia thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Hà Nội, Sắc vào Nghệ An chỉ đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, làm giật 
				mình nhà cầm quyền thực dân. Từ đó, Sắc trở thành ủy viên 
				trung ương đảng, phụ trách bí thư xứ ủy Trung Kỳ. Cái tên 
				Nguyễn Phong Sắc quan trọng ấy được tô đậm trong sổ bìa đen của 
				mật thám Pháp. Cho nên năm 1931, khi Sắc cải trang, đáp xe 
				lửa ra Hà Nội công tác thì mật thám đã được mật báo trước, chờ 
				sẳn tại ga Hàng Cỏ, lôi Sắc đi thủ tiêu bí mật, không ai thấy 
				xác. Lúc ấy Nguyễn Phong Sắc vừa tròn 28 tuổi.
 Riêng Ngô Gia Tự, sau khi chia tay Lê Tiến và Hậu ở ngã Lò Rèn, lại lên đường vào Sài Gòn, liên lạc với các đồng chí trong ấy 
				để bố trí hoạt động. Lúc ấy, Châu Văn Liêm đang lãnh đạo An 
				Nam Cộng Sản đảng tại Sài Gòn. Gặp Ngô Gia Tự, Liêm liền giải 
				tán An Nam Cộng Sản Đảng để đưa hết đảng viên gia nhập vào Đông 
				Dương Cộng Sản Đảng do Ngô Gia Tự làm bí thư xứ ủy Nam Kỳ, trụ 
				sở đặt tại đường Phạm Ngũ Lão Sài Gòn. Năm sau, Tự có dịp gặp 
				gỡ Trần Phú, tổng bí thư đảng đầu tiên vừa được bầu sau hội 
				nghị Thống Nhất tại Hồng Kông hồi tháng 10 năm 1930. 
				Phú cũng vào Sài Gòn hoạt động và ngày ngày đi làm công nhân tại 
				Hồng Thập Tự street.
 Đường cách mạng của Ngô Gia Tự thật ngắn ngủi ! Năm 1930, Tự bị 
				bắt tại Sài Gòn và đày ra Côn Đảo. Năm năm sau, Tự cùng một số 
				đồng chí tổ chức vượt ngục thành công. Nhưng không may lại bị 
				đắm thuyền mất tích trên biển. Lúc ấy, Tự 27 tuổi. Giả như 
				Ngô Gia Tự rán chờ thêm một năm nữa, thì chắc chắn Tự đã có thể 
				được ân xá, bởi năm ấy mặt trận Bình Dân thiên tả bên Pháp lên 
				cầm quyền.
 Tự bị bắt được một năm thì đến lượt Trần Phú cũng bị tóm ở số 66 
				đường Hồng Thập Tự Sài Gòn ngày 18 tháng tư năm 1931. Vì là 
				Tổng Bí Thư Đảng, Phú bị tra tấnnặng nề, chết đi sống lại, khiến mật thám phải đưa vào nhà thương Chợ Quán điều trị. 
				Nhưng Phú kiệt sức và qua đời ở tuổi 27.
 Nhưng, tất cả những diễn tiến ấy là chuyện của những năm sau. Trở lại năm 1929, sau khi thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng 
				tại Hà Nội, nhóm Ngô Gia Tự chia nhau bung ra, đi tuyên truyền 
				khắp nơi, không những chỉ nắm đối tượng là quần chúng, mà còn 
				phải vận động ngay trong nội bộ VNTNCMĐCH để thuyết phục họ bỏ 
				đoàn thể cũ, chuyển sang thành đảng viên Cộng sản. Ngô Gia Tự 
				hôm nay theo Lê Tiến đến ngã Lò Rèn gặp Hậu cũng không ngòai mục 
				đích ấy. Và Hậu, dĩ nhiên chỉ ngồi nghe thôi chớ không hiểu gì 
				để phát biểu. Hậu đi làm cách mạng để giải phóng đất nước, danh xưng nào cũng được, 
				miễn cứ đánh Tây là đúng với ý nguyện của Hậu.
 Khoảng hai tuần sau, một ngày nắng gắt giữa tháng 7, Lê Tiến 
				đột ngột đến tìm Hậu. Lúc ấy đã gần trưa ,Kiệt và Thông vẫn đi 
				làm như thường lệ mặc dầu chẳng có việc gì cố định. Riêng Mão 
				thì hôm nay đi mua mực in và giấy bản, nên ở nhà chỉ có mình 
				Hậu đang vá áo. Vừa bước vào, Lê Tiến bỏ mũ trên bàn, tự động 
				ngồi xuống ghế và nói :
 - Có gì ăn không chị Quyết ? Đói quá ! Hai hôm nay không có gì 
				vào mồm, chỉ toàn uống nước lã cầm hơi !
 Lê Tiến cố nở nụ cười, nhưng không che giấu nổi nét mặt xanh 
				xao và đôi mắt hết sức mệt mỏi. Hậu nhìn Lê Tiến, thảng thốt 
				kêu lên :
 - Chết ! Nhịn hai hôm rồi cơ à ! Thấy anh gầy hẳn đi, tôi lại 
				cứ ngỡ là anh mới đi công tác ở xa về !
 Lê Tiến gật đầu vừa nói vừa thở :
 - Vâng ! Tôi mới xuống Hải Phòng. Ở dưới ấy năm hôm. Có ít 
				tiền, dọc đường tiêu sạch cả !
 Hậu cúi lấy cái nón dưới chân giường và bảo :
 - Nhà chả còn gì ăn. Cơm nguội cũng hết. Anh chờ tôi một tý, 
				tôi chạy ra đầu ngõ mua cái gì cho anh ăn tạm.
 Dứt lời, Hậu vén mành bước ra ngay. Lê Tiến nói với theo :
 - Củ khoai, mẩu sắn, thứ gì cũng được chị Quyết ạ !
 Hậu im lặng cắm đầu rảo bước, cảnh nhịn đói là chuyện diễn ra 
				thường xuyên, chẳng có chút gì bất ngờ. Nhiều lần Hậu, Kiệt, Thông và Mão đã từng trãi qua những ngày xanh xao như Lê Tiến 
				hôm nay. Tuy vậy, nhìn Lê Tiến Hậu vẫn xúc động bởi cô cứ 
				tưởng lãnh đạo Thành Bộ như Lê Tiến thì phải có cơ quan kinh tài 
				chu cấp tiền bạc, chứ đâu có biết Lê Tiến cũng như Hậu, phải 
				tự túc tự cường, giật gấu vá vai mà sống. Tài chánh eo hẹp, Hậu và các đồng chí từ mấy tháng nay đã thỏa thuận với nhau là 
				chỉ ăn hai bửa sáng tối. Cho nên Lê Tiến đến buổi trưa thì thật 
				không đúng lúc, Hậu chẳng chuẩn bị thức ăn gì trong bếp.
 Hậu đi mấy phút rồi bưng về một bát canh rêu cua và dĩa bánh đúc, đặt trên bàn trước mặt Lê Tiến. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt 
				làm Lê Tiến nuốt nước miếng ừng ực, bàn tay luống cuống cầm đũa 
				gắp bánh đúc nhai ngay, không kịp mời Hậu lời nào, Hậu vào bếp 
				rót nước trà mang ra rồi tế nhị bỏ vô sân sau để Tiến ăn uống 
				một mình cho tự nhiên. Mấy phút sau cô trở lên thì phần ăn của 
				Lê Tiến đã cạn sạch. Anh vừa thở vừa cầm mũ quạt mồ hôi vã ra 
				đầy mặt. Anh bưng cốc nước uống gần cạn và ngượng ngùng phân 
				trần :
 - Miếng khi đói bằng gói khi no ! Tôi cuốc bộ từ nhà lại đây, mắt cứ hoa cả lên !
 Hậu cũng cười theo :
 - Anh ăn bát nữa nhé ! Tôi còn tiền ! Nhịn hai ngày rồi thì chắc 
				một bát chả thấm vào đâu!
 Lê Tiến xua tay :
 - Cám ơn chị. Tôi no rồi chị ạ ! Dạo ở biên giới, có khi còn 
				nhịn cả tuần lễ. Gặp lá gì cũng nhai, gặp củ gì cũng đào ! Ở 
				thành thị thì kiêng đủ thứ. Lên rừng ăn bừa bãi mà chả có ai 
				chết cả !
 Rồi anh đưa mắt nhìn vào trong và đổi đề tài :
 - Các anh ấy đi vắng cả ?
 Hậu vừa dọn bát đũa cho Lê Tiến vừa đáp :
 - Vâng ! Anh Kiệt với anh Thông thì ngày nào chả đi làm ! Chỉ có 
				anh Mão hôm nay đi mua mực ! Mới đi xong !
 Hậu vào bếp rồi trở ra rất nhanh, ngồi ghé xuống mép giường, hỏi cho có chuyện :
 - Anh đi Hải Phòng có chuyện gì không anh ? Nghe bảo gia đình 
				anh ở dưới ấy ? Chắc anh về thăm hai cụ ?
 Lê Tiến gật đầu :
 - Vâng ! Ông bà cụ tôi ở Hải Phòng, nhưng tôi đi công tác, không tiện ghé nhà. Cả năm nay tôi không gặp lại ông bà cụ tôi 
				!
 Câu nói của Lê Tiến làm Hậu chợt nhớ đến cha mẹ của mình và nhất 
				là Duyên cùng toàn chi bộ Hải Ninh mà Hậu có công gầy dựng từ 
				phút đầu. Nữa năm nay chẳng biết Hải Ninh có phát triển thêm 
				được đảng viên nào nữa không ? Cô tự hỏi và nén tiếng thở dài. Rồi cô tiến lại rót thêm cốc nữa cho Lê Tiến và nhân tiện kéo 
				ghế ngồi đối diện để nói chuyện cho kín đáo hơn. Cô ngập ngừng 
				một chút rồi dè dặt hỏi :
 - Anh ghé thăm hay là có chỉ thị mới của Thành Bộ ?
 Ý Hậu muốn hỏi về việc Thông sắp được thuyên chuyển đi công tác 
				chỗ khác như lời Lê Tiến đã cho biết trước đây. Thông đi, tất 
				nhiên Hậu cũng buồn vì phải xa một người đồng chí hiền lành. Nhưng Lê Tiến đáp :
 - Không ! Tôi đi ngang tạt vào thăm thôi !
 Hậu bạo dạn nói đùa :
 - Anh đi ngang, nhưng giá không đói bụng thì chắc cũng chả thèm 
				vào thăm chúng tôi !
 Lê Tiến cười ngượng ngập :
 - Chị tinh thật ! Phục chị đóan giỏi !
 Hậu tắt nụ cười, hạ giọng xuống và nghiêm nghị hỏi :
 - Mấy hôm nay, tối nào anh Kiệt với anh Thông đi làm về cũng kể 
				cho tôi nghe vụ thực dân Pháp vừa xử án Quốc Dân Đảng. Dư luận 
				xem chừng xôn xao lắm. Thành bộ có chủ trương gì về việc này 
				không anh ?
 Nghe câu hỏi, ánh mắt Lê Tiến chợt mất hẳn nét vui để đổi thành 
				ưu tư nặng trĩu. Anh nhìn Hậu, khẻ gật đầu nhưng không trả lời. Vụ xử Quốc Dân Đảng vừa diễn ra hôm đầu tháng là một biến cố 
				quá lớn, tất nhiên Lê Tiến cũng như các đồng chí ở Thành Bộ 
				Đông Dương Cộng Sản Đảng không thể không theo dõi rất sát, bởi 
				dù muốn dù không, nó cũng tạo nên những biểu hiện tiêu cực 
				không che giấu được ở một số đảng viên Cộng Sản. Trên thực tế, thì từ đầu năm đến giờ, mật thám Pháp đã huy động tối ta lực 
				lượng để lùng bắt mọi thành phần chống đối, chứ đâu có riêng 
				Quốc Dân Đảng ! Trông người lại nghĩ đến ta. Biết đâu trong 
				tương lai, đoàn thể của Tiến cũng sẽ có ngày không may, nối 
				đuôi nhau ra tòa như Quốc Dân Đảng hôm nay !
 Mà chẳng phải riêng Lê Tiến lo âu. Cá nhân Hậu cũng đứng ngồi 
				không yên vì những vụ bắt bớ diễn ra cùng khắp Hà Thành. Đã 
				nhiều đêm Hậu ngồi bàn cùng với Kiệt, Mão và Thông, nóng lòng 
				mong được bố trí đi nơi khác, vì cứ ở mãi một chỗ, chắc chắn 
				có ngày sẽ bị lộ. Từ khi từ giã gia đình cất bước lên đường, mối lo gan ruột của Hậu vẫn là chết rũ trong tù khi chưa làm 
				được việc gì đáng kể cho đoàn thể cũng như đất nước. Hôm nay 
				nhân gặp riêng Lê Tiến, cô đình bày tỏ cái ý ấy cho Thành Bộ 
				biết để xem Lê Tíến có đưa ra được phương án nào mới cho Hậu đỡ 
				sốt ruột chăng ? Chẳng lẽ cứ nằm đây, cứ uống nước cầm hơi mà 
				chờ mật thám đến còng tay cô ! Cô nhắc lại câu hỏi :
 - Anh chắc có theo dõi vụ xử án Quốc Dân Đảng ? Bị bắt đông như 
				thế thì chắc là có đứa tay trong phản bội !
 Trước nhận xét của Hậu, Lê Tiến nén tiếng thở dài thông cảm. Anh cần đắn đo suy tính xem có nên cho Hậu biết về tình hình 
				giao động của Thành Bộ Đông Dương Cộng Sản Đảng nhân vụ Pháp 
				đang thẳng tay đàn áp Quốc Dân Đảng hay không ? Bởi trong vụ này, có một vài khúc mắc mà chính Lê Tiến cũng đang cảm thấy phân 
				vân sau chuyến đi Hải Phòng vừa qua !
 Lùi trở lại hơn nữa năm về trước, nghĩa là từ đầu tháng 2, sau 
				khi René Bazin bị ám sát tối 30 Tết. Mấy ngày Xuân chưa đi qua 
				thì hàng loạt yếu nhân của Quốc Dân Đảng đã sa lưới mật thám 
				Pháp. Giặc ngoài thù trong, thật là một đại nạn cho những 
				người yêu nước. Sở dĩ mật thám Pháp thành công dễ dàng như vậy 
				là vì trong số những người bị bắt ngay đợt đầu, ngày 17 tháng 2, có Bùi Tiên Mai, chủ tịch đảng bộ Quốc Dân Đảng tỉnh Thái 
				Bình. Mai vốn là một công chức cấp thấp của nhà nước, trước 
				đây làm việc bên tỉnh Phú Thọ, bị cách chức vì cờ bạc và bê trễ 
				công vụ. Nhờ mồm mép khéo giao dịch, khi trở về Thái Bình, Mai được kết nạp vào Tỉnh Bộ và lên nắm quyền lãnh đạo Quốc Dân 
				Đảng toàn tỉnh. Thái Bình lúc ấy, có viên Tổng Đốc cùng hung 
				cực ác là Vi Văn Định, một tay sai đắc lực của thực dân, chuyên đi lùng bắt và tra tấn dã man các nhà ái quốc. Vốn mang 
				bản chất lật lọng và cuộc sống phú quí, Bùi Tiên Mai đã phản 
				bội lời thề tiết lộ hết tổ chức, kế hoạch cũng như nhân sự của 
				Quốc Dân Đảng cho mật thám Pháp. Vì vậy, phần lớn những nhân 
				vật quan trọng của Tổng Bộ, Thành 
				Bộ và một số Tỉnh Bộ đều bị Pháp đưa vào tù.
 Trước tình thế đen tối, đảng viên cứ một ngày một mất dần, cơ 
				sở bí mất cứ mỗi ngày mỗi bại lộ. Nguyễn Thái Học phải triệu 
				tập đại hội Đảng toàn quốc tại Bắc Ninh vào đầu tháng Tư để bổ 
				xung nhân sự, đặc biệt là tuyển thêm phụ nữ lo phụ trách công 
				tác giao liên cho Đảng vì dù sao phụ nữ cũng ít bị để ý hơn. Một số nữ đảng viên được giao trọng trách nhân dịp này, trong 
				đó có ba chi em gái con một nhà nho ở phủ Lạng Thương tỉnh Bắc 
				Giang, đó là cô Bắc, cô Giang và cô Tình. Cả 3 đều có chí lớn, từng tham gia tổ chức cách mạng của Nguyễn Khắc Nhu tại Bắc 
				Giang trước khi VNQDĐ ra đời. Năm 1927, Nguyễn Khắc Nhu đem tổ 
				chức của mình sát nhập vào VNQDĐ, ba cô Bắc, Giang và Tình 
				đương nhiên trở thành đảng viên Quốc Dân Đảng. Riêng cô Giang, nhờ tư chất thông minh, có chữ nghĩa và khả năng tuyên truyền 
				sắc bén, trở thành người được tổng bộ tin cẩn và có dịp kề cận 
				thường xuyên bên cạnh Nguyễn Thái Học. Cô gấp rút vận động quần 
				chúng, nhất là lực lượng quân nhân người Việt đi lính cho Pháp, kêu gọi hàng ngũ trở về với dân tộc, 
				tham gia ngày khởi nghĩa gần kề.
 Một tháng sau, giữa năm 1929, mạng lưới Quốc Dân Đảng tiếp tục 
				bị vỡ từng ngày, Nguyễn Thái Học lại bí mật triệu tập đại hội 
				bất thường toàn quốc tại Bắc Ninh và quyết định thành lập Tổng 
				Bộ Chiến Tranh để chuẩn bị khởi nghĩa, dù biết rằng như thế là 
				quá vội vàng. Chủ trương của đảng trưởng và tổng bộ là : Thà 
				khởi nghĩa để nêu cao tấm gương ái quốc, còn hơn là ngồi chờ 
				cho Pháp bắt rồi cũng chết gục trong tù !
 Phía thực dân Pháp, khi khám phá ra một tổ chức cách mạng có 
				tầm ảnh hưởng quá lớn, với hơn 200 nghi can đã bị bắt, chúng 
				không đem ra xét xử ở tòa án bình thường. Chiếu sắc lệnh của 
				tổng thống Pháp, toàn quyền Đông dương Pìerre Pasquier liền cho 
				thíêt lập một tòa án đặc biệt mà người Việt thường gọi là Hội 
				Đồng Đề Hình, dự trù khai diễn phiên tòa công khai trong 2ngày 
				2 và 3 tháng 7, do tên hung thần thanh tra chánh trị Jules 
				Brides ngồi ghế chánh thẩm, tức chủ tịch Hội 
				Đồng Đề Hình.
 Mọi chuyện xãy ra trong không khí hết sức sôi sục, nhưng chỉ có 
				giới báo chí, hoặc những người nặng lòng với thời cuộc và các 
				đoàn thể ái quốc biết tường tận câu chuyện, còn dân chúng thì 
				cho đến lúc ấy vẫn không hiểu Quốc Dân Đảng là gồm những ai, và 
				Hội Đồng Đề Hình là cái gì ! Nhiều người còn vô tình hoặc bị 
				Pháp cố ý gạt gẫm, nhầm lẫn Quốc Dân Đảng với 
				TNCMĐCH.
 Mật thám Pháp, mặc dù đã bắt nhốt được nhiều yếu nhân của Quốc 
				Dân Đảng để chuẩn bị đưa ra tòa nhận những bản án tiền chế rất 
				nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa an tâm vì Nguyễn Thái Học và 
				Nguyễn Khắc Nhu còn ngoài vòng kiềm tỏa. Ngày nào chưa bắt được 
				Nguyễn Thái Học thì hiểm họa khởi nghĩa vẫn có thể xẩy ra bất cứ 
				lúc nào. Đã thế, khoảng tháng 4/29, Louis Marty, tổng giám 
				đốc sở liêm phóng Đông Dương và Amoux, giám đốc nha công an Bắc 
				Việt, lại nhận được bản tin Quốc Dân Đảng sẽ tấn công phá nhà 
				ngục Hỏa Lò để giải cứu cho các đồng chí. Bản tin này làm cho 
				chúng mất ăn mất ngủ bởi nếu chuyện xẩy ra, thì sẽ bị chính phủ 
				bên mẫu quốc khiển trách là bất lực. Chánh thanh tra Brides 
				thân hành vào tận nhà ngục, lôi từng tù nhân Quốc Dân Đảng ra 
				hăm dọa :
 - Chúng mày liệu hồn ! Nguyễn Thái Học mà giở trò gì bên ngoài 
				thì đầu của chúng mày sẽ rụng hết !
 
 Chương 7
 
 Rồi một mặt tăng cường phòng thủ nhà tù, một mặt 
				bàn mưu tính kế cố tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đảng trưởng 
				VNQDĐ. Chúng kết luận : Nếu Nguyễn Thái Học bị bắt thì đảng 
				viên như rắn mất đầu, nhất là những đồng chí đang ở tù, không 
				còn chút hy vọng gì nữa, sẽ xuống tin thần rất nhanh, và Quốc 
				Dân Đảng có thể tàn lụi và tan rã. Với đầu óc đầy thủ đoạn, hung thần Brides nghĩ ngay ra một kế. Trong số trên dưới 200 
				đảng viên đang bị thẩm vấn và nhốt ở Hỏa Lò, có nhà văn Ngô Văn 
				Triện, bút hiệu Trúc Khê, lúc ấy đã có chút tên tuổi trong 
				giới trí thức Hà Thành. Ông Triện ôm giấc mộng đánh Pháp từ 
				thuở nhỏ, từng có ý lập đảng cách mạng. Năm 26 tuổi, ông gặp 
				Phạm Tuấn Tài, sinh hoạt trong nhóm Nam Đồng Thư Xã phổ biến 
				văn thơ yêu nước. Ngô Văn Triện tham gia 
				rồi biến cả nhóm thành VNQDĐ. Vụ ám sát Bazin đưa ông vào tù do 
				Bùi Tiên Mai khai tên ông trong danh sách yếu nhân của Quốc Dân 
				Đảng.
 Biết ông Triện có uy tín và là chỗ giao tình với Nguyễn Thái Học, mật thám liền lôi ông lên, vừa đánh vừa đập vừa dụ dỗ. Chúng 
				bảo ông viết một lá thư riêng cho Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc 
				Nhu, khuyên cả hai ra đầu thú để cứu 200 đảng viên đang bị giam 
				cầm. Chính quyền bảo hộ cam kết nếu Nguyễn Thái Học ra nạp mình 
				thì mọi đồng chí sẽ được thả ngay. Còn riêng Nguyễn Thái Học và 
				Nguyễn Khắc Nhu thì sẽ bị bán án đại khái cho có lệ mà thôi ! 
				Nguyễn Thái Học đừng vì ích kỷ bản thâm mà làm hại các đồng chí 
				hiện đang bị tra tấn trong ngục !
 Trúc Khê Ngô Văn Triện lúc đầu còn cứng rắn từ chối, về sau bị 
				tra tấn thể xác và khủng bố tinh thần dữ dội quá, 
				đành xiêu lòng ngồi viết thư cho đảng trưởng với nội dung như 
				trên.
 Trùm mật thám Brides có được bức thu dụ hàng trong tay, vui 
				mừng khôn xiết, nhưng không biết làm cách nào để gửi cho Nguyễn 
				Thái Học bởi có biết Nguyễn Thái Học ở chỗ nào đâu mà gửi ! Đầu 
				óc lưu manh bẩm sinh, hắn lại nghĩ ra được một kế khác : Hắn 
				biết gần đây hai chị em cô Bắc cô Giang là những người rất gần 
				gũi với Nguyễn Thái Học, biết rõ đường đi nước bước của đảng 
				trưởng. Như vậy chỉ có cách nhờ cô Giang hoặc cô Bắc 
				trao thư cho Nguyễn Thái Học là chắc ăn hơn cả.
 Nhưng chính cô Giang cô Bắc cũng ít khi có mặt ở nhà thì làm thế 
				nào mà gặp được ! Mật thám Pháp một lần nữa đi đường vòng : 
				Chúng biết cô Giang cô Bắc có hai người bạn thân cùng ở phủ Lạng 
				Thương là hai chị em nhà họ Trịnh tên là Nhu và Uyển. Hai chị 
				em Bắc Giang thì theo Quốc Dân Đảng. Còn hai chị em Như Uyển 
				thì theo VNTNCMĐCH, lúc này vừa biến thành Đông Dương Cộng Sản 
				Đảng. Dù đoàn thể khác nhau nhưng hai chị em cô Bắc cô Giang 
				vẫn giữ mối thân tình với cô Nhu và cô Uyển vì vừa là tình đồng 
				hương, vừa là cùng chí hướng chống Pháp.
 Hai cô Nhu Uyển có người anh cả tên Trịnh Đình Chiêm, tuy không 
				chính thức hoạt động cho cách mạng nhưng cũng nặng lòng yêu nước. Một hôm Brides ra lệnh bắt Chiêm về đồn, gán cho tội chống 
				chính phủ bảo hộ, đánh cho một trận nhừ tử rồi gọi hai chị em 
				vào coi. Thấy anh mình thân thễ đầy những vết bầm tím lẫn với 
				máu me, hai cô em đau xót như xé gan. Bấy giờ Brides mới bảo :
 - Tao biết hai đứa chúng mày là đảng viên cộng sản ! Tội của 
				chúng mày với thằng anh chúng mày đều đáng chặt đầu ! Nhưng tao 
				cho hai đứa chúng bay một cơ hội để lập công chuộc tội. Nếu 
				muốn cứu anh chúng mày cũng như chính bản thân chúng mày khỏi bị 
				chặt đầu, thì hai đứa chúng mày chỉ việc trao tận tay Nguyễn 
				Thị Bắc hoặc Nguyễn Thị Giang một bức thư để chúng nó chuyển cho 
				Nguyễn Thái Học ! Đơn giản có thế thôi. Nếu chúng mày làm được 
				việc này, thì chẳng những Trịnh Đình Chiêm được thả mà còn có 
				thể được Pháp ban thưởng. Về phần chúng mày thì tao cũng ngơ 
				cho, không bắt nhốt !
 Vì thương anh, hai cô Uyển, Như nhận lời, 
				cầm lá thư ra đi.
 Ra khỏi cổng nhà giam, hai cô bàn nhau đến gặp đồng chí Mai 
				Ngọc Thiệu lúc ấy đang là Bí Thư Xứ Ủy Bắc Kỳ của VNTNCMĐCH để 
				báo cáo sự việc và xin chỉ thị. Ban chấp hành Xứ Ủy liền triệu 
				tập phiên họp bất thường để xử lý trường hợp gai góc này, vì 
				trong quá khứ chưa xẩy ra bao giờ. Hôm ấy là cuối tháng 5 năm 
				1929. Đại hội Xứ Ủy nhất trí quyết định : Phải đưa hai cô Như 
				Uyển sang Quãng Châu, để lại bên đó công tác cho tổng bộ 
				TNCMĐCH, bởi nếu để lại trong nước thì một là Pháp sẽ tiếp tục 
				lợi dụng khai thác, hai là sẽ có sự ngộ nhận rồi gây nên xung 
				đột giữa TNCMĐCH và VNQDĐ. Mai Ngọc Thiệu thay mặt xứ ủy, chỉ 
				thỉ Tỉnh đảng bộ Hải Phòng thu xếp đưa hai chị em Uyển, 
				Như sang Quãng Châu bằng tàu thủy càng sớm càng hay.
 Ba hôm sau, Uyển và Như đáp xe lửa xuống Hải Phòng. Ban chấp 
				hành Tỉnh Bộ Hải Phòng đã được Xứ Ủy thông báo trước, liền họp 
				nhau để chuẩn bị nhận hai nữ đồng chí mà họ từng nghe là rất 
				tích cực hoạt động cho đảng. Phòng họp tỉnh bộ Hải Phòng hôm ấy 
				có đến 9 đồng chí tham dự, do Nguyễn Đức Cảnh chủ tọa. Lúc ấy, Cảnh 21 tuổi, 
				vừa từ Hà Nội xuống giữ chức Bí Thư Tỉnh Đảng Bộ tỉnh Hải Phòng.
 Thời gian này, Cảnh cùng Đỗ Ngọc Du thường xuyên họp hành với 
				ba đồng chí vừa bỏ Đại Hội Hồng Kông về chỉ vì đại hội không 
				đồng ý việc đổi tên thành Đảng Cộng Sản. Họ xông xáo đi tranh 
				thủ vận động các chi bộ TNCMĐCH yêu cầu họ thoát ly tổ chức cũ, đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Công việc khó khăn và 
				tế nhị vì nhiều người muốn giữ lại TNCMĐCH, chưa thuận tiện để 
				ngả hẳn theo cánh Cộng Sản của Cảnh.
 Giữa lúc ấy, Xứ Ủy Mai Ngọc Thịệu, tức Cả Sâm, bí mật chỉ thị 
				Đỗ Ngọc Du phụ trách việc đưa hai chị em Uyển Như sang Trung 
				Quốc. Du liền bàn với Cảnh đề xuất phương thức giải quyết 
				chuyện quan trọng này. Cái ý trong đầu Cảnh và Du đã có sẳn 
				nhưng muốn tránh trách nhiệm, Cảnh liền triệu tập buổi họp đảng 
				bộ để mọi người cùng chia xẻ. Trong số 9 đảng viên hiện diện 
				tại buổi họp, ngòai Nguyễn Hửu Cảnh và Đỗ Ngọc Du, còn có Quốc 
				Anh, Kim Tôn và Sĩ Quyết đều cùng chủ trương sắt máu như Cảnh. Những đồng chí khác như Nguyễn Thị Vinh, Lê Văn Đống và Hồ Ngọc 
				Lân thì chỉ tham gia thầm lặng, không có ý 
				kiến gì.
 Mở đầu phiên họp, Cảnh phát biểu :
 - Hiện nay, Tổng Bộ TNVNCMĐCH đã giải tán để thay thế bằng Đông 
				Dương Cộng Sản Đảng. Đất Quãng Châu đã bị Tưởng Giới Thạch hoàn 
				toàn khống chế, làm gì còn chỗ đứng cho ta nữa mà đưa người của 
				ta sang bên ấy ! Chả nhẽ Xứ Ủy Bắc Kỳ không biết điều này hay 
				sao mà lại bảo chúng ta gửi hai chị Như, Uyển sang Quảng Châu 
				giao cho Tổng Bộ TNVNCMĐCH ? Chủ trương như thế thì thật quá mơ 
				hồ ! Tổng Bộ Thanh Niên không còn, mà đất Quảng Châu cũng không 
				còn. Gửi người sang đấy thế nào được !
 Hai ba đồng chí cùng góp ý chê trách Xứ Ủy Bắc Kỳ ngây thơ. Nói 
				chung ,nhóm Cộng Sản tiền phong này vẫn đang ấm ức vì nhiều đoàn 
				viên TNCMĐCH vẫn cứ muốn bám lấy cái tên hiện tại mà không chịu 
				đổi thành Đông Dương Cộng Sản. Nguyễn Đức Cảnh nói :
 - Như thế thì bây giờ mình phải làm gì ? Ngày mai hai chị ấy 
				xuống đến nơi rồi ! Gửi người trả lại cho Xứ Ủy hay sao ?
 Đổ Ngọc Du đề nghị thẳng :
 - Hai chị Như, Uyển đã gặp mật thám Pháp, biết họ thỏa thuận 
				với Pháp những gì ? Hai chị ấy lại nhận lời đi gặp Quốc Dân Đảng 
				để kêu gọi Nguyễn Thái Học về hàng Pháp. Như thế thì cái ý phản 
				bội đã có trong lòng rồi. Xứ Ủy chắc cũng biết như thế, nhưng 
				ngại xử lý nên giao cho Tỉnh Bộ chúng ta. Các đồng chí thử nghĩ 
				mà xem : Để hai đồng chí ấy trong nước thì sớm muộn gì chúng ta 
				cũng sẽ mang họa bởi hai chị ấy biết rõ hầu hết các yếu nhân của 
				Đảng. Mà đưa hai chị ấy sang Hồng Kông cũng không được, nếu 
				xẩy ra chuyện gì bên ấy thì Tổng Bộ sẽ khiển trách chúng ta. Chi bằng thủ tiêu quách đi cho xong !
 Cả phòng họp cùng yên lặng. Rồi một nữ đồng chí dè dặt phát 
				biểu :
 - Tôi biết hai chị em cô ấy từng đóng góp nhiều cho đoàn thể, lại chưa có lỗi lầm gì cụ thể mà ta thủ tiêu thì có …. nên xét 
				lại không ? Chúng ta làm cách mạng đánh Tây. Chưa đánh được 
				thằng Tây nào, đã giết người của mình thì có quá đáng không ?
 Quốc Anh đáp :
 - Vì đảng mà làm thì chả có gì để gọi là quá đáng ! Trong phòng 
				họp này có ai thù oán gì với hai chị em cô ấy đâu ! Chẳng qua là 
				vì tiền đồ của đảng mà thôi ! Mai kia nước nhà độc lập thì co 
				tên hai chị ấy gắn trên một cái biển phố để ghi công là được chứ 
				gì !
 Đỗ Ngọc Du phân tích thêm :
 - Tôi chắc Xứ Ủy cũng muốn thủ tiêu hai chị ấy, nhưng còn e 
				ngại, giống như ngày xưa Tào Tháo muốn giết Nễ Hành là một dan 
				sĩ được nhiều người nễ phục. Tào Tháo mới cho đi sứ gặp Lưu 
				Biểu để mượn tay Lưu Biểu giết đi. Lưu Biểu biết thâm ý của Tào 
				Tháo nên không giết Nễ Hành mà lại sai Nễ Hành đi gặp Hoàng Tổ. Kết quả là Nễ Hành bị Hoàng Tổ giết ! Tình thế hôm nay cũng vậy. Xứ Ủy muốn giết hai đồng chí Như, Uyển, nhưng mượn tay chúng 
				ta. Chúng ta biết thế nhưng phải giết để tránh hậu họa !
 Phòng họp lại yên lặng. Nhiều người muốn bênh vực cho hai cô 
				Như, Uyển, nhưng thấy nhóm Hồng Kông hung hăng quá, họ đành 
				làm ngơ mặc dầu trong lòng rất bức rứt. Nguyễn đức Cảnh kết 
				luận :
 - Chúng ta không có nhiều thì giờ. Ngày mai ai chị ấy xuống đến 
				nơi rồi. Thôi thì đành vậy. Để bảo toàn lực lượng, nên thủ 
				tiêu hai chị em Trịnh Thị Như và Trịnh Thị Uyển. Thay mặt tỉnh 
				đảng bộ, tôi giao việc này cho đồng chí Hồ Ngọc Lân thi hành. Phòng họp hôm nay có tất cả chín người. Tất cả đều phải giữ 
				tuyệt mật. Sau khi hai chị em Uyển và Như bị ám sát, tất nhiên 
				ta sẽ phao tin là Quốc Dân Đảng thanh toán vì hai chị ấy nhận 
				lời mật thám Pháp dụ dỗ Nguyễn Thái Học về đầu thú !
 Hội nghị giải tán trong không khí nặng nề, 
				mỗi người theo đuổi một ý nghĩ khác nhau nhưng không ai dám nói 
				với ai vì sợ kỷ luật sắt máu của đảng.
 Tối hôm sau, như đã hẹn trước, đúng 7 giờ 32 tối, hai cô Như, Uyển đến trước trường học Trí Tri, ở đó sẽ có người đợi sẳn 
				để đưa hai cô ra mắt Tỉnh Bộ. Trong bóng tối mờ mờ tại khu vực 
				vắng vẻ và xa lạ, hai chị em Trịnh Thị Như và Trịnh Thị Uyển 
				đang ngơ ngác nhìn quanh thì một bóng ngừơi xuất hiện. Hai cô 
				hồi hộp mừng rỡ, nhưng chưa kịp cất tiếng hỏi thì người ấy đã 
				giơ súng bắn thẳng vào Ngực Uyển, cô ngã gục xuống và chết ngay. Cô Như hoảng hốt bỏ chạy thì một viên đạn bắn theo, nhưng chỉ 
				trúng vào bắp chân làm cô kêu thét lên rồi quỵ xuống. Cô chưa 
				chết, nhưng rõ ràng kẻ sát nhân không muốn giết cô, chỉ bỏ cô 
				nằm đó và tẩu thoát trong bóng đêm. Vừa đau đớn, vừa hoảng sợ, Như tự hỏi : Kẻ sát nhân là mật thám Pháp hay Quốc Dân Đảng ? 
				Không bao giờ trong đầu cô mảy may có ý ngờ vực rằng chính những 
				đồng chí cộng sản của cô lại nhẫn tâm giết hai chị em cô vì một 
				nguyên cớ rất mơ hồ ! Chị em cô cam lòng thoát ly gia đình, từ 
				giã xóm làng thân yêu để dấn thân trên bước đường thiên lý đầy 
				chông gai, chẳng lẻ lại bị chính những đồng chí của mình hạ thủ 
				! Cô rên rỉ lết lại ôm xác cô em gái rồi khóc tấm tức trong bóng 
				đêm dày đặc.
 Sau vụ án mạng, mật thám cho bắt Mai Ngọc Thiệu, người đứng 
				đầu Bắc Việt Kỳ Bộ. Bởi từ lâu, sở Liêm Phóng vẫn theo dõi Mai 
				Ngọc Thiệu và biết rõ ai cô Như Uyển là đồng chí đàn em thân tín 
				của Thiệu. Huống chi từ khi trao công tác cho hai cô, đương 
				nhiên mật thám Pháp bám theo rất sát để chờ kết quả của lá thư 
				gửi cho Nguyễn Thái Học. Nay chuyện chưa tới đâu thì hai cô bị 
				bắn, sở Liêm Phóng tức giận vì kế hoạch dụ hàng Nguyễn Thái Học 
				bị hỏng. Chúng đoán là Mai Ngọc Thiệu có dính dáng đến việc này 
				nên lôi ông về khai thác. Thiệu xác nhận không hề biết chút gì 
				về vụ ám sát này. Mật thám Pháp liền tóm luôn mấy đồng chí ở 
				Tỉnh Bộ Hải Phòng vì vụ án xẩy ra ngay tại thành phố này. 
				Chỉ có đều éo le là mấy nhân vật chủ chốt đề nghị thủ tiêu hai 
				chị em Như Uyển như Quốc anh và Ngọc Du thì lại thóat mẻ lưới 
				đợt này của Pháp.
 Vụ ám sát chị em Như Uyển cùng với bản tin Mai Ngọc Thiệu và mấy 
				đồng chí ở Tỉnh Bộ Hải Phòng bị bắt làm Thành Bộ Hà Nội hết sức 
				lo ngại. Riêng Lê Tiến thì chẳng những lo mà còn buồn nữa bởi 
				Tiến vốn là chỗ quen biết với Trịnh Đình Chiêm, từng tiếp xúc 
				với hai cô em gái của Chiêm là Như và Uyển khá nhiều lần. Trên 
				đường công tác mấy năm nay, Lê Tiên đôi khi cũng gặp hai chị em 
				nhà họ Trịnh và vẫn cảm phục họ hết lòng với đoàn thể. Nay nghe 
				tin họ bị giết, lòng Tiến vô cùng hoang mang và thương tiếc. Thủ phạm đầu tiên mà Lê Tiến nghĩ đến là mật thám. Nhưng suy đi 
				nghĩ lại thì Lê Tiến gạt bỏ giả thuyết ấy, bởi việc gì Pháp 
				phải giết ? Pháp chỉ muốn bắt về tra tấn để khai thác hầu tìm ra 
				nguyên hệ thống chống đối chứ bắn bỏ hai cô gái ấy thì có lợi gì 
				đâu ! Cả tháng trời Lê Tiến cứ giằng co nghĩ ngợi mà chẳng đưa 
				ra được kết luận nào. Mãi đến tuần vừa rồi, Tiến có việc phải 
				đi Hải Phòng để đưa một đảng viên mới thoát ly, xuống làm công 
				tác vô sản hóa trong giới phu khuân vác ở bến cảng. Nhân tiện 
				Tiến ghé thăm người em con ông chú ruột, có chân trong đảng ủy 
				Tỉnh bộ Hải Phòng và cũng là người có mặt trong phiên họp quyết 
				định thủ tiêu hai cô gái họ Trịnh. Thấy Tiến có vẻ bứt rứt và 
				thương tiếc hai chị em bị nạn, thằng em họ mới kể đầu đuôi cho 
				Tiến nghe về nghị quyết của đảng bộ Hải Phòng. Tiến lặng người 
				như bước hụt chân xuống hố sâu. Làm cách mạng thì phải triệt để 
				: Đã đành là thế, nhưng triệt để với kẻ thù chứ sao lại hãm hại 
				đồng chí khi chưa nắm được dấu hiệu gì làm bằng chứng hai cô ấy 
				sẽ phản bội Đảng !
 Lê Tiến trở lại Hà Nội với nỗi bâng khuâng có nhen nhúm chút bất 
				mãn. Tuy vậy, anh chẳng dám tiết lộ với ai, 
				kể cả những đồng chí thân thiết nhất trong ban chấp hành Thàn 
				Bộ.
 Đầu tháng 7, hội đồng đề hình xét xử Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hơn 200 đảng viên bị bắt, nhưng ra tòa lãnh án chỉ có 78 nhân 
				vật quan trọng. Sở dĩ như vậy là vì sau khi René Bazin bị giết, dư luận dân chúng Pháp tại mẫu quốc trở nên sôi động bất ngờ. Báo chí tiến bộ Pháp cố tình thổi phồng các lực lượng chống đối, khiến chính phủ đâm ra lo ngại và nặng lời khiển trách guồng 
				máy cai trị tại Đông Dương. Toàn quyền Pasquier cùng trùm mật 
				thám Louis Marty phải tự hạ thấp số người chống đối để cứng tỏ 
				Quốc Dân Đảng không phải là mối đe dọa đáng lo ngại cho chính 
				quyền Pháp. Nhờ vậy mà có đến gần 150 người được trả tự 
				do.
 Những lời khai khảng khái tại tòa cùng với thái độ dõng dạc của 
				lớp tù nhân Quốc Dân Đảng trước mặt bọn thực dân, đã khiến cho 
				bao nhiêu người chứng kiến phải rơi lệ. Thậm chí có những chiến 
				sĩ dám chửi thẳng vào mặt bạo quyền xâm lăng, chẳng những gây 
				kin ngạc và tạo sự cảm phục sâu xa đối với một số nhà báo tiến 
				bộ của Pháp, mà ngay cả phía đảng viên cộng sản như 
				Lê Tiến cũng hết sức nghiêng mình.
 Chính vì sự phản ứng bất lợi của quần chúng và nhất là giới 
				truyên thông, 78 can phạm chỉ được xét xử cấp tốc trong vòng 
				chưa đầy hai ngày. Nguyễn Thái Học và Nguyễn 
				Khắc Nhu cũng bị tuyên án khuyết tịch trong dịp này.
 Mai Ngọc Thiệu và mấy đồng chí cộng sản ở Hải Phòng bị bắt sau 
				vụ ám sát Như, Uyển, cũng bị đem ra xử chung với Quốc Dân Đảng. Nhưng may là Thiệu chỉ bị lãnh án 5 năm cấm cố, 
				đưa lên giam ở vùng thượng du Bắc Việt.
 Trong nỗi thấp thỏm từng ngày, hôm nay Lê Tiến ghé thăm Hậu 
				giữa lúc đầu óc đang muốn quên câu chuyện bi thảm của hai nữ 
				đồng chí phủ Lạng Thương thì không ngờ Hậu vô tình khơi dậy. Tiến ngồi đờ người một lúc rồi mới dè dặt đáp :
 - Nói chung thì bên Quốc Dân Đảng có những biểu hiện sốt ruột, muốn đốt giai đoạn, thành ra không tránh được sơ hở !
 Hậu chớp mắt nói :
 - Nghe bảo vụ xử án vừa rồi có cả người của ta ?
 Lê Tiến gật đầu :
 - Vâng. Có vài người của ta bị xử chung với Quốc Dân Đảng ! 
				Thằng Tây thì nó đâu có phân biệt nhóm nào, phe nào ! Hễ cứ 
				chống nó là nó bắt thôi !
 Lê Tiến không muốn đi sâu vào chi tiết bởi có những điều mà Hậu 
				không được quyền biết. Gã uống cạn cốc nước rồi đứng dậy cáo từ, làm bộ nói phải đi công tác. Trước khi tiển Lê Tiến ra cửa, Hậu hạ giọng hỏi thêm :
 - Anh có thể xin Thành Bộ cho tôi một khẩu súng lục, được không 
				anh Tiến ?
 Tiến nhìn Hậu hơi ngạc nhiên, hỏi lại :
 - Chị xin súng làm gì ?
 Hậu mạnh dạn nói ngay :
 - Tôi nghĩ, gặp mật thám, thà tôi bắn nó, nó bắn tôi. Tôi 
				giết được một thằng Tây rồi tôi có chết cũng cam. Còn hơn để nó 
				bắt vào tù tra tấn !
 Lê Tiến lắc đầu :
 - Chị giết một thằng Tây, rồi thằng Tây giết lại chị. Nếu đơn 
				giản như thế thì tốt quá ! Nhưng thực tế có như thế đâu ! Chỉ có 
				mỗi thằng Bazin bị bắn chết mà Quốc Dân Đảng bị bắt bao nhiêu 
				người ? Xưa kia Quang Phục hội của cụ Phan Bội Châu cũng chủ 
				trương bạo động lẻ tẻ. Nhưng cứ mỗi thằng Tây chết thì hàng 
				trăm người Việt mình điêu đứng ! Toàn quyền Merlin bị ám sát hụt 
				cũng thế, bao nhiêu người yêu nước của ta chết gục trong tù. Thành ra việc dùng súng không có lợi tí nào cả !
 Hậu thở dài nhìn ra sân. Lê Tiến chào Hậu lần nữa. Hậu mới 
				đứng dậy bước ra trước theo thói quen. 
				Cô quan sát kỷ lưỡng hai bên con hẻm rồi mới gật đầu bảo Lê Tiến 
				vén mành chui ra.
 Ra đến ngã ba, Lê Tiến đứng trước hiệu Lò Rèn, cẩn thận đảo 
				mắt nhìn quanh tứ phía rồi mới thả bộ theo đường lớn. Nắng trưa 
				mỗi lúc một gắt hơn làm mồ hôi Tiến thấm nhanh qua lớp áo mỏng. Trông qua bên kia, ở cái quán lá xác xơ quanh năm hứng bụi 
				đường. Lê Tiến thấy Mão đang ngồi bóc bánh gai bên cái điếu cày 
				và bát nước chè tươi. Tiến vội cúi đầu rảo 
				bước để tránh cho Mão khỏi ngượng khi nhìn thấy Tiến.
 Ba hôm sau, Lê Tiến cho người đến gọi Thông. Anh ra đi lúc 
				trời tờ mờ sáng khi cả nhà còn đang yên giấc mà Thông thì chẳng 
				muốn đánh thức ai dậy để phải bịn rịn chia tay. Cả tiếng đồng 
				hồ sau, Hậu thức dậy khi ngoài đường lanh lảnh vang lên những 
				tiếng rao “bánh Tây”, tức là bánh mì baguette, như thường lệ. Cô xuống bến nhóm lửa hâm nồi cháo để Kiệt ăn đi làm. Lúc bưng 
				lên nhà thì mới biết Thông đã giả từ. Cô thở dài buồn bả vì 
				biết từ nay sẽ mất đi một người thân tính tình thật điềm đạm. Cô thóang tự hỏi tại sao Thành Bộ không đẩy Mão đi giùm cô !
 Hậu đặt nồi cháo lên trên bàn, định ra sân sau rửa mặt và vấn 
				tóc. Nhưng quay lại thì thấy Kiệt ngồi ở mép giường thòng một 
				chân xuống đất, tay cầm lọ dầu đưa lên mũi hít hít mấy cái. Hậu ân cần hỏi :
 - Hôm nay anh có định đi làm không ? Hình như anh bị cảm đấy ? 
				Mệt thì nghỉ ở nhà một hôm !
 Kiệt cười buồn :
 - Có việc gì đâu mà làm ! Nhưng tôi cứ ra ngồi ở ngã tư phố, ai 
				thuê thì làm ! Tuần vừa rồi có người gọi trộn hồ xây nhà, làm 
				được ba hôm, cũng đở khổ. Thôi thì cứ tạm vậy. Chắc tôi cũng 
				chả ở đây lâu đâu. Anh Lê Tiến bảo thế !
 Hậu nhắc lại :
 - Nhưng mà anh ốm phải không ?
 Kiệt uể oải đáp :
 - Tại anh Thông đi, thấy hơi buồn buồn ! Buồn thôi chớ có ốm 
				đau gì đâu !
 Giọng Hậu tha thíêt :
 - Nhà còn ít đỗ đen. Hay là hôm nay chả có việc gì thì anh ở 
				nhà, tôi nấu chè đỗ đen đãi anh !
 Ngừng một chút Hậu tiếp :
 - À ! Cái áo của anh, tôi vá rồi đấy. Tiện tay tôi giặt luôn. Phơi sau nhà, chả biết nó khô chưa !
 Kiệt nói :
 - Cảm ơn chị ! Nhưng chị dầm sương cả đêm thì dù có khô nó cũng 
				thành ướt ! Thôi, cứ treo ngoài ấy đến trưa, chắc là phải khô 
				! Tôi mặc tạm cái này đi làm cũng được !
 Đứng bên trong tấm cót, Mão thấy buồn vời vợi. Thông đi rồi, chỉ còn Kiệt và Mão, hai thằng đàn ông bên cạnh Hậu, mà rõ 
				ràng Hậu lại dành quá nhiều chăm sóc cho Kiệt. Nhịn không được, Mão bước ra và sẵng giọng phê bình Hậu :
 - Anh Kiệt muốn đi làm thì để cho anh ấy đi làm, sao chị lại 
				giữ anh ấy ở nhà ! Ăn chè thì ngày nào ăn chả được ! Đi làm là 
				một chuyện, nhưng chủ yếu là công tác vô sản hóa mà Thành Bộ 
				giao cho anh ấy. Muốn vô sản hóa thì phải tạo điều kiện tiếp 
				xúc gần gũi với anh chị em công nhân và nhân dân lao động để 
				tuyên truyền giáo dục họ ! Đây là nhiệm vụ của cách mạng chứ đâu 
				phải chuyện đùa đâu mà chị cứ níu chân anh ấy ở nhà
 Hậu tròn mắt ngơ ngác nhìn Mão. Không nhẽ Mão quên rằng Kiệt 
				đang là bí thư chi bộ, đâu cần Mão giảng bài chính trị ? Hay là 
				Mão muốn biểu hiện kiến thức cách mạng của mình vì biết Kiệt ít 
				có cơ hội đọc sách bằng Mão ? Kiệt thì không ngạc nhiên. Anh 
				hiểu tâm sự của Mão, anh ôn tồn bảo :
 - Anh Mão nói đúng đấy chị Quyết ạ. Ăn chè thì lúc nào ăn chả 
				được ! Chị cứ nấu sẳn đi, tối về tôi xin chị một bát !
 Mão ngồi xuống ghế vênh mặt nhìn Hậu. Nhưng Kiệt nói luôn bằng 
				giọng chỉ thị :
 - Hôm nay anh Mão chịu khó chạy đi mua cái tủ đứng cũ, mang về 
				đóng thêm một lớp đáy. Ngăn ngoài mình để quần áo, ngăn trong 
				giấu truyền đơn. Cái hố đào ở chân giường bé quá, không đủ 
				chứa đâu. Mà cái hố ngoài sân bất đắc dĩ mình mới phải dùng đến. Nay mai phải in nhiều truyền đơn lắm, vì phải cung cấp cho cả 
				thành phố !
 Nói xong, Kiệt moi túi lấy ra một ít tiền trao cho Mão rồi đứng 
				dậy :
 - Anh cầm tạm. Tôi chỉ có thế này thôi. Trộn hồ ba hôm cho 
				người ta. Thiếu thì chị Quyết đưa thêm ! Thôi, tôi đi làm đây. Nắng lên to bây giờ !
 Kiệt cầm cái nón vải đứng dậy, lòng thấy nao nao buồn. Anh biết 
				Mão đang say đắm Hậu. Chuyện ấy cũng tự nhiên thôi, bởi Hậu là 
				người dễ mến. Cái khó xử của anh là chính anh cũng đang yêu Hậu. Chi bộ chỉ có ba người mà anh là bí thư. Muốn phát triển chi 
				bộ, muốn chi bộ làm tốt mọi công tác thì anh phải giải quyết 
				mọi chuyện riêng tư của chi bộ. Giả như Hậu đáp lại tình yêu 
				của Mão, thì anh sẽ sẳn sàng nhường ngay, vun xới cho hai 
				người thành vợ chồng. Ngày kết nạp, anh đã từng giơ tay tuyên 
				thệ là lúc nào cũng chỉ biết có đảng là trên hết. Cá nhân anh 
				phải vì đảng mà hy sinh mọi quyền lợi riêng tư. Nhưng rõ ràng 
				là Hậu không có cảm tình với Mão vì Hậu đã nghiêng hẳn về phía 
				Kiệt. Đó là điều khó xử nhất mà anh phải đương đầu từ mấy 
				hôm nay với tư cách bí thư chi bộ.
 Kiệt đang phân vân suy nghĩ thì Hậu nói :
 - Hôm nay anh đi làm ở đâu ?
 Kiệt cầm cái nón vải, nhắc lại :
 - Thì ra ngã tư phố ngồi chờ người ta gọi. Đến trưa mà không có 
				việc gì thì tôi ra ga xe hỏa. Tuần trước tôi có làm quen được 
				mấy người phu hỏa xa !
 Kiệt chụp cái mũ lên đầu và hỏi Mão :
 - Đi luôn không, anh Mão ? Đi sớm cho đỡ nắng ! Nhớ tìm cái tủ 
				sâu sâu một tí, mình mới đóng hai lớp đáy được ! Nhưng mà tìm 
				cái nào rẽ nhất, cũ nhất, hẵng mua !
 Mão gật đầu đáp :
 - Vâng, tôi nhớ rồi. Anh cứ đi trước đi. Để tôi dọn dẹp trong 
				kia đã. Rồi tôi rủ chị Quyết đi luôn thể !
 Hậu buột miệng nói :
 - Tôi ở nhà chứ đi làm gì ?
 Mão nhìn Hậu bực bội, nhưng Kiệt lên tiếng ngay :
 - Chị Quyết nên ở nhà. Nói đúng ra thì lúc nào mình cũng cần có 
				người ở nhà. Nhỡ trên Thành có chỉ thị gì đột xuất !
 Hậu nhìn Kiệt thầm cám ơn và nói :
 - Đúng rồi ! Anh Lê Tiến cứ dặn mãi là đi đâu cũng phải để một 
				người trông nhà !
 Mão hầm hầm đứng dậy ra sau bếp. Gã biết đây là cái cớ mà Hậu 
				và Kiệt nêu ra để Hậu khỏi phải ra phố chung với Mão. Mão ra 
				sân, múc nước xúc miệng rửa mặt. 
				Lúc gã lên nhà thì Kiệt đã ra khỏi ngõ hẻm.
 Gần trưa, Hậu đi chợ về, ngạc nhiên thấy Kiệt đã có mặt ở nhà. Cô vui hẳn lên vì sự hiện diện của Kiệt vào giờ này là một 
				điều hiếm hoi, hình như chưa xảy ra bao giờ. Sáng đi tối về. Đó là thời khắc biểu thường nhật của Kiệt từ ngày Hậu đến đây. Hôm nay Kiệt phá lệ về nhà bất ngờ làm Hậu thấy không khí trong 
				nhà đổi khác, nhất là Mão đi mua tủ chưa về, ở nhà chỉ có hai 
				người. Hậu buông cái làn mây chỉ có bó rau cải xuống chân, tròn mắt hỏi Kiệt :
 - Ô hay ! Anh không đi làm ư ?
 Kiệt ngồi trên giường tựa lưng vào vách, gượng cười đáp :
 - Tôi ra đến ngã tư Phố, ngồi chờ một chốc tự dưng thấy xây xẩm 
				mặt mũi. Đành về vậy ! Sáng mai khỏe thì lại đi !
 Hậu ân cần nói :
 - Tôi đã bảo mà ! Sáng nay nom mặt aanh, tôi biết ngay là anh 
				bị ốm ! Thôi ! Cứ nghỉ đi. Ra ngoài ấy ngồi hóng gió cũng thế 
				thôi !
 Rồi cô nhìn Kiệt bảo :
 - Để tôi chạy sang bà Vỵ, xin lá trầu không về đánh gió cho anh 
				!
 Kiệt cảm động cúi xuống không nói gì. Bệnh của anh không nặng 
				đến độ cần phải đánh gió. Anh chỉ bị cảm xoàng vì lẽ mấy hôm 
				trước dầm mưa cả nữa ngày. Thái độ chăm sóc của Hậu khiến anh 
				thấy lòng mình chan hòa hạnh phúc. Hai mươi lăm tuổi, anh chưa 
				một lần biết đến tình yêu. Thuở còn mang gạch cho ông bá hộ 
				trong làng, các cô gái quê vây quanh khá đông, tháng ngày lao 
				động bên nhau, nhiều cô bị lôi cuốn mạnh mê bởi những câu 
				chuyện đầy chất hài hước của Kiệt rồi từ đó đem lòng thầm lặng 
				mến yêu anh. Nhưng Kiệt lại nhìn lên quá cao, mê con gái ông 
				chủ, như thằng bán than mơ cưới công chúa. Nhưng ai cấm Kiệt 
				thầm yêu trộm nhớ ! Ngày ngày vào lò gạch, mồ hôi lúc nào cũng 
				loang loáng chảy từ trán xuống vai, bụi than lúc nào cũng phủ 
				từ đầu đến chân, nhưng Kiệt không biết mệt, không ngừng tay. Niềm vui sâu kín của anh là chờ khi mặt trời đứng bóng, được 
				nhìn con gái ông phú hộ cùng người nhà gánh cơm ra lò gạch cho 
				mấy chục người thợ ăn trưa. Vừa ăn, Kiệt vừa len lén nhìn trộm 
				cô chủ trên dốc cao vời vợi. Cô về rồi thì Kiệt lại chui vào lò 
				gạch hùn hục làm cho đến tối. Tính ra, 
				mỗi ngày Kiệt được một niềm vui kéo dài nữa tiếng.
 Kiệt làm ở đó được bốn năm, lên chức cai, có quyền chỉ tay năm 
				ngón và ngồi hút thuốc lào nhiều hơn. Nhưng bản tánh Kiệt tham 
				việc, ít khi chịu ngừng tay. Một hôm có anh thợ mới đến khúm 
				núm xin việc. Kiệt chỉ đường rồi bảo anh ta vào thẳng nhà ông 
				bá hộ mà ngỏ lời chứ Kiệt không có quyền. Hôm sau, quả nhiên 
				con gái ông bá hộ dẫn anh thợ mới ra lò gạch và bảo Kiệt :
 - Anh Kiệt ! Bố tôi bảo giao ông này cho anh ! Tùy công việc mà 
				cắt đặt ! Miễn đừng để ông ấy ngồi chơi !
 Kiệt hân hoan nhận lệnh, vui vẻ đáp :
 - Cô về thưa lại với hai cụ là xin hai cụ cứ yên trí. Tôi không 
				để ai ngồi chơi đâu !
 Người công nhân mới ấy tên là Phẩm, tuổi tác cũng khoảng trang 
				lứa với Kiệt nhưng thân thể gầy hơn một chút. Phẩm rất chăm chỉ, cư xử hòa nhã với mọi người và thậm chí lâu lâu còn nhường cả 
				phần ăn cho người khác. Ai nói gì Phẩm cũng chỉ cười. Thấy ai 
				yếu sức, Phẩm tự nguyện làm thêm phần của người ấy. Tác phong 
				lao động ấy làm Kiệt có cảm tình ngay và nhanh chóng dành sự 
				chiếu cố đặc biệt cho Phẩm. Hai tháng sau, khi hai ngừơi đã 
				khá thân nhau, Phẩm mới bắt đầu tuyên truyền cách mạng trong 
				hàng ngũ công nhân lò gạch, đặc biệt là anh cai Kiệt. Phẩm mến 
				Kiệt ở chỗ tuy là chân cai, nhưng Kiệt không hách dịch chửi 
				mắng nhân viên dưới quyền. Đây chính là một đối tượng lý tưởng 
				mà Phẩm cần thuyết phục và Phẩm đã thành công. Giặc Pháp và nhà 
				giàu là kẻ thù của Phẩm. Ý niệm ấy dần dần lan qua tâm trí Kiệt. Sau cùng, khi Kiệt đã thấm nhuần, Phẩm mới cho Kiệt biết 
				mình là đảng viên VNTNCMĐCH. Nữa năm sau, Kiệt được kết nạp 
				vào một ngày cuối đông. Tổng bộ yêu cầu Kiệt thoát ly xuống Hà 
				Nội, giã từ cái lò gạch và cô con gái xinh đẹp của chủ lò !
 Nhiệt tình cách mạng thì có thừa mà tình cảm riêng tư thì lúc 
				nào cũng thiếu vắng. Cho nên mấy tháng nay gần gũi Hậu, Kiệt 
				bổng thấy lòng mình rung động nhẹ nhàng. Đoàn thể chắc hẳn 
				không ngăn cản vì cả hai cùng độc thân và cùng lý tưởng. Hậu 
				tất nhiên không đẹp bằng con gái ông chủ lò gạch, nhưng Hậu 
				xuất thân nhà nghèo, quanh năm chân lấm tay bùn, tức là đi sát 
				với lập trường của đảng. Kiệt mừng rỡ vì giữa ba thằng đàn ông 
				chung một mái nhà, Kiệt lọt vào trái tim Hậu một cách dễ dàng, nghĩa là ít nhất Kiệt cũng đã thắng được đồng chí Mão !
 Hậu từ bên nhà bà Vỵ tất tả chạy về với hai lá trầu không đã hơ 
				lửa sẳn. Kiệt ngồi ở góc giường, tựa lưng vào vách. Bàn tay 
				phải Hậu cầm lá trầu chà mạnh vào trán và hai bên thái dương 
				Kiệt. Bàn tay trái thì bấu lấy vai Kiệt như muốn giữ ngừơi anh 
				cho vững chắc khi đánh gió. Kiệt xúc động nhắm mắt lại. Chưa 
				bao giờ anh ngồi gần một người đàn bà đến thế. Người anh nóng 
				lên hừng hực, không biết vì chất nóng của lá trầu hay vì hơi ấm 
				của Hậu truyền qua. Hậu cũng thế. Hai mươi mốt tuổi, chưa bao 
				giờ bàn tay cô đụng vào ngừơi đàn ông. Giả như Kiệt không bị 
				cảm, thì chẳng biết đến bao giờ cô mới có cơ hội để bày tỏ sự 
				săn sóc ân cần như thế này. Hậu dịu dàng bảo :
 - Chả mấy khi có dịp trao đổi riêng với anh. Không nói anh cũng 
				biết, anh Mão dạo này đối với tôi không còn giống như hồi trước 
				…….
 Kiệt vẫn nhắm mắt, ngắt lời Hậu :
 - Tôi biết ! Nói trắng ra là anh ấy phải lòng chị ! Nhưng ý chị 
				thế nào ?
 Hậu chép miệng :
 - Anh lại còn phải hỏi tôi câu ấy ! Tôi có để ý gì đến anh ấy 
				đâu. Chẳng qua là vì nhiệm vụ cách mạng, anh Lê Tiến bảo tôi 
				nhận anh ấy là chồng để che mắt thế gian thì tôi phải chấp hành 
				thôi ! Nhưng anh Mão thì lại khác. Anh ấy muốn làm chồng tôi 
				thật ! Tôi không bằng lòng thái độ của anh Mão tí nào ! Anh bây 
				giờ là bí thư chi bộ, nhờ anh nói lại với anh ấy hộ tôi vì tôi 
				nói không tiện !
 Kiệt ngẫm nghĩ một chút rồi đáp :
 - Tôi nói lại càng không tiện ! Anh Mão sẽ cho rằng tôi ngăn cản 
				anh ấy chỉ vì tôi … có tình ý với chị !
 Sau lời thố lộ minh bạch đó, cả hai cùng yên lặng vì cùng nhìn 
				thấu tâm tư của nhau. Hậu nao nao xúc động, bàn tay đang đặt 
				trên vai Kiệt, bấu xuống mạnh hơn. Kiệt cũng thế, trút được 
				bầu tâm sự và biết Hậu cũng đang nặng tình với mình, anh thấy 
				lòng lâng lâng bay bổng một cách sảng khoái. Tương lai chẳng 
				biết ra sao, nhưng hiện tại được sống bên Hậu là một hạnh phúc 
				lớn. Anh đưa bàn tay nắm lấy bàn tay Hậu. Hậu để mặc cho trái 
				tim rung động rộn rã. Cô thấy Kiệt nói đúng. Cách duy nhất có 
				thể giải quyết được tìn trạng này là đề nghị Thành Bộ, hoặc bố 
				trí Mão đi công tác nơi khác, hoặc chính Hậu và Kiệt phải chia 
				tay Mão. Kiệt như đọc được ý nghĩ của Hậu, nhẹ nhàng khuyên :
 - Chịu khó nhịn một thời gian nữa. Chắc chả lâu đâu ! Nay mai 
				mỗi người sẽ mỗi nơi !
 Từ bên hàng xóm, bà Vỵ vừa moi trong cái giỏ cói đựng kim chỉ, một gói thuốc bột mua ở nhà thuốc Đông Sơn, trị bệnh cảm sốt. Bà hân hoan cầm sang cho Hậu. Cửa nhà Hậu không bao giờ đóng 
				kín vì muốn chứng tỏ bên trong không có làm gì mờ ám. Bức mành 
				làm bằng nan tre luôn luôn buông trùng xuống gần sát đất. Bà Vỵ 
				vừa vén vừa gọi :
 - Cô Mão ơi ! Có thuốc cảm cho chú ấy đây này ….
 Bà bổng đứng khựng lại, buông bức mành xuống và vội vã quay ra. Hậu định chạy theo nhưng lại thôi. Cô hoàn toàn ngay tình, không nhớ ra là mình có chồng là Mão ! Việc cô chữa bệnh cho một 
				đồng chí là chuyện tự nhiên, chả có gì 
				sai trái.
 Bà Vỵ về nhà vẩn vơ suy nghĩ. Cảnh tượng vừa diễn ra trước mắt 
				bà làm bà thấy có cái gì không ổn. Rõ ràng Hậu đã cho bà biết 
				Hậu là vợ Mão, và chính bà cũng tưởng Mão bị cảm, nên Hậu mới 
				sang xin trầu khhông về đánh gió ! Còn bà vì có cảm tình với Mão 
				mới cầm thuốc bột chạy sang ! Sao Hậu lại dám ngang nhiên đánh 
				gió cho Kiệt ? Chỉ trừ trường hợp Kiệt là người bà con của Hậu – 
				chẳng hạn như anh ruột – thì Hậu mới được phép làm như thế. Nhưng Hậu đã nhiều lần xác định với bà là Thông và Kiệt chỉ là 
				hai người ở trọ ăn cơm tháng, chứ có liên hệ hhọ hàng gì đâu ! 
				Thời này, lễ giáo nghiêm nhặt lắm, đàn bà ngoại tình là chuyện 
				quá hiếm hoi. Ở nhiều vùng thôn quê thiên hạ vẫn còn giữ nguyên 
				cái hình phạt đóng bè chuối thả trôi sông những người đàn bà có 
				chồng rồi mà còn sa ngã. Xưa kia, một người phụ nữ dù có ốm 
				nặng đến đâu, ông thầy thuốc cũng phải ngồi bên ngoài bức màn 
				mà hỏi bệnh chứ không được cầm tay bắt mạch, bởi người đàn bà 
				cho người khác cầm tay là coi như thất tiết rồi ! Sự thân mật 
				quá đáng của Hậu và “người ăn cơm tháng” làm bà thắc mắc và bỗng 
				thấy thương cho Mão. Bà vào nhà, bỏ gói thuốc bột vào lại chỗ 
				cũ rồi thơ thẩn bước ra ngoài. Đứa con út đang ngủ say trên 
				võng, bà thả bộ ra đầu ngõ. Bà đứng trầm ngâm một lúc, toan 
				quay vào thì thấy Mão từ bên kia đường băng sang, mồ hôi ướt 
				đầm đìa trên mặt và vai áo. Trong ba người đàn ông ở kế nhà bà 
				thì bà thân với Mão nhất, lý do giản dị vì Mão ở nhà thường 
				xuyên, ngày nào vào ra cũng trông thấy nhau. Còn Thông và Kiệt 
				thì chỉ chiều tối mới về, bà ít khi có dịp gặp mặt để nói 
				chuyện. Sáng nay, Mão đi hỏi mua tủ theo chỉ thị của Kịêt, nhưng chưa tìm được cái nào vừa ý, nghĩa là vừa rẻ vừa có chiều 
				sâu để đóng hai lớp đáy. Mão định về 
				bàn với Kiệt là mua gỗ tự đóng lấy có khi tiết kịêm được chút ít 
				mà đúng ý mình hơn.
 Thấy Mão xăm xăm bước vào con hẽm, bà Vỵ ngăn lại hồi hộp hỏi :
 - Chú Mão đi đâu về vậy ?
 Mão đứng lại, đưa tay lên quệt mồ hôi trên trán. Với tất cả 
				hàng xóm, Mão luôn luôn tỏ ra thân mật theo đúng lời dặn của Lê 
				Tiến, mặc dù có những người Mão không ưa. Mão cười đáp lại :
 - Tôi ra chợ, định mua thêm ít giấy bản để in tiền âm phủ. Nhưng hôm nay giấy hiếm, giá cao quá, đành để hôm khác vậy ! 
				Bà đi đâu đấy ?
 - Có đi đâu đâu ! Cháu nó ngủ, tôi ra đứng hóng gió mát một tí. Trong nhà nóng quá !
 - Vâng ! Trời bức thế này thì không khéo mưa mất ! Cả tuần nay 
				không mưa !
 Mão toan bước đi thì bà chặn lại :
 - Chú Mão ơi ! Tôi hỏi cái này không phải, chú bỏ qua cho ! 
				Nhưng mà chú Kiệt là gì của chú ?
 Mão ngay tình lắc đầu :
 - Không ! Có gì đâu. Anh ấy ở trọ ăn cơm tháng !
 Mão không trả lời khác được vì đã nhiều lần nói với mọi người 
				nưh thế. Bà Vỵ lại tiếp :
 - Thế mà tôi cứ tưởng chú Kiệt là anh vợ chú !
 Mão lắc đầu cười phân trần :
 - Không ! Có họ hàng gì đâu ! Dạo trước, ba đứa chúng tôi làm 
				chung một chỗ. Bà còn nhớ anh Thông chứ ? Vâng, tôi với anh 
				Kiệt và Thông cùng làm một chỗ rồi quen thân nhau. Thành thử từ 
				lúc vợ tôi từ dưới quê lên thì nấu cơm tháng cho Kiệt và Thông 
				ăn luôn. Bây giờ Thông nó đi làm chỗ khác rồi thì chỉ còn mình 
				Kiệt ở lại với vợ chồng tôi ! Chắc chả lâu đâu. Nó cũng đang 
				nhờ người xin việc dưới Hải Phòng !
 Mão đắc ý với lời giải thích của mình vì gã biết Kiệt cũng sắp 
				ra đi như Lê Tiến đã nói. Nhưng bà Vỵ nhìn gã tội nghiệp và 
				hững hờ nói :
 - Thế à ! Thế mà tôi cứ tưởng …..
 Thấy thái độ khác lạ của bà Mão nhíu mày lo lắng. Mão tự hỏi : 
				Hay là bà đã bị mật thám mua chuộc để dò la tin tức về Mão và 
				các đồng chí ? Mão nhìn bà, lên tiếng :
 - Bà cứ tưởng làm sao ? Hôm nay sao bà hỏi kỹ thế ? Có việc gì 
				thế hở bà ?
 Bà Vỵ vội xua tay đáp :
 - Không ! Có việc gì đâu ! Tôi cứ tưởng chú Kiệt là họ hàng bên 
				vợ của chú …..Là vì lúc nãy cô ấy chạy sang bên tôi xin lá trầu 
				không về đánh gió. Tôi lại cứ nghĩ là đánh gió cho chú. Tôi 
				sang hỏi thăm xem chú ốm đau như thế nào thì hóa ra không phải 
				là chú. Cô ấy đánh gió cho ông Kiệt. Hai ngừơi ngồi trên 
				giường với nhau !
 Mão trợn mắt ngắt lời :
 - Bà bảo sao ? Kiệt nó đang ở nhà ư ? Nó đi làm từ sáng rồi cơ 
				mà !
 Bà Vỵ gật đầu quả quyết :
 - Đang ở trong nhà với vợ chú chứ có đi làm đâu ! Tôi vừa ở bên 
				nhà chú ra mà ! Chú về nhanh đi mà xem !
 Mão thấy buốt nhói trong tim. Hóa ra thằng khốn nạn này đã giục 
				Mão đi mua tủ chỉ cốt để quay về gặp riêng Hậu ! Cơn giận bừng 
				bừng bốc lên, Mão đi nhanh vào ngõ hẽm. Bà Vỵ lẽo đẽo chạy 
				theo, đứng thập thò trước cửa nhà mình xem phản ứng của Mão như 
				thế nào. Bà không hề ghét Kiệt, cũng chả oán thù gì Hậu. Nhưng cử chỉ săn sóc của Hậu, nhất là sự gần gũi chung đụng của 
				Hậu đối với một người đàn ông không phải là chồng, bà thấy vượt 
				ra ngoài phạm vi đạo đức, làm bà tội 
				nghiệp cho Mão nên bà phải nói ra cho Mão biết.
 Trong nhà, Hậu vẫn đang đánh gió cho Kiệt. Hai cánh lá trầu 
				không đã nhầu nát, những mảnh vụn li ti rơi đầy trên vai áo 
				Kịêt. Mão vén mành xông vào, thấy quả đúng như lời bà Vỵ nói. Gã xông tới, nắm cánh tay Hậu lôi mạnh. Hậu giật mình suýt té 
				xuống đất, quay lại ngơ ngác nhìn Mão. Kiệt cũng mở mắt, nhưng chưa kịp nói gì thì Mão đẩy mạnh lưng Hậu, làm Hậu ngã 
				chúi vào tường. Mão chỉ mặt Hậu quát lên :
 - Con đĩ ! Tao mới ra khỏi nhà một tí, mày đã dám giở trò vụng 
				trộm ! Vợ đâu có thứ vợ lăng lòan như mày ! Ông thì dần cho nhừ 
				xương bây giờ !
 Trước thái độ bất ngờ của Mão, cả Kiệt và Hậu đều ú ớ không 
				biết phản ứng như thế nào, chỉ đưa mắt nhìn nhau. Vài giây sau, Hậu mới nghiến răng uất hận mắng lại :
 - Cái anh này hay nhỉ ! Láo vừa chứ !
 Mão nắm cánh tay Hậu lôi ra cửa, xô mạnh vào tường và tiếp tục 
				mắng lớn cố ý cho mọi người lối xóm cùng nghe :
 - Mày còn nỏ mồm phải không ? Bận này ông tha ! Bận sau mà ông 
				còn bắt gặp thì xéo ngay !
 Bà Vỵ từ nãy đến giờ vẫn đứng ở cửa, hồi hộp theo dõi. Bà hài 
				lòng vì ít ra Mão cũng biết nghe lời mình, xỉ vả Hậu. Bà tiến 
				lại ôn tồn can :
 - Thôi ! Cô ấy trót dại. Từ nay chả dám thế nữa đâu !
 Hậu trừng mắt nạt lại bà Vỵ :
 - Bà bảo chả dám là chả dám cái gì ? Tôi làm gì mà bảo tôi trót 
				dại ! Chỉ nói láo nói lếu !
 Hàng xóm từ từ bu lại, nhà cửa thì sát vách nhau, nên bất cứ 
				chuyện gì xẩy ra ở một nhà, chỉ trong khoảnh khắc cả xóm đều 
				biết hết. Bà Vỵ lờ Hậu đi, quay sang đề nghị với Mão :
 - Cẩn tắc vô áy náy ! Từ nay đừng có nấu cơm tháng cho người ta 
				ăn nữa ! Tháng kiếm được vài hào bạc mà có ngày mất vợ ! Đuổi 
				quách đi cho xong ! Rõ thật nuôi ong tay áo !
 Kiệt từ trong nhà bước ra, cố nhịn, bảo Mão :
 - Anh Mão ! Có chuyện gì không nên không phải thì đóng cửa bảo 
				nhau. Sao lại kéo ra đường làm ầm ĩ đến thế này ?
 Mão vênh mặt đáp lại :
 - Tao không nói chuyện với mày ! Tao dạy vợ tao, không khiến 
				mày xen vào !
 Vài người đàn bà chưa hiểu chuyện, xúm lại hỏi thăm bà Vỵ. Thấy người ta bu đông, bà Vỵ lớn tiếng giải thích :
 - Cô chú ấy cho người ta ở trọ ăn cơm tháng. Không ngờ lửa gần 
				rơm, cô ấy phải lòng cái người ở trọ ….
 Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Hậu rồi lại quay sang Kiệt. Kiệt 
				ngượng quá, lại thấy mình thừa thãi nên rút lui vào lại bên 
				trong. Hậu cũng tái mặt vì xấu hổ. Cô xông tới nắm lấy tay bà 
				Vỵ, giật mạnh và quát lên :
 - Bà chỉ ăn nói lăng nhăng ! Tôi phải lòng người ta bao giờ mà 
				bà dám bảo thế ? Đèn nhà ai, nhà nấy rạng ! Sao bà cứ đổ dầu 
				vào lửa là thế nào ! Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, sao bà lại nở vu oan giá họa cho tôi là làm sao ?
 Bà Vỵ bổng đổi hẳn thái độ, đánh mất hết sự thân tình mấy tháng 
				nay với Hậu. Bà nạt lại :
 - Cô dám bảo tôi vẽ chuyện để vu oan cho cô ư ? Chính mắt tôi 
				nom thấy cô đánh gió cho ông Kiệt. Hai người ngồi sát cạnh nhau 
				trên giường, thiếu điều ông ấy úp mặt vào … vú cô ! Cô còn cãi 
				ư ! Tôi nom thấy cô ngồi với người ta, tôi gọi chồng cô về bắt 
				quả tang, cô còn chối nữa hay thôi ! Chú Mão, chú ấy hiền lành, chứ gặp ngừơi khác thì cô ốm đòn rồi !
 Người kéo đến mỗi lúc một đông hơn. Mỗi người bình phẩm một câu, ai cũng chĩa mũi dùi lên án Hậu. Bao nhiêu uất hận trong 
				ngừơi Hậu giờ này không còn nhắm vào Mão nữa mà chuyển hướng 
				sang bà Vỵ. Con người lá mặt lá trái, đổi thay như chong chóng. Thật uổng công mấy tháng nay Hậu gánh nước, bế con và làm 
				biết bao nhiêu công việc vặt giúp bà. Hậu không thể hiểu được 
				tại sao bà trở mặt dễ dàng như vậy ! Bên cạnh bà Vỵ, một giọng 
				đàn bà khác tàn nhẩn nói bâng quơ :
 - Thứ gái đĩ già mồm ! Cứ gọt đầu bôi vôi rồi tống vào nhà thổ 
				là yên chuyện !
 Hậu thấy rõ cả đám đông đều hướng về một phía để lên án mình. Cô không biết xử trí thế nào, đành lui vào nhà. Mão đứng chống 
				nạnh, chửi đổng thêm vài câu nữa rồi cũng vén mành chui vô. Sau lưng, còn nghe văng vẳng giọng nói đàn ông :
 - Chung qui cũng tại cái anh chồng lù đù quá ! Gặp phải tay tôi, tôi gang họng con vợ ra chứ để như thế mà chịu nhục sao !
 Đám đông hiếu kỳ còn đứng nán lại thêm một lúc khá lâu, nhìn 
				đăm đăm vào nhà Hậu. Có đứa trẻ bạo dạn, vạch cả bức mành tre 
				ra xem, khiến Kiệt bực mình khép hẳn cánh cửa lại. Hàng xóm 
				chờ mãi không thấy Mão hoặc Hậu quay ra, họ mới từ từ giải tán. Ai cũng thất vọng vì Mão không thẳng tay trừng trị Hậu như họ 
				vẫn thường chứng kiến mỗi khi ông chồng nghi ngờ bà vợ có tình ý 
				với người khác. Cứ đánh đã, rồi tính sau ! Vợ có bị oan thì 
				cũng coi như một lời cảnh cáo trước !
 Trong nhà, Hậu ngồi khóc tấm tức ở mép giường. Mão ngồi ở bàn 
				ăn, châm lửa hút thuốc lào. Kiệt nhìn qua khe cửa, thấy không 
				còn ai lãng vãng trước nhà, mới quay vào hầm hầm bảo Mão :
 - Tự dưng anh giở chứng ra như thế là thế nào ?
 Mão ngửa mặt nhả khói rồi cười tự mãn :
 - Ô hay ! Anh Lê Tiến bảo tôi là thỉnh thoảng vợ chồng phải giả 
				vờ đánh ghen cho ồn ào lên một tí, chứ không thì người ta nghi. Tôi chấp hành chỉ thị của anh Lê Tiến chứ có giở chứng gì đâu 
				! Chính vì thế tôi phải lôi chị Quyết ra ngoài hè mà chửi để 
				hàng xóm nom thấy !
 Kiệt chẳng biết nói sao. Anh biết Mão cố tình mượn gió bẻ măng, lợi dụng màn đánh ghen để chửi cho hả giận vì Mão biết Hậu 
				không yêu mình. Như vậy có nghĩa : Đây là màn đánh ghen thật 
				chứ không phải giả. Ghen cũng thật mà chửi cũng thật ! Kiệt 
				nhìn thấu tâm địa nhỏ nhen của Mão, nhưng chẳng biết phản ứng 
				thế nào, chỉ nhăn mặt trách :
 - Anh có muốn giả vờ đánh ghen, thì anh cũng phải cho chị Quyết 
				với tôi biết trước chứ ! Tự dưng tự lành anh nhảy chồm lên như 
				thế thì chị Quyết biết đàng nào mà tham gia !
 Mão bưng cốc nước trà nốc cạn rồi nhìn Kiệt phân trần thêm :
 - Anh thấy không ? Gọi là đánh ghen, nhưng tôi có đánh đập gì 
				đâu ! Chửi vài câu cho có thôi !
 Hậu đứng phắt dậy, tiến lại gần Mão và uất ức bảo :
 - Ăn nói ngớ ngẩn như thế mà cũng mở mồm nói được ! Đánh ghen, nghĩa là tôi đánh ghen, vì anh là chồng tôi mà mèo chuột hay có 
				vợ lẽ ! Xưa nay chỉ có vợ ghen chồng chưa có bao giờ lại ngược 
				đời là chồng ghen với vợ ! Anh cố ý bôi tro trát trấu vào mặt 
				tôi chứ có phải là anh chấp hành chỉ thị của anh Lê Tiến đâu ! 
				Đừng có giở trò vải thưa che mắt thánh ! Tôi thừa biết rồi !
 Kiệt xót xa nhìn Hậu thông cảm trong khi Mão vênh váo đáp :
 - Chị muốn nghĩ thế nào là tùy chị ! Tôi thì tôi chấp hành lệnh 
				của Thành Bộ mà thôi ! Tôi nói cho chị biết, tôi sẽ còn chửi 
				nữa, chứ chưa xong đâu !
 Hậu muốn gào lên để vạch rõ cái ý đồ đen tối của Mão, nhưng 
				Kiệt vội đưa mắt làm hiệu bảo Hậu nên ngưng lại, đồng thời Kiệt 
				đặt ngón tay lên mịêng và nhắc :
 - Nói bé chứ ! Nhỡ người ta nghe thấy !
 Dù sao đi nữa Kiệt cũng có mặc cảm tội lỗi trong lòng. Giả như 
				anh không yêu Hậu, thì phen này, với tư cách bí thư chi bộ, Kiệt sẽ thẳng thắn phê bình Mão một cách mạnh mẽ. Nhưng vì 
				vướng mắc tình cảm riêng tư, anh thấy khó có thể mở mồm chửi 
				Mão, bởi Mão sẽ cho rằng anh lấy quyền lãnh đạo để cứơp ngừơi 
				yêu của Mão. Rồi nay mai, nếu được đoàn thể vun xới, anh và 
				Hậu lấy nhau, anh sẽ rất ngượng ngùng khi nhìn mặt 
				Mão.
 Kiệt nén tiếng thở dài, bước lại bàn kéo ghế ngồi đối diện Mão 
				và chậm rãi phân tách :
 - Sai một ly, đi một dặm ! Chị Quyết nói đúng. Người đàn bà 
				đánh ghen chồng là điều hợp lý, vì chồng thường lăng nhăng chứ 
				mấy khi vợ đã lăng nhăng ! Đàn bà có chồng đèo bồng, phải đánh 
				ghen thì hàng xóm láng giềng ngừơi ta sẽ động lòng thương hại. Còn bây giờ, chị Quyết mang tiếng là lẳng lơ thì chẳng những 
				ngừơi ta không thương mà còn khinh chê nữa. Mình làm công tác 
				bí mật mà hàng xóm yêu thương thì hàng xóm mới che chở cho mình. Chứ một khi hàng xóm ghét bỏ thì mình ở đây làm sao được nữa ! 
				Cụ thể là chị Quyết, từ đây mặt mũi nào mà gặp lại bà Vỵ bên 
				cạnh ! Thật là vụn tính quá !
 Mão ngẩng lên trấn an Kiệt :
 - Anh cứ yên tâm. Tôi sẽ có cách nói với bà Vỵ ! Lúc nãy bà ấy 
				mắng chị Quyết chẳng qua là vì bà ấy thương hại tôi mà thôi !
 Hậu nhịn không được, chạy lại gần hai người và nói :
 - Vẫn biết thế, nhưng còn tôi và anh Kiệt thì sao ? Từ nay hàng 
				xóm mỗi lần nom thấy tôi và anh Kiệt, họ sẽ nghĩ thế nào ?
 Mão đứng dậy nói ngang :
 - Thì từ nay chị và anh Kiệt cần cảnh giác hơn, đừng để ai nom 
				thấy hai người nói chuyện thân mật với nhau nữa ! Lâu ngày người 
				ta chẳng thấy gì nữa thì người ta sẽ quên đi !
 Dứt lời, Mão khệnh khạng bước ra ngoài, biết chắc Hậu và Kiệt 
				căm hận trông theo. Mão đứng nhìn hai bên con hẽm. Vài người 
				tò mò thấy Mão, vội tế nhị thụt vào trong nhà để cho Mão khỏi 
				ngượng ngùng. Họ tưởng Mão xấu hổ vì vừa bị mọc sừng. 
				Nhưng họ lầm ! Mão có xấu hổ đâu ! Chính Mão bày trò ra mà còn 
				ngượng ngùng gì nữa ! Người xấu hổ từ nay chỉ là Hậu mà thôi.
 Mão thả bộ ra đầu ngõ, leo con dốc ngắn lên đường chính. Sau 
				lưng, có bà nào hóm hỉnh vừa đọc lớn câu thơ cốt ý cho Mão nghe 
				:
 “Thế gian một vợ một chồng,
 “ Chỉ riêng nhà Táo, hai ông một bà !”
 Dĩ nhiên Mão nghe thấy, nhưng Mão thản nhiên lừng lững bước đi. Lòng Mão lúc này đang nhức buốt vì thất tình, có sá chi vài 
				lời chọc ghẹo của kẻ ngòai đường. Hậu khước từ tình yêu của Mão, tất nhiên Mão rất buồn nhưng không giận vì cho rằng Hậu thực 
				sự chưa muốn lấy chồng như cô từng nói với Mão. Nhưng Hậu khước 
				từ Mão để yêu Kiệt thì Mão thấy nhục nhã lắm, bởi Mão đã thua 
				một thằng tình địch mà Mão vốn đánh giá rất thấp. Mão hình dung 
				lại cái cảnh tượng nhức nhối mà lúc nãy chính mắt Mão chứng kiến 
				: Hậu với Kiệt ngồi sát bên nhau trên giường ! Mão thấy quặn 
				thắt như trái tim vừa rướm máu. Kiệt giả vờ ốm để trốn việc, quay về nhà với Hậu. Còn Hậu thì giả vờ đánh gió để được ôm lấy 
				Kiệt ! Lời bà Vỵ lúc nãy vẫn còn vang bên tai Mão :
 - Cô còn chối nữa ư ? Chính mắt tôi nom thấy cô đánh gió cho ông 
				Kiệt. Thiếu điều ông ấy úp mặt vào vú cô !
 Chao ôi ! Cuộc đời sao lại đắng cay đến thế ! Chúng nó nhởn nhơ 
				ngay trước mắt Mão như thách thức ! Giờ phút này, chính lúc này, khi Mão đang thất thểu ngoài lề đường để nghiền ngẫm về mối bi 
				thương của mình, thì bíêt đâu hai đứa chúng nó chẳng đang âu 
				yếm nhau một cách ngang nhiên tại nhà ! Mão chớp mắt mấy cái. Dường như có đôi dòng lệ sắp ứa ra ! Hơn lúc nào hết, Mão mong 
				gặp Lê Tiến càng sớm càng tốt. Mão sẽ xin thành bộ bố trí công 
				tác cho Mão đi nơi khác, để khỏi phải nhìn những cảnh trái tai 
				gai mắt của kẻ thù diễn ra trong cùng một mái nhà ! Huống chi 
				Mão không thể chấp nhận một thằng mê gái như Kiệt nắm chức bí 
				thư lãnh đạo chi bộ ! Mão sẽ ra đi. Đi đâu cũng được miễn từ 
				nay không trông thấy mặt Kiệt và Hậu nữa. Mão căm thù thực dân 
				Pháp. Nhưng xét ra mối thù ấy chỉ âm ỉ chứ chưa bùng lên mãnh 
				liệt như Mão đang thù Kiệt và Hậu. Mão đăm ra hối hận vì lúc 
				nãy trong cơn ghen, đã không tát cho Hậu mấy bạt tay cho sưng 
				vếu cái mặt dày của con đàn bà khốn nạn ấy ! Mão có đánh Hậu 
				thật đau thì cũng chả sao, bởi đánh ghen là chỉ thị của Lê Tiến 
				! Bây giờ nghĩ lại thì Mão thấy mình vẫn còn yếu đuối, vẫn hữu 
				khuynh, vướng mắc tình cảm tiểu tư sản, nên chưa dứt khoát 
				được. Mão đã được học bao nhiêu tài liệu dạy rằng, đối với kẻ 
				thù, nhất định không bao giờ nương tay. Như thế có nghĩa là 
				Mão vẫn còn yêu, vẫn còn hy vọng ! Người chung quanh cười Mão 
				là thằng chồng đần độn cũng đúng, bởi bắt được vợ ngoại tình mà 
				không dám trừng trị, chỉ chửi đổng vài câu vu vơ !
 Đi lang thang ngoài lề đường một lúc, Mão chán nản quay trở lại. Từ xa, Mão thấy bà Vỵ đứng ngoài đầu con hẽm. Bà ra đây 
				không phải là vô tình. Bà ra để chờ Mão. Bởi lúc nãy thấy Mão 
				lủi thủi đi ngang trước nhà bà. Bản tính híếu kỳ lại hay lẽo 
				mép, bà muốn bíêt từ nay Mão sẽ đối xử với vợ và tình địch như 
				thế nào. Dường như cuộc sống tình cảm của bà quá bất hạnh, nên 
				bà không chịu đựng nổi những người phụ nữ có hạnh phúc như Hậu 
				mà còn giở thói lẳng lơ. Bà cảm thấy có công lớn đối với Mão vì 
				đã chỉ cho Mão bắt quả tang vợ đánh gió cho thằng ở trọ ăn cơm 
				tháng ! Chờ Mão tới gần, bà nói :
 -- Chú ra đây làm gì ? Để hai đứa chúng nó ở nhà, cho chúng nó 
				đú đởn với nhau hay sao ?
 Mão nhìn bà, chán nản buông xuôi :
 - Kệ mẹ chúng nó !
 Bà Vỹ trợn mắt gắt nhẹ :
 - Chú nói thế mà nghe được ư ? Thiên hạ người ta nhiếc cho mà 
				điếc tai ! Ai cũng bảo chú là nhu nhược ! Chú có nương tay lắm 
				thì cũng phải tống cổ ông Kiệt đi chứ ! Tò vò mà nuôi con nhện 
				hay sao ?
 Mão thở dài nói cho xong chuyện :
 - Để từ từ rồi tôi đuổi cả hai đứa đi !
 Bà Vỵ uất ức đáp :
 - Lại còn để từ từ ! Sao không tống ngay đi !
 Mão không biết nói sao vì không thể trình bày rõ cái uẩn khúc 
				trong chuyện tình tay ba đang làm tan nát cõi lòng Mão. Gã bỏ 
				bà Vỵ, đứng đó, lẳng lặng rẽ vào con hẻm. Những gánh hàng 
				rong bày rải rác, những kẻ nhàn rỗi ngồi hóng mát, bọn trẻ 
				bụng ỏng đít vòn lê la chơi dọc con hẻm, tất cả đều nhất loạt 
				ngẫng lên nhìn theo Mão, phân ưu cùng anh chồng hiền lành vừa 
				bị vợ ngoại tình mà không dám phản ứng mạnh. Bà Vỵ trông theo 
				cái dáng ủ rũ của Mão. Tự dưng bà thấy bực bội vì vừa nhận ra 
				trong vụ này Mão còn đáng ghét hơn cả Hậu !
 Về tới nhà, Mão buốt nhói nhìn cánh cửa khép kín. Trong nhà 
				chỉ có Kiệt và Hậu. Từ nãy đến giờ, chúng nó đã làm gì với 
				nhau ở trong đó ? Mão đau đớn tự hỏi. Mão muốn giơ chân đạp 
				bung cánh cửa, xông vào chửi cho đôi “gian phu dâm phụ” một 
				trận nên thân. Nhưng, trước bao nhiêu cặp mắt tò mò của hàng 
				xóm chung quanh đang chăm chú theo dõi, Mão đành đứng yên, 
				làm mặt thản nhiên như không hề có chuyện sóng dậy trong lòng.
 Thật ra thì chẳng phải Kiệt hay Hậu cố ý đóng cửa để tâm sự. Từ 
				sau lúc đánh ghen, trẻ con cứ thập thò đi tới đi lui, thậm chí 
				đứng ngay cửa nhìn thẳng vào, khiến Hậu bất đắc dĩ phải đóng 
				hẳn lại, trái với thông lệ là lúc nào cũng chỉ khép hờ. Đã 
				toan gõ cửa, Mão lại đổi ý, quay đầu trở ra con lộ chính. Người lớn, trẻ con, đứng ngồi rải rác trên con hẻm, đều chăm 
				chú theo dõi từng động tác của Mão bằng ánh mắt thương hại. Mão 
				không thèm bận tâm, cứ cấm đầu bước đi. Bà Vỵ thấy Mão vừa vào 
				lại ra ngay, ngạc nhiên hỏi :
 - Chú đi đâu đấy ?
 Mão sẵng giọng hờn dỗi :
 - Đi đâu kệ tôi ! Việc gì đến bà ?
 Bà Vỵ ngượng ngùng đứng yên, nhìn theo cái dáng thất thểu của 
				Mão băng qua đường, Mão rẽ tay phải, đi khoảng mười thước thì 
				dừng lại ở cái quán giải khát, chuyên bán nước chè tươi và bánh 
				gai. Bà hàng đon đả chào Mão bởi thỉnh thoảng Mão vẫn lén ra 
				đây ăn bánh. Mão không thể mua về được vì nhà có đến bốn người, tốn phí lắm. Thèm ăn thì Mão chờ Hậu đi chợ, Kiệt và Thông 
				đi làm, một mình Mão chạy ra đây thưởng thức.
 Bà hàng vừa têm trầu vừa bảo Mão :
 - Hôm nay có bánh gai mới, ngon lắm. Mời ông xơi !
 Mão không trả lời chỉ khẽ nhếch mép gật đầu đáp lễ rồi ngồi 
				xuống cái ghế gỗ thật thấp sát cây cột tre chống mái nhà. Bà 
				hàng rót nước vào bát cho Mão. Mão hớp một ngụm rồi lơ đãng 
				nhìn ra con đường hẹp đầy khách bộ hành qua lại. Lâu lâu mới có 
				một chiếc xe đạp thô sơ, cao lênh khênh, chạy ngang, bấm 
				chuông inh ỏi. Theo thói quen, bà hàng trao cái điếu cày cho 
				Mão. Mão vừa vê thuốc nhét vào nõ, vừa suy nghĩ về hoàn cảnh 
				éo le hiện tại của mình. Mão không ngờ có lúc mình yếu đuối như 
				hôm nay. Từ khi tuyên thệ gia nhập đảng, cha mẹ anh em Mão còn 
				bỏ một cách dễ dàng mà tại sao bây giờ lại lụy vì tình vì một cô 
				gái quê là Hậu ? Mão thở dài ôn lại chặng đường mấy năm qua, từ 
				một thanh niên lớn ở nông thôn, may mắn được đi học chữ quốc 
				ngữ qua trình độ căn bản. Mão ức lòng vì bị mấy anh lính lệ 
				nihều phen bắt nạt. Lính lệ là thứ lính An Nam phục vụ cho quan 
				Phủ, quan Huyện, không có vũ khí, chỉ chuyên cầm roi dọa dẫm 
				dân chúng và ve vãn đàn bà con gái ngòai chợ. Mão nhìn chúng nó 
				mà ứa gan. Nhân có lệnh của Huyện truyền về làng, bắt lý 
				trưởng tuyển 5 người lính khố xanh – tức là lính An Nam do sĩ 
				quan Pháp chỉ huy để phục vụ chính quyền bảo hộ - Mão tình 
				nguyện xin gia nhập để tìm đường công danh trong quân đội. Thứ 
				lính này có súng, có quân phục và được tập luyện từng bước đi 
				theo đội hình, cho nên dân gian thường gọi là Lính Tập. Đường 
				binh nghiệp từng nấc thang leo lên tuy khá dài, nhưng Mão vẫn 
				hy vọng tiến bước. Từ lính trơn, lên Cai, lên Đội rồi quan 
				Quản. Mão thấy tương lai mở ra một viễn tượng thật hấp dẫn về 
				uy quyền mà Mão đã chứng kiến ở những người đi trước, mỗi khi 
				về quê oai nghiêm hống hách không thua gì các quan viên chức sắc 
				trong làng. Đó là giấc mơ danh vọng của Mão. Nhưng trời chẳng 
				chiều lòng ngừơi ! Mão đã leo lên đến Cai nhất – tương đương với 
				Hạ sĩ nhất sau này – đi đâu cũng được ngừơi ta gọi bằng “thầy 
				Cai Nhất”, thì Mão phạm kỷ luật, lại bị lột xuống Cai nhì. Quan Quản, trung đội trưởng của Mão ghét Mão lắm, hở một chút 
				là kiếm chuyện phạt Mão. Mão ức lòng chửi lại rồi đào ngũ luôn. Về làng sống không yên vì lệnh truy nã. 
				Mão giác ngộ theo cách mạng và thóat ly từ đó.
 Bỏ gia đình xuống Hà Nội, sống một cuộc đời mới có ý nghĩa. Mão tìm vui trong công tác đoàn thể giao phó và nhất là trong 
				sinh hoạt hàng ngày của tổ đảng. Mỗi ngày qua đi là một ngày 
				căng thẳng hồi hộp vì mạng lưới mật thám giăng tỏa khắp nơi. Vui ít, lo nhiều, 
				chỉ có lý tưởng giành độc lập là ngọn đuốc rực rỡ để Mão cùng 
				các đồng chí hướng tới mà tạm quên gian khổ.
 Giữa lúc ấy thì Hậu xuất hiện như luồng gió mát thổi vào tâm hồn 
				khô cằn của Mão. Những gần gũi, những chung đụng, càng ngày 
				càng làm cho Mão say đắm hơn dù Mão cũng linh cảm được là Hậu 
				không có thiện cảm với mình. Hậu không có thiện cảm với Mão 
				cũng không sao, Mão có thể chấp nhận được sự từ khước, bởi 
				buồn một thời gian rồi sẽ quên đi. Nhưng cái đau của Mão là 
				Kiệt, Hậu từ chối chỉ vì Kiệt ! Thằng khốn nạn này đã chiến 
				thắng Mão một cách dễ dàng làm Mão thấy nhục nhã lắm. Mão không 
				muốn nhìn mặt chúng nó. Mão muốn tách khỏi chi bộ 
				này và hy vọng không bao giờ còn gặp lại hai khuôn mặt trơ trẽn 
				ấy trên bước đường cách mạng.
 Thấy Mão trầm tư, bà hàng nước ân cần nói :
 - Ăn bánh gai nhá ! Tôi đãi !
 Đang thất tình, Mão chẳng tha thiết gì nữa. Gã gượng cười đáp 
				:
 - Cám ơn bà. Để khi khác !
 Rồi Mão uống cạn bát nước và đứng dậy, 
				băng qua đường.
 Vừa rẽ vào hẽm, từ xa Mão đã thấy bà Vỵ đứng ở cửa, dáng điệu 
				bồn chồn đi ra đi vào. Mà bà bồn chồn thật, bởi bà đang nóng 
				ruột chờ Mão. Tính hiếu kỳ đã thúc đẩy bà làm một việc mà đáng 
				lẽ chẳng bao giờ nên làm, nhất là ở tuổi bà. Đó là ghé mắt dòm 
				qua bức vách để theo dõi Kiệt và Hậu. Nhà bà và nhà Hậu chung 
				một bức vách gỗ. Ván đóng dĩ nhiên không khít, nhưng mỗi bên 
				đều cẩn thận dán thêm một lớp giấy tạp phủ kín. Riêng cái góc 
				phía trong cùng phía nhà Hậu, chỗ Mão in truyền đơn thì ngoài 
				lớp giấy báo, Mão còn căng hai lớp vải bao tải lên tường, 
				để bảo đảm bên nhà bà Vỵ không thể nào dòm lén qua được.
 Nhà nhà cách nhau chỉ có lớp vách ván, nhưng vì trong hẽm lúc 
				nào cũng ồn ào tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc, tiếng rao 
				hàng, tiếng chửi rủa, tiếng búa từ cái lò rèn ở đầu hẽm, cùng 
				bao nhiêu thứ âm thanh hỗn động khác, nên những cuộc họp bàn 
				kín đáo bên nhà Hậu, không sợ lọt sang hàng xóm.
 Từ lúc nói chuyện với Mão ở lề đường, thấy thái độ của Mão bất 
				cần trước chuyện ngoại tình của vợ, bà Vỵ bực lắm. Bà về nhà, đi tới đi lui. Đứa con vẫn đang ngủ say trên võng. Bà đứng áp 
				tai vào vách, nghe ngóng bên nhà Hậu, nhưng chẳng nghe được gì. Bà ngẫm nghĩ một chút rồi nảy ra sáng kiến phải dòm qua. Bà 
				lấy chiếc đũa nhè nhẹ chọc thủng một lỗ trên vách rồi khom lưng 
				quan sát. Qua cái lỗ hổng nhỏ ấy, bà thấy Hậu ngồi khóc ở bàn. Bà biết Hậu vẫn còn đang ấm ức vì lúc nãy bị Mão chửi trước 
				mặt hàng xóm. Bà tự nhủ :
 - Oan ức gì mà khóc ! Chồng chưa đánh gãy răng là may lắm rồi 
				còn gì nữa !
 Bổng bà giật mình khi thấy Kiệt từ giường tiến lại, đứng sau 
				lưng Hậu rồi đặt hai bàn tay lên vai Hậu. Đầu Hậu đang cúi, từ 
				từ ngẫng lên, xoay một chút để áp mặt vào bụng Kiệt. Bà Vỵ nín 
				thở để khỏi thét lên. Đối với một người đàn bà có chồng như Hậu, ngoại tình cỡ này là đũ để bị trừng trị đích đáng rồi. Bà rón 
				rén bước nhanh ra ngoài, dáo dác nhìn ra đường. Hơn bao giờ 
				hết, bà nóng ruột chỉ mong Mão trở về để bắt quả tang một lần 
				nữa, mà lần này thì cảnh ân ái của Kiệt và Hậu diễn ra mặn 
				nồng hơn trước nhiều.
 Chờ một lúc không thấy Mão, bà Vỵ lại quay vào nhìn tiếp. Cảnh 
				cũ vẫn còn tiếp diễn. Bà lại nôn nao chạy ra. Mấy lần như vậy 
				thì may quá, Mão từ quán nước trở về. Bà Vỵ đứng sẳn ở cửa, nhìn Mão, đặt ngón tay lên miệng làm hiệu bảo Mão im lặng. Rồi 
				bà vẫy tay giục Mão vào gấp trong nhà. Mão chưa hiểu gì, ngơ 
				ngác đi theo. Bà ví đầu Mão vào cái đầu Mão vào cái lỗ nhỏ bà 
				vừa khoét. Bên kia, Kiệt nằm trên võng, chiếc võng căng ngang 
				hai thân cột, thòng xuống chỉ cách mặt đất khoảng một gang tay. Hậu ngồi dưới đất, trên cái ghế đẩu lùn sát bên cạnh Kiệt. Hai bàn tay Hậu nắm hai bàn tay Kiệt, đặt trên bụng Kiệt. Chẳng hiểu Kiệt nói gì mà Mão thấy Hậu cứ gật đầu liên tục. Rồi 
				Hậu cúi xuống, nghiêng đầu, áp mặt đặt trên bụng Kiệt. Cảnh 
				tượng lãng mạng quá làm Mão choáng váng muốn quị xuống. Lúc nãy, khi bắt gặp Hậu đang đánh gió cho Kiệt, Mão đã đau đớn lắm 
				rồi. Nhưng Mão vẫn còn gắng gượng tự an ủi mình là biết đâu Hậu 
				chỉ vì tình đồng chí mà săn sóc cho Kiệt khi ốm đau, như cô y 
				tá băng bó vết thương cho đồng đội. Bây giờ nhìn Hậu gục mặt 
				vào người Kiệt thì Mão chẳng còn chút gì để ngờ vực nữa. Sự 
				thật đã rõ trắng đen. Hai đứa chúng nó đã phải lòng nhau từ bao 
				giờ mà Mão không biết. Ngày ngày, Kiệt đi vắng, chỉ có Mão 
				túc trực bên cạnh Hậu, thế mà Hậu nỡ lạnh lùng với Mão để mê 
				thằng kia ! Mão lảo đảo bước ra ngoài. Bà Vỵ lẽo đẽo theo sau, hồi hộp chờ cơn lôi đình của Mão ! Bà ghé tai, nghiếng răng bảo 
				:
 - Về, cho chúng một trận ! Tống cổ thằng kia đi !
 Nhưng lạ quá ! Mão không xông vào trừng trị vợ và tình địch. Mặt tái nhợt, bước chân xiêu vẹo, Mão quay ngược ra lề đường 
				chính và cứ thế lững thững bỏ đi. Bà Vỵ thất vọng, trố mắt 
				trông theo cho đến khi bóng Mão khuất hẳn ở ngã ba đường, 
				bà mới quay vào nhà tiếp tục nhìn qua lỗ hổng.
 Trời đã về chiều nhưng sức nóng vẫn còn hừng hực. Mão vẫn tiếp 
				tục lê những bước nặng nề trên hè phố, dù chẳng biết đi đâu. Quay về căn nhà u buồn ấy thì Mão không thể chịu nổi. Mà Mão 
				cũng chẳng cần quay về, bởi hành trang của Mão trong ấy chẳng 
				có gì ngoài hai bộ quần áo vá. Túi Mão có tới hai đồng, đủ cầm 
				hơi trong lúc chờ thời. Mão tính xem nên đi đâu. Tìm gặp Lê 
				Tiến để báo cáo tình hình chăng ? Mão biết chỗ Lê Tiến đang tạm 
				trú, nhưng Lê Tiến đã nhiều lần dặn, nếu không có gì thật khẩn 
				cấp thì không được ghé vào, sợ lộ bí mật.
 Mồ hôi loang loáng trên khuôn mặt não nề, đẫm ướt vai áo, in 
				thành một vệt dài từ cổ xuống lưng. Mão rẽ sang một con phố lớn, san sát những cửa hàng tấp nập người ra vào. Trên mặt đường 
				tráng nhựa đen bóng, những chiếc xe song mã chở Tây Đầm đi 
				nghênh ngang, những chiếc xe kéo bánh cao-su loại mới, trên đó 
				có anh lính Pháp ngồi bên cạnh cô gái An Nam cạo răng trắng và 
				vấn tóc trần. Những chiếc xe đạp gắn nhản hiệu Hirondelle từ 
				thành phố Saint Étienne bên mẫu quốc gửi sang, còn rất hiếm hoi 
				nên vành nhôm lúc nào cũng được lau chùi sáng bóng. Giá như gặp 
				lúc tâm hồn thanh thản, Mão có thể đứng lại ngắm con phố cả 
				ngày chưa thấy chán. Nhưng hôm nay, người buồn cảnh vật có vui 
				đâu bao giờ, Mão chẳng còn tìm được chút hứng thú nào 
				ở ngoại cảnh.
 Tiếng còi xe làm Mão giật mình ngẫng lên. Bổng Mão nhìn thấy 
				bên kia đường, hai người đội xếp đang đi tuần trước một tòa nhà 
				uy nghiêm có lính gát cổng và phía trên có cắm lá cờ tam tài 
				xanh trắng đỏ, đang bay nhẹ trong gió. Nhìn một lúc, thấy 
				nhiều người đội xếp, tức cảnh sát sắc phục, đi ra đi vào.
 Mão đoán đó là Sở Cẩm, tức sở cảnh sát. Trong đầu Mão chợt nãy 
				ra một ý nghĩ táo bạo. Mão nhìn quanh rồi tạt 
				vào một hiệu bách hóa mua cây bút chì và mảnh giấy viết thư.
 Nữa tiếng đồng hồ sau, Mão băng qua bên kia đường, đứng nép 
				vào gốc cây bàng, cách sở cẩm khoảng trăm thước. Một đứa bé 
				đeo thúng bánh bông lang, đi ngang Mão và rao lớn :
 - Bánh bông lang đây ! Bánh bông lang thơm ngon đây !
 Mão vẫy đứa bé lại. Nó mừng rỡ, ân cần :
 - Ông ơi ! Cháu còn có 4 cái. Ông làm ơn mua giúp cháu nhé !
 Mão gật đầu dặn :
 - Tao bằng lòng mua tất cả của mày. Nhưng tao nhờ mày một việc. Không có khó khăn gì cả !
 Đứa bé tò mò hỏi :
 - Việc gì thế hở ông ?
 Mão moi trong túi ra một mãnh giấy gấp làm tư, đưa cho đứa bé 
				và nói :
 - Mày cầm mảnh giấy này, chạy lại đưa cho ông đội xếp đứng gát 
				đằng kia kìa ! Có thế thôi ! Mày làm được không ?
 Đứa bé vẫn tò mò :
 - Được chứ ông ! Nhưng giấy gì thế hở ông ?
 Mão gắt nhẹ :
 - Mày có biết chữ đâu mà hỏi ! Đây là lá đơn tao xin vào làm 
				việc co sở cẩm, hiểu chưa
 - Ông xin chân quét nhà hở ông ? Cháu có quen ông Bộc, quét nhà 
				ở trong ấy mấy năm rồi ! Thỉnh thoảng ông ấy vẫn mua bánh của 
				cháu !
 - Ừ ! Họ cho làm gì, tao làm cái ấy … Bây giờ mày đưa hết bánh 
				đây cho tao. Tao trả tiền đủ. Cho thêm mày một xu nữa. Rồi 
				mày cầm mảnh giấy này lại đưa cho ông đội xếp. Nhớ đừng có đánh 
				mất !
 - Cháu nhớ rồi !
 Một bên nhận bánh, một bên nhận tiền và giấy. Thằng nhỏ hân 
				hoan chạy lao đi. Tức thì Mão cũng lấm lét lủi nhanh vào con 
				hẽm nhỏ và biến mất trong đám người lao động vừa tan sở. Mão 
				hồi hộp lắm. Mảnh giấy trao cho đứa bé, Mão chỉ viết có mấy 
				chữ : “Căn nhà số 19, ngã Lò Rèn, là hội kín cộng sản “ !
 Mão biết rõ thời điểm này, chỉ cần nghe hai chữ “hội kín” hoặc 
				“cộng sản” là mật thám Pháp tung lưới bủa vây ngay. Có những kẻ 
				tố cáo thật vu vơ, mà mật thám còn sục sạo đến nơi đến chốn. Huống hồ Mão có ghi rõ địa chỉ hội kín. Guồng máy thực dân bước 
				sang thế kỷ 20, chủ yếu là dùng lực lượng mật vụ làm 
				rường cột để duy trì chế độ trên đất nước Việt Nam.
 Ở nhà, Kiệt và Hậu trằn trọc cả đêm không ngủ được vì chờ mãi 
				không thấy Mão về. Hậu biết Mão bỏ đi vì giận Hậu, mặc dù việc 
				giận ấy rất vô lý. Kiệt thì áy náy khôn nguôi vì thấy mình quá 
				nhỏ nhen, quá tầm thừơng, không cưỡng nổi sự rung động của 
				trái tim để làm mất đi niềm tin của một đồng chí. Cách xử sự ấy 
				không thể chấp nhận được ở một người lãnh đạo chi bộ. Không dám 
				hy sinh tình cảm thì đàn em làm sao nể phục ! Kiệt đã đẩy Mão ra 
				đường để đón nhận bao nhiêu nguy hiểm, có thể gây tai hại cho 
				đoàn thể. Kiệt cứ tiếp tục tự dằn vặt. Lúc thì đi tới đi lui, lúc thì ngồi hút thuốc lào, 
				lặng thinh không nói.
 Nửa đêm, ngoài ngõ đã im lìm, không tiếng xe chạy, không 
				tiếng người nói, Kiệt vẫn còn chong đèn ngồi chờ Mão. Hậu đã 
				chui vào mùng được một lúc, lại chui ra, cầm cái nan quạt nan 
				đuổi muổi, đến sau Kiệt và bảo :
 - Thôi ! Tắt đèn đi ngủ đi. Ngồi ngoài này, muổi cắn chết ! 
				Ông ấy có về thì ông ấy gọi cửa !
 Kiệt thở dài đứng dậy, vặn nhỏ ngọn đèn và lại giường, buông 
				màng xúông. Hậu tần ngần một chút rồi cũng quay trở về giường 
				của mình. Gọi là giường nhưng thật ra chỉ là tấm ván cũ kê ở 
				góc nhà, trải chiếc chiếu cá nhân và chiếc mùng nhỏ mà Kiệt mua 
				tặng Hậu ngay từ ngày đầu. Chính cái mùng ân nghĩa ấy làm Hậu 
				chú ý đến Kiệt và dành thiện cảm cho anh hơn Thông và Mão rất 
				nhiều. Miếng ván, chiếc chiếu và cái mùng, cả ba thứ đều mau 
				chóng trở thành chỗ trú ngụ cho hàng đàn rệp. Cho nên cứ lâu 
				lâu, Hậu lại phải mang cả 3 thứ ra sân, 
				rồi đun nước cho thật sôi để xối đi xối lại nhiều lần.
 Hậu chợp mắt được một lúc khá lâu thì choàng tỉnh dậy vì Kiệt 
				nhè nhẹ vén mùng chui vào. Hậu nhích hẳn vô vách để nhường chỗ 
				cho Kiệt. Hậu sung sướng hỏi nhỏ :
 - Đằng ấy chưa ngủ tí nào phải không ? Em ngủ được giấc rồi !
 Kiệt nằm nghiêng âu yếm quàng cánh tay qua người Hậu và gát một 
				đùi lên chân Hậu. Hậu đê mê nhắm mắt lại, tận hưởng cái hạnh 
				phúc đầu tiên của đời con gái. Kiệt thì tuy cũng rạo rực như 
				Hậu, nhưng vẫn cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh của Mão giờ này chẳng 
				biết nằm ở đâu giữa thành phố xa lạ. Hai người thì thầm nói 
				chuyện, kể cho nhau nghe về gia cảnh, về mộng ước, những điều 
				mà nửa năm nay tuy sống chung một mái nhà nhưng không có dịp để 
				thố lộ. Vừa nói chuyện, Kiệt vừa lợi dụng tình thế, đặt tay 
				lên đùi Hậu, rồi nhè nhè kéo váy Hậu lên. Nhưng Hậu nắm tay 
				Kiệt đẩy sang bên cạnh. Kiệt lại đặt bàn tay lên ngực Hậu, bên 
				ngoài cái yếm nâu và cũng bị Hậu nắm cổ tay, đặt xuống chiếu. Lần nào Hậu cũng bảo :
 - Đừng anh ! Đừng làm thế, em sợ lắm !
 Kiệt mĩm cười trong bóng tối bởi biết đó là thủ tục tự nhiên của 
				phụ nữ. Hậu xoay người nằm nghiêng, úp mặt vào ngực Kiệt và 
				nói :
 - Ngủ đi anh ! Ngủ một giấc đi ! Khuya quá rồi !
 Kiệt ngoan ngoãn nghe lời :
 - Ừ ! Dễ đến ba bốn giờ sáng rồi đấy !
 Anh đặt tay lên vai Hậu, xoa nhè nhẹ trên lớp vãi thô. Hơi ấm 
				từ da thịt Hậu truyền sang thật nhanh, đem theo niềm hạnh phúc 
				chan hòa trong lòng Kiệt. Anh không ngờ đi làm cách mạng mà 
				cũng có lúc sung sướng như thế này. Anh nhắm mắt lại và ước 
				thời gian đứng yên để cái giây phút ngất ngây này trở thành vĩnh 
				cửu !
 Hai người đang thiu thiu ngủ thì giật mình choàng dậy vì tiếng 
				đập cửa liên tục. Chưa kịp nghĩ xa xôi, Kiệt tung mùng chạy ra 
				vì sợ người ta bắt gặp anh ngủ chung với Hậu. Hậu cũng lao ra 
				ngay, đứng giữa nhà, hoảng hốt nhìn Kiệt. Lúc nãy, khi nghe 
				tiếng gọi lần đầu tiên, Hậu cứ tưởng là Mão. Nhưng bây giờ thì 
				tình hình đã rõ nét. Bên ngoài, tiếng quát tháo vẫn tiếp tục 
				vang lên :
 - Mở cửa ra ! Nhanh lên ! Mở cửa ! Ouvrez la porte ! Vite ! Vite 
				!
 Tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng đập cửa, tiếng bước chân chạy 
				thình thịch trộn lẫn với nhau. Hậu và Kiệt tuyệt vọng nhìn nhau, bởi giờ phút này, chẳng cần ai nói ra, cũng đều biết là mật 
				thám Pháp đang vây nhà. Hậu cố gắng lấy chút điềm tỉnh, nói 
				vọng ra :
 - Ai hỏi gì đấy ? Để từ từ tôi mở !
 Tiếng quát tháo lớn hơn :
 - Dépêce-toi ! Ouvrez la porte tout de suite !
 - Tôi mở bây giờ đây !
 Nhưng Hậu chưa kịp mở thì cánh cửa bị đạp tung ra, lố nhố ngừơi 
				xông vào, súng lăm lăm cầm tay, nạt nộ, hò hét, bằng cả hai 
				thứ tiếng. Những chuyến lục soát như thế này, 
				mật thám Pháp thường đem theo một hai nhân viên tay sai ngừơi 
				Việt hay ít ra cũng có một thằng Tây nói thạo tiếng Việt.
 Một gã Tây chộp lấy Kiệt còn một gã túm lấy Hậu. Mấy đứa còn 
				lại thì xông vào mọi góc, lục lọi từ trong nhà ra sân sau. Hậu 
				nạt lại :
 - Buông tôi ra ! Tôi có tội gì đâu mà bắt tôi ?
 - Mày cứ về sở Liêm Phóng, sẽ biết mày tội gì !
 Một thằng Tây biết nói sành tiếng Việt, chỉ Kiệt và hỏi Hậu :
 - Mày là gì của thằng kia ?
 - Tôi là vợ.
 - Giấy giá thú mày đâu ?
 - Tôi đi buôn, gặp anh ấy rồi theo anh ấy, chưa làm giá thú !
 Giữa lúc ấy, hai đứa từ trong tấm cói của Mão, ôm ra một đống 
				truyền đơn cùng với khay mực, khuôn in và thậm chí cả cờ búa 
				liềm cùng khẩu hiệu chào mừng Cách Mạng tháng Mười của Liên bang 
				Xô Viết. Chúng chìa nhau trước mắt Kiệt và Hậu, mặt hiu hiu tự 
				đắc hỏi :
 - Chúng mày còn chối nữa hay thôi !
 Lập tức, thằng Tây giơ thẳng cánh tay tát Hậu một cái nảy lửa, làm cô ngã chúi vào vách. Thằng khác thì đấm hùynh huỵch vào 
				bụng Kiệt và hỏi :
 - Bọn chúng mày ở đây có tất cả bao nhiêu đứa ?
 Kiệt rán nhịn đau nói :
 - Chỉ có hai đứa chúng tôi thôi !
 Chúng còng tay Kiệt và Hậu đẩy ra con lộ chính, tống lên chiếc 
				xe bít bùng có những ô cửa sổ mắt cáo thật kiên cố. Đồng bọn 
				còn nán lại trong nhà, lục soát khá lâu. Khuân tất cả những 
				tang vật về sở Liêm Phóng. Với những tang vật cụ thể như thế, thừơng thì Kiệt và Hậu sẽ lãnh bản án khổ sai chung thân khi ra 
				trước Hội Đồng Đề Hình. Tội làm loạn chính quyền bảo hộ, 
				là tội đại hình không khoan nhượng.
 Khi vừa ra cửa, Hậu nhìn lại cái khăn ám hiệu treo trên sợi 
				giây phơi, cô quay sang năn nỉ thằng Tây :
 - Ông làm ơn cho tôi đem theo cái khăn rửa mặt !
 Rồi không chờ nó trả lời, Hậu đưa bàn tay bị còng lên chộp cái 
				khăn, nhưng không nắm được. Thằng Tây lạnh lùng đẩy mạnh lưng 
				Hậu làm cô lảo đảo súyt ngã chúi về phía trước. Hậu ngoan cố 
				quay đầu lại nằn nì :
 - Cho tôi lấy cái khăn lau mặt !
 Vừa nói, cô vừa lao lại, định giằng lấy cái khăn ám hiệu một 
				lần nữa, nhưng thằng Tây đưa bàn tay hộ pháp nắm lấy gáy Hậu, đẩy đi và bảo :
 - Đi ! Đồ ngớ ngẩn ! Trong tù thiếu gì khăn !
 Ngoài trời chưa sáng rõ nhưng đã thấy lác đác người đi làm hoặc 
				đi buôn bán sớm. Ngõ hẽm thức giấc rất nhanh vì những tiếng hò 
				hét. Người ta thập thò đứng trong cửa trông ra. Hậu thấy bà Vỵ 
				trố mắt nhìn Hậu và Kiệt, hết sức kinh ngạc. Bà chưa biết Hậu 
				và Kiệt bị bắt về tội chính trị. Bà không ngờ tội ngoại tình mà 
				mật thám Pháp lên án nặng nề đến thế. Họ đem cả một đoàn xe 
				lính kính đến vây nhà Hậu chỉ vì Hậu gục mặt vào lòng Kiệt ! Như 
				thế thì chắc hẳn thế lực của Mão chắc phải lớn lắm mới huy động 
				được lực lượng lính kính của Tây đông đảo và nhanh chóng như thế 
				này !
 Gã mật thám tay sai dừng lại trước cửa nhà bà, chỉ sang nhà Hậu 
				và bảo :
 - Bà kia ! Thường thường ở nhà bên cạnh, bà thấy có bao nhiêu 
				người tất cả ? Phải khai cho rõ, không thì tôi bắt bà về sở Liêm 
				Phóng vì tội đồng lõa !
 Bà Vỵ ngay tình đáp :
 - Bẩm. Dạo trước có 4 người. Vợ chồng ông Mão với 2 ông ở trọ, ăn cơm tháng. Một ông mới dọn đi, chỉ còn 3 người !
 Gã nhìn xuống cuốn sổ nhỏ từ nãy giờ vẫn cầm trong tay để ghi 
				chép lời khai của Hậu và Kiệt. Gã tiếp tục hỏi thêm về danh 
				tánh những người, lấy bút biên vào, rồi kết luận :
 - Như vậy chúng nó có tất cả 4 đứa. Mới chỉ bắt được hai …. 
				Thôi được rồi. Cần gì thì tôi sẽ hỏi thêm.
 Lập tức gã bỏ bà Vỵ, rượt theo Hậu và Kiệt đang đi giữa hai gã 
				mật thám Tây. Gã túm lấy tóc Hậu và hỏi :
 - Trong nhà mày còn ai nữa không ? Thằng Thông với thằng Mão đâu 
				?
 Hậu nhắc lại :
 - Chỉ có hai vợ chồng tôi thôi !
 Hậu vừa dứt, gã tát một cái nảy lửa, làm Hậu lảo đảo chúi đầu 
				vào tường. Gã toan đánh tiếp thì một đồng nghiệp bảo gã :
 - Thôi ! Cho nó về đồn, giao cho Ban Điều Tra !
 Hậu đưa tay quệt vết máu vừa tuôn ra trên miệng. Một nữa mặt 
				sưng vù lên, nhưng Hậu vẫn thấy tê buốt, gần như mất cảm giác. Vừa bước đi, Hậu vừa nghĩ nhanh đến Mão và linh tính cho biết 
				đây là một cuộc trả thù bẩn thỉu của một kẻ thất bại vì tình !
 Bước lên xe, thấy Kiệt đã ngồi ở băng sau, Hậu nghiếng răng 
				nói :
 - Thằng Mão chứ không ai vào đây !
 Kiệt cũng đang nghĩ đến Mão, nhưng chưa hình dung nổi Mão đã tố 
				cáo bằng cách nào. Chẳng lẽ Mão đã ra đầu thú ? Cũng có thể, bởi Mão đã một thời đi lính cho Tây. Kiệt buồn rầu nói nhỏ :
 - Chung qui cũng tại tôi. Tôi đã đánh giá nó sai. Bản thân tôi 
				lại yếu đuối và ích kỷ ! Lỗi tại tôi cả !
 Tên mật thám lái xe, quay lại nạt :
 - Câm mồm ! Nói nhảm cái gì ? Về sở Liêm Phóng tha hồ mà nói !
 Xe đi ngang một phiên chợ họp sớm, lác đác quang gánh bên cạnh 
				những ngọn đèn dầu leo lét, Hậu chồm người đứng dậy, quay mặt 
				ra sau khung cửa sổ căng lưới mắt cáo và hét lớn, hy vọng ngừơi 
				của đảng nghe được :
 - Thằng Mão nó phản bội rồi ! Các đồng chí ơi, thằng Mão nó 
				phản đảng rồi !
 Hậu chưa dứt câu thì bị tên mật thám ngồi ở băng sau đối diện 
				giơ chân đạp mạnh vào mông khiến cô đập mạnh vào thành xe và ngã 
				bệt xuống sàn. Trong nỗi uất hận ngút trời, Hậu không thấy đau 
				lắm vì cô vẫn đang tự nhủ, nếu một ngày nào đó cô được thả ra, 
				chính tay cô sẽ bắn bỏ Mão.
 Việc Hậu và Kiệt bị bắt là một niềm vui lớn đối với mật thám 
				Pháp. Chẳng phải Hậu và Kiệt là hai nhân vật quan trọng, mà vì 
				căn nhà Hậu trú ngụ chính là cơ quan in truyền đơn của Thành bộ 
				Hà Nội. Sở Liêm Phóng tin tưởng rằng, 
				chỉ cần khai thác Hậu và Kiệt thì sẽ dễ dàng phanh ra đường giây 
				của tòan thể Thành bộ đảng Cộng sản.
 Cũng khoảng thời gian này, phía VNQDĐ lại mất thêm một số yếu 
				nhân, trong đó có Nguyễn Thị Thuyết và Nguyễn Văn Viên bị bắt 
				tại cơ quan của đảng tại số 9 phố Thanh Giám Hà Nội. Địa chỉ bí 
				mật này là chỗ tới lui của nhhững nhân vật trọng yếu đầu não của 
				Quốc Dân Đảng, nhưng không may bị kẻ phản bội tố giác. Mật 
				thám mở cuộc tấn công đột xuất, hy vọng bắt được Nguyễn Thái 
				Học. Nhưng rất may ông vừa đi công tác với vài đồng chí thân 
				cận, nên một lần nữa lại thoát nạn trong gan tấc.
 Bắt được Nguyễn Văn Viên, Pháp mừng lắm vì có dịp trả thù cho 
				René Bazin. Tại phòng thẩm vấn, biết mình đã bị nội tuyến tố 
				giác. Nguyễn Văn Viên thẳng thắn nhận mình là người chủ mưu ám 
				sát Bazin. Anh nói :
 - Chính tay tôi đã bắn Bazin ! Tôi là đảng viên Quốc Dân Đảng, nhưng việc này là quyết định của riêng cá nhân tôi, một mình 
				tôi, không liên hệ đến ai !
 Dĩ nhiên Pháp không tin việc giết Bazin là hành động riêng tư 
				của một ngừơi. Chúng sẽ khai thác Nguyễn Văn Viên để phanh ra 
				đường giây tòng phạm. Tạm thời, chúng nhốt riêng Viên ở phòng 
				giam đặc biệt dành riêng cho Pháp kiều, 
				mục đích để tránh sự liên lạc có thể có với các tù nhân Quốc Dân 
				Đảng khác.
 Nằm trong phòng giam tương đối dễ thở này, Nguyễn Văn Viên bùi 
				ngùi suy nghĩ lại hành động của mình hơn nửa năm trước. Anh đã 
				trái lệnh đảng trưởng Nguyễn Thái Học tự ý định kế hoạch giết 
				Bazin, khiến cho toàn đảng phải điêu đứng từ đầu năm đến giờ. Bao nhiêu đồng chí bị tra tấn dã man, bao nhiêu bằng hữu lãnh 
				án khổ sai. Những người tạm thời còn may mắn ở ngoài thì cũng 
				đêm ngày trốn tránh khổ sở mà chưa biết lúc nào sẽ bị bắt ! 
				Trong nỗi ân hận chứa chan, anh đã xé áo, 
				kết thành sợi dây và thắt cổ tự tử để bảo vệ bí mật cho đảng.
 Trở lại chuyện ngã Lò Rèn, cơ quan in truyền đơn của Thành Bộ 
				Hà Nội mà cũng là căn nhà mà nửa năm qua Hậu đã âm thầm hoạt 
				động với ông táo là nấu cơm và đi chợ cho 3 đồng chí khác. Mấy 
				hôm sau, không may cho Lê Tiến, anh từ bên Khâm Thiên sang tìm 
				Hậu, chưa biết là Hậu và Kiệt đã bị bắt. Tiến gặp Hậu hôm nay 
				cốt để mang cho cô một tin vui là đoàn thể đã quyết định điều 
				Hậu xuống Hải Phòng. Mấy lần nói chuyện với Hậu, Tiến thấy rõ 
				là Hậu cứ thấp thỏm muốn đi, muốn lao vào bất cứ nhiệm vụ gì 
				cho đỡ sốt ruột, thay vì chỉ ngồi nhà nấu cơm cho các đồng chí 
				cả nửa năm nay. Biết Hậu thông minh và có nhiệt tình, Tiến 
				định kéo Hậu về Khâm Thiên, trực tiếp làm việc với cơ quan đầu 
				não của Thành Bộ Hà Nội. Nhưng Tiến chưa kịp thực hiện ý định 
				ấy thì Bắc Vịêt Kỳ Bộ yêu cầu Thành Bộ Hà Nội tăng cường người 
				gấp cho tỉnh đảng bộ Hải Phòng vì một loạt cơ quan bí mật của 
				Đông Dương Cộng sản đảng Hải Phòng vừa bị vỡ tung sau vụ ám sát 
				hai đồng chí Như và Uyễn. Cũng may là mấy đồng chí đầu não như 
				Đỗ Ngọc Du và Nguyễn Hữu Cãnh đều trốn thoát, di chuyển công 
				tác vùng khác. Hải Phòng cần gây dựng lại và nhận thấy Hậu tha 
				thiết muốn rời khỏi ngã Lò Rèn, Lê Tiến liên lạc với các đồng 
				chí ở Hải Phòng để bảo họ chuẩn bị tiếp nhận Hậu. Thông đã đi 
				Sơn Tây rồi, Hậu nay mai sẽ xuống Hải Phòng. 
				Cơ quan ngã Lò Rèn chỉ còn lại hai đồng chí Kiệt và Mão lo công 
				việc in truyền đơn cho Thành Bộ.
 Đến trước ngã Lò Rèn, Lê Tiến cẩn thận đưa mắt nhìn quanh hai 
				bên đường theo thói quen. Rồi anh ngó sâu vào hẽm, an tâm thấy 
				cái khăn ám hiệu trước nhà Hậu vẫn còn đó, máng trên giây phơi. Mọi sinh hoạt trong hẽm bình dân vẫn diễn ra như thường lệ : 
				Tiếng búa nện chan chát, tiếng rao của những gánh hàng rong, tiếng khóc tiếng cười của trẻ con, tiếng mẹ mắng con, tiếng 
				chồng chửi vợ. Mọi thứ đã trở thành quá quen thuộc chẳng ai 
				thèm để ý đến nữa. Lê Tiến cứ hân hoan đi thằng vô hẽm. Căn 
				nhà số 19 cửa vẫn hé mở như thường lệ. Bà Vỵ ngồi trong nhà nom 
				thấy, nhưng không dại gì mà chạy ra gặp Tiến. Hôm mật thám đến 
				bắt Hậu và Kiệt, bà cứ ngỡ là Mão đi tố cáo vợ ngoại tình và vì 
				thế lính kín mới đến vây nhà Hậu, đưa đôi gian phu dâm phụ về 
				đồn thẩm vấn. Nhưng chỉ qua một ngày, bà đã nghe thiên hạ xầm 
				xì bàn tán và kinh hãi biết tin nhà Hậu chính là điểm tập trung 
				của hội kín chống chính quyền bảo hộ. Bà run lên bần bật vì 
				không ngờ mình lại quen thân với thành phần to gan ấy. Từ đó, suốt ba hôm nay, bà ăn ngủ không yên, chỉ sợ mình sẽ bị liên 
				lụy hay ít ra cũng sẽ phải ra tòa làm chứng. Hậu và Kiệt bị bắt 
				rồi, bà thấy có một gã đàn ông lạ mặt dọn vào ở nhưng không 
				mang theo đồ đạc gì cả. Mão thì không trở lại nữa. Gã đàn ông 
				lạ mắt cứ ở yên trong nhà Hậu, ít khi ra ngoài, cũng chẳng nói 
				năng gì với ai và cánh cửa chính vẫn hé mở như khi Hậu và Kiệt 
				còn trú ngụ. Bà Vỵ vốn tính tò mò nhưng dĩ nhiên lần này không 
				dám làm quen với gã hàng xóm bởi bà đang lo sợ đứng ngồi không 
				yên, chẳng biết gã thuộc thành phần nào. Mãi đến chiều hôm qua 
				bà gánh nước, gặp ông láng giềng chuyên làm nghề “tóc rối đổi 
				kẹo” phía bên kia nhà Hậu, bà mới được ông ghé tai cho biết cái 
				người mới dọn ở trong nhà Hậu thực ra là mật thám nằm phục kích 
				để chờ bắt nốt những người thường đến đây gặp Kiệt và Hậu ! Bà 
				Vỵ, tái mặt á khẩu. Khá lâu bà mới ấp úng kêu lên :
 - Thảo nào ! Lão cứ trốn biệt trong nhà, không bước chân ra 
				ngoài !
 Ông hàng xóm nói thêm :
 - Tại bà không để ý đấy chứ. Ở đầu ngõ cũng có một đứa giả vờ 
				đứng bán kẹo kéo. Rồi ở trong cùng, chỗ bức tường chắn ngang 
				hẽm nhà mình, còn thêm một đứa cứ đứng lảng vảng cả ngày ở đấy 
				! Chốc nữa bà về thử nom mà xem !
 Bà Vỵ càng kinh hãi, tim đập thình thịch y như mình có dính 
				dáng đến hội kín và đang bị theo dõi. Ông tóc rối đổi kẹo lại 
				thêm :
 - Là vì bên nhà ông Kiệt thường có đến bốn, năm người mà lính 
				kín chỉ mới bắt được có hai người. Họ phải rình để bắt nốt 
				những người kia. Cái cô Quyết ấy, mình cứ tưởng là vợ ông Mão. Hóa ra không phải là vợ ai cả. Họ giả vờ thế thôi. Tất cả 
				đều hoạt động cho hội kín chống Tây !
 Câu nói của ông láng giềng làm bà Vỵ nhớ lại sáng hôm ấy, chính 
				bà đã ngay tình khai với mật thám số ngừơi ở chung với Hậu, khai cả tên từng ngừơi với mật thám. Bây giờ nghĩ lại bà thấy 
				mình dại dột lại vừa thương cho Hậu và Kiệt giờ này chắc đã ốm 
				đòn vì tra tấn. Bà chép miệng :
 - Nào tôi có ngờ đâu ! Nom ai cũng hiền lành cả ! Chúng nó bắt 
				được, chúng nó đánh cho thì phải biết !
 Dứt lời, bà khom người gánh đôi thùng nước về. Dọc đường bà cứ 
				nghĩ đến Mão và tự hỏi không biết bây giờ Mão ở đâu. Bà đi 
				nhanh về đầu ngõ và quả nhiên thấy gã đàn ông lạ mặt đang giả vờ 
				đứng bán kẹo kéo. Nhìn sâu vào, ở cuối hẽm, bà cũng thấy một 
				gã nữa ngồi đọc báo, đúng như lời ông tóc rối đổi kẹo vừa kể 
				với bà. Cả hai khuôn mặt đều lạ, không phải cái đám tay sai đi 
				theo Tây đến bắt Hậu hôm nọ. Bà lấm 
				lét đi nhanh vào nhà và không dám ngẩng đầu lên nhìn ai hai bên 
				hẽm.
 Sáng hôm sau thức dậy, bà làm bộ cầm cây chổi cùn ra quét trước 
				cửa để nhìn hai bên đầu hẽm thì quả nhiên vẫn thấy mỗi bên một 
				gã đàn ông, nhưng có lẽ chúng thay phiên nên không còn hai đứa 
				tối hôm qua nữa .Người mình làm tay sai cho mật thám Pháp bây 
				giờ đông quá, chính bà cũng không ngờ. Bà tự dưng thấy mình 
				lâm vào cảnh sống hồi hộp, chẳng bíêt 
				đến ngày nào thì đám mật thám kia mới bỏ đi để trả lại đời sống 
				cũ cho bà.
 Sự kiên nhẫn của mật thám Pháp, gài người lại phục kích để bắt 
				trọn ổ, đã đạt được kết quả đầu tiên là Lê Tiến. Thấy cái khăn 
				ám hiệu vẫn còn treo trên giây phơi, Lê Tiến thản nhiên tiến 
				vào. Tiến vừa vén mành, bỏ nón và gọi nhỏ “Chị Quyết ơi!” thì 
				gã mật thám đã núp sẳn sau vách, chĩa ngay khẩu súng lục vào 
				mặt Tiến và gằn giọng ra lệnh :
 - Đứng yên ! Đừng có giở trò, tao bắn vở sọ !
 Lê Tiến kinh hoàng suýt kêu lên thành tiếng. Anh không ngờ cơ 
				quan của Đảng Bộ bị bại lộ. Thằng chó săn đang dí súng vào đầu 
				Tiến, tuổi khoảng hơn ba mươi, mặt mũi đen đũi như ngừơi đi 
				biển dầm mưa giãi nắng quanh năm. Hắn vừa dứt lời thì thằng bán 
				kẹo kéo ở đầu hẽm cũng vừa vào tới, vén bức mành lách nhanh vô 
				và lục soát khắp người Tiến. Hắn sờ nắn kỹ lưởng, moi bất cứ 
				thứ gì trong túi Tiến, bỏ lên mặt bàn. Hắn lùa bàn tay vào cả 
				mái tóc Tiến, lột cả đôi giầy vải và rạch cái mũ Tiến vừa đánh 
				rớt trên mặt đất. Khi biết chắc Tiến không có vũ khí, gã mới 
				quay nhìn đồng nghiệp, gật đầu. Thằng mật thám mặt đen với tác 
				phong đàn anh, ung dung nhét súng vào cạp quần, còn hai tay 
				Tiến cho chắc ăn rồi dễ dãi bảo Tiến ngồi. Gã cũng kéo ghế ngồi 
				đối diện và hỏi bằng giọng hỗn láo :
 - Mày là Mão hay là Thông ? Nói thật đi ! Đàng nào thì mày cũng 
				sẽ phải nói, thà mày nói ngay, tao khỏi phải ta tay ! Tao mới 
				nghĩ ra được một trò chơi mới : Hễ cứ mỗi câu tao hỏi mà mày trả 
				lời láo thì tao lấy kìm vặn một cái răng của mày !
 Gã nhe răng cười hềnh hệch rồi nhắc lại :
 - Mày là Thông hay Mão ?
 Nghe câu hỏi, Lê Tiến biết rằng Thông và Mão chưa bị bắt. Anh 
				chỉ chưa nghĩ ra được là tại sao chúng nó lại biết tên Thông và 
				Mão ! Trước khi trả lời, Lên Tiến cứng rắn nói :
 - Các anh có quyền gì mà còng tay tôi ? Tôi tội gì ?
 - Tội mày to lắm ! Mày là Thông hay Mão ?
 - Tôi không phải là Thông, không phải là Mão. Tôi 
				đến thăm người nhà.
 - Mày không phải là Mão, không phải là Thông. Thế mày tên là 
				gì ?
 Lê Tiến chỉ là bí danh, nên Tiến đáp :
 - Tôi là Tiến !
 Bình thường mà nghe nạn nhân khai tên như vậy, thế nào gã cũng 
				mở sổ tay ra xem, vì gã đã có sẳn những cái tên mà bọn chỉ điểm 
				khai trước với gã. Nhưng việc bố ráp nhà Hậu là một trường hợp 
				đặc biệt hiếm có. Cơ sở này chưa hề bị lộ, chưa hề bị tình 
				nghi để sở Liêm Phóng theo dõi. Sở Cẩm nhận được tờ giấy tố 
				giác hoàn toàn là tình cờ do cơn ghen của Mão. Tình cờ đến độ 
				lúc đầu chín sở Cẩm cũng không tin, bởi trong quá khứ có biết 
				bao nhiêu lần người ta vì muốn hãm hại nhau, đã đặt điều tố cáo 
				vu vơ một ổ hội kín không có thật, làm mất thì giờ của mật thám 
				và làm nhiều người bị bắt oan. Đánh đập, khai thác mãi chẳng 
				thấy gì, đành phải thả ngừơi ta về ! Lần này, khi sở Cẩm nhận 
				được tờ giấy viết bằng bút chì do thằng nhỏ bán bánh đưa tới, thằng Tây trưởng đồn cảnh sát đưa cho ban an ninh, trưởng ban 
				an ninh cứ đọc đi đọc lại mãi dòng chữ ngắn ngũi với mối ngờ vực 
				sẳn có trong lòng “Căn nhà số 19 ngã Lò Rèn là hội kín Cộng sản”. Đắn đo suốt cả buổi tối, quá nữa khuya gã mới quyết định dẫn 
				người đi lục xét. Không ngờ kết quả lại vượt quá sự phỏng đoán 
				của gã. Cả thùng truyền đơn với một xấp cờ búa liềm, kèm theo 
				đống tài liệu về chủ nghĩa Cộng sản. Nhà Hậu trở thành một mục 
				tiêu quan trọng cần phải tiêu diệt. Đối với chính quyền bảo hộ 
				thời bấy giờ, năm 1929 là năm của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là 
				năm mà toàn quyền Pìerre Pasquier cũng như chánh sở mật thám 
				Đông Dương Louis Marty phải dành hết nỗ lực để dẹp tan Quốc Dân 
				Đảng bởi Quốc Dân Đảng đang là một phong trào cực mạnh trong 
				quần chúng. Dẹp tan Quốc Dân Đảng để dư luận bên mẫu quốc khỏi 
				xôn xao bởi từ sau đệ nhất thế chiến, tiếng nói của những nhà 
				báo tiến bộ ủng hộ việc trả độc lập cho các nước thuộc địa đã 
				bắt đầu nhem nhúm vang lên. Tuy vậy, dưới mắt Pasquier và 
				Marty, Quốc Dân Đảng chỉ là đám cháy bùng lên, tuy là cháy lớn 
				nhưng việc chữa lửa không khó khăn lắm. Nhìn về đường dài thì 
				chủ nghĩa Cộng sản mới là mối lo gan ruột cho chủ nghĩa thực dân, cho các chính quyền thuộc địa. Chính phủ Pháp bên mẫu quốc, đặc biệt là bộ trưởng Thuộc Địa, đã tỏ ra quan ngại Cộng sản 
				ngay từ đầu, khi Liên Bang Xô Viết ra đời năm 1917. Có hai lý 
				do để Pháp sợ Cộng sản. Thứ nhất : đây là một phong trào quốc 
				tế ,được hệ thống vô sản toàn cầu hỗ trợ nhau để tính chuyện 
				đường dài .Thứ hai : Các nước thuộc địa như đông dương, đại đa 
				số là dân nghèo. Mà nghèo thì rất dễ bị Cộng sản khai thác. Đảng Cộng sản Pháp thành hình từ năm 1921, sau hội nghị Tours, nhưng không bao giờ cộng sản chính thức nắm chính quyền, bởi lý 
				do dễ hiểu là người Pháp không nghèo, dân trí Pháp không thấp 
				và xã hội Pháp tương đối ít bất công. 
				Trái lại ở những xứ thiếu ăn và quanh năm bị áp bức thì hạt 
				giống Cộng sản nảy mầm một cách hết sức tươi tốt.
 Nhận định về Quốc Dân Đảng, Marty báo cáo lên thượng cấp :
 “Nhóm người trẻ tuổi vừa nghèo vừa ít học ấy, khó có thể làm 
				nguy hại đến guồng máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, bởi vì 
				ai cũng biết chúng ta có cả một lực lượng quân sự và cảnh sát 
				lớn lao, dễ dàng dẹp tan các nhóm chống đối kiểu này”.
 Louis Marty nói đúng. Lực lượng Pháp tại đông dương từ năm 1926 
				đã có : 3 tiểu đoàn Bộ Binh, gồm lính Pháp và lính Lê Dương, 7 
				tiểu đoàn lính Khố đỏ, 1 trung đoàn pháo binh xử dụng đại bác 
				75 ly và 105 ly có xe cơ giới chuyên chở, 3 phi đội không quân 
				chiến đấu và yểm trợ. Như thế thì cán cân quân sự giữa Pháp và 
				Quốc Dân Đảng quá chênh lệch, khó lòng mà Quốc Dân Đảng đương 
				cự được. Nói cách khác, dùng quân sự để lật đổ Pháp lúc ấy, không phải là một điều làm cho Pháp sợ hãi. Cái mà cả chính phủ 
				Pháp cũng như quần chúng Pháp lo ngại là sự huy động lâu dài, tập trung sức mạnh của đại đa số quần chúng nghèo đói chống lại 
				chủ nghĩa thực dân nói riêng và chế độ tư bản nói chung. Bởi 
				vậy, trong khi đánh dẹp Quốc Dân Đảng, thực dân Pháp nhiều khi 
				cố tình gán cho Quốc Dân Đảng nhãn hiệu Cộng Sản để việc trừng 
				trị mạnh tay những người ái quốc này, không bị dân chúng Pháp 
				than phiền.
 
 
 o0o
 
 
 |