| 
				“Dành cho bất kỳ ai từng 
					băn khoăn về con đường ngày xưa ta không chọn…” – New 
					York Resident
 Chương 1
 
 Chuyện đó xảy ra chính xác một trăm ngày sau ngày tôi 
				cưới Andy, gần như đúng vào cái thời điểm ba rưỡi chiều từng 
				diễn ra lễ cưới của chúng tôi. Tôi biết rơ ràng thế không hẳn v́ 
				tôi là cô dâu mới ngập tràn hứng khởi say mê quan sát những biến 
				đổi nhỏ nhặt trong quan hệ, mà bởi v́ tôi vốn mắc chứng rối loạn 
				ám ảnh cưỡng chế mức độ nhẹ khiến tôi buộc phải dơi theo mọi 
				chuyện. Điển h́nh là tôi thường đếm những thứ không đâu, ví như 
				số bước chân từ căn hộ của tôi đến ga xe điện ngầm gần nhất (341 
				với một đôi giày thoải mái, thêm mươi bước nữa nếu đi cao gót); 
				sự xuất hiện dày đặc đến nực cười của cụm từ “kết nối kỳ diệu” 
				trong bất kỳ tập nào của bộ phim
				The Bachelor (luôn là 
				hai con số); số chàng trai tôi từng hôn trong ba mươi năm đời 
				ḿnh (chín). Hay, trong buổi chiều tháng Giêng mưa gió lạnh giá 
				đó, là số ngày tôi đă kết hôn trước khi tôi nh́n thấy người ấy 
				ngay chính giữa lối bộ hành nơi đường Mười một giao với đường 
				Broadway.
 Nếu xét bề ngoài, có thể h́nh dung như bạn là một tài xế taxi 
				đang quan sát những vị khách bộ hành đi ẩu chen qua đường trong 
				vài giây cuối cùng trước khi tín hiệu đèn giao thông thay đổi, 
				đó chỉ là một khoảnh khắc đô thị trần tục: hai người dường như 
				xa lạ, chẳng có ǵ chung ngoài những chiếc ô đen mỏng mảnh, đang 
				vượt qua một giao lộ, tiếp xúc với nhau bằng ánh mắt thoảng qua 
				và trao đổi lời chào xă giao nhưng không quá thờ ơ trước khi đi 
				tiếp.
 Nhưng bên trong lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Bên trong, 
				tôi đang cảm thấy quay cuồng, xáo động, nghẹt thở trong lúc bước 
				lên vỉa hè rồi rẽ vào một quán ăn nhỏ vắng tanh cạnh Union 
				Square. Như trông thấy ma, 
				tôi nghĩ, một trong những câu nói tôi đă nghe đến hàng ngh́n lần 
				nhưng chưa bao giờ nhận thức được đầy đủ cho đến tận giây phút 
				đó. Tôi gập ô lại và cởi khóa áo khoác, tim vẫn c̣n đập th́nh 
				thịch. Trong lúc nh́n một người phục vụ lau bàn với động tác đưa 
				tay mạnh mẽ, thuần phục, tôi tự hỏi tại sao ḿnh lại hoảng hốt 
				đến thế v́ cuộc gặp gỡ này, khi mà có điều ǵ đó dường như hoàn 
				toàn không thể tránh được trong khoảnh khắc ấy. Không phải với ư 
				nghĩa to tát, định mệnh nào cả; chỉ là theo cái cách âm thầm, 
				dai dẳng mà điều c̣n dang dở đó đă áp đặt ư muốn của nó lên kẻ 
				không hề sẵn ḷng đón nhận.
 Sau một hồi dường như rất lâu, người phục vụ nhận ra tôi đang 
				đứng sau tấm bảng Vui Ḷng Chờ Xếp Chỗ và nói, “Ôi! Tôi đă không 
				nh́n thấy cô đứng đây. Lẽ ra chúng tôi đă phải hạ tấm bảng xuống 
				sau bữa trưa đông khách. Cô vào đi, ngồi chỗ nào cũng được.”
 Tôi cảm thấy trong câu nói của cô có một sự đồng cảm kỳ cục đến 
				nỗi tôi băn khoăn không biết cô có phải một thầy bói làm thêm 
				ngoài giờ, và thực t́nh đă tính đến chuyện giăi bày tâm sự cùng 
				cô. Nhưng thay v́ làm vậy, tôi thả người xuống ghế đỏ bằng nhựa 
				dẻo ở góc cuối nhà hàng và thề sẽ không bao giờ nói ra điều ấy. 
				Chia sẻ cảm xúc của ḿnh cùng một người bạn có thể tạo nền tảng 
				cho một hành động không chung thủy đối với chồng ḿnh. Kể cho bà 
				chị cay nghiệt của tôi, Suzanne, th́ hẳn chị sẽ tuôn ra cả một 
				bài thuyết giảng gay gắt về hôn nhân và quan niệm một vợ một 
				chồng. Viết chuyện này vào nhật kư th́ sẽ khiến nó trầm trọng 
				hơn nữa, điều đó tôi quyết không làm. C̣n nói với Andy sẽ là 
				tổng hợp của ngớ ngẩn, hủy hoại bản thân và gây tổn thương. Mặc 
				dù lo lắng trước việc phải nói một phần sự thật, một vết đen 
				trong quan hệ vợ chồng mới cưới của chúng tôi, nhưng tôi tin 
				rằng đó là cách tốt nhất.
 “Tôi có thể mang ǵ cho cô?” cô phục vụ, có biển tên đề Annie, 
				hỏi tôi. Cô có mái tóc xoăn màu đỏ và làn da lấm tấm tàn nhang, 
				và tôi nghĩ, Ngày mai mặt rời 
				sẽ bừng sáng.
 Tôi chỉ muốn một ly cà phê, nhưng vốn từng làm phục vụ, c̣n nhớ 
				ḿnh đă thất vọng ra sao khi người ta chỉ mua đồ uống, ngay cả 
				vào lúc ngoài giờ ăn chính, thế nên tôi gọi cà phê và một chiếc 
				bánh ṿng pho mát kem nhân hạt hoa anh túc.
 “Được rồi,” cô nói, gật đầu vui vẻ với tôi.
 Tôi mỉm cười cảm ơn cô. Sau đó, khi cô quay bước về phía bếp, 
				tôi thở hắt ra và nhắm mắt lại, tập trung nghĩ tới một điều: tôi 
				yêu Andy biết chừng nào. Tôi yêu mọi thứ thuộc về anh, kể cả 
				những điều hẳn sẽ làm hầu hết các cô gái phiền ḷng. Tôi thấy cả 
				sự dễ thương trong chuyện anh gặp khó khăn khi nhớ tên người 
				khác (anh cứ gọi tên ông sếp cũ của tôi là Fred, thay v́ Frank) 
				hay lời hát của ngay cả những bài nổi tiếng nhất (“Billie Jean 
				is not my mother”.) Và tôi chỉ lắc đầu mỉm cười khi anh cho hoài 
				gă lang thang ở công viên Bryant mỗi ngày một đô la trong suốt 
				gần một năm trời – cái gă trông hệt tay lừa đảo lái con Range 
				Rover. Tôi yêu sự cả tin và ḷng thương người của Andy. Tôi yêu 
				tính t́nh vui vẻ chân thật ngây thơ vô cùng ḥa hợp với ngoại 
				h́nh điển trai tóc vàng mắt xanh của anh. Tôi thấy may mắn được 
				sống cùng người đàn ông mà sau sáu năm ḥ hẹn, vẫn sốt sắng đứng 
				chờ tôi quay lại từ pḥng vệ sinh nữ, vẫn vẽ những trái tim 
				nguệch ngoạc méo mó trên làn hơi nước phủ mặt gương trong pḥng 
				tắm của chúng tôi. Andy yêu tôi, 
				và tôi không ngại nói rằng, đó là lư do quan trọng nhất v́ sao 
				chúng tôi ở bên nhau, và v́ sao tôi cũng yêu anh.
 “Cô có muốn nướng bánh lên không?” Annie nói to từ phía sau quầy.
 “Có chứ,” tôi nói, mặc dù không thật sự bận tâm.
 Tôi để tâm trí ḿnh trôi về cái đêm Andy cầu hôn tôi ở Vail, 
				cách anh vờ đánh rơi chiếc ví, trong một chuyển động rơ ràng 
				được tập dượt hết sức kỹ lưỡng, để anh có thể cúi xuống nhặt nó 
				và rồi đột nhiên quỳ gối. Tôi nhớ khi nhấm nháp sâm banh, chiếc 
				nhẫn của tôi lấp lánh trong ánh sáng ḷ sưỡi, và tôi nghĩ,
				Chính là như thế. Đây là khoảnh 
				khắc mọi cô gái đều mơ ước. Đây là khoảnh khắc tôi hằng mơ ước, 
				đợi chờ và khao khát.
 Annie mang cà phê tới, và tôi ấp hai tay quanh chiếc cốc nặng 
				trịch nóng hôi hổi. Tôi nâng cốc lên môi, uống một hơi dài, và 
				nghĩ về một năm đính hôn của chúng tôi – một năm đầy ấp lễ mừng, 
				tiệc tùng và ngập tràn kế hoạch cho ngày cưới. Bàn bạc về váy 
				cưới và áo tuxedo, những điệu valse và bánh sô cô la trắng. Tất 
				cả đều hướng tới đêm huyền diệu ấy. Tôi nghĩ về những lời thề 
				nồng thắm của chúng tôi. Điệu nhảy đầu tiên của chúng tôi với 
				bản “What a Wonderful World”. Những lời chúc rượu dí dỏm, ấm áp 
				dành cho chúng tôi – những bài diễn văn tràn ngập những lời hoa 
				mỹ quen thuộc quả thật rất đúng với chuyện của chúng tôi:
				quá sức đẹp đôi… t́nh yêu đích 
				thực… lẽ sống của nhau.
 Tôi nhớ đến chuyến bay đến Hawaii sáng hôm sau, Andy và tôi nắm 
				tay nhau trong khoang hạng nhất, cười phá lên trước tất cả những 
				sơ xuất nho nhỏ ngoài ư muốn trong ngày trọng đại của chúng tôi:
				Phần nào của buổi lễ mà người 
				quay phim không ghi lại được ấy nhỉ? Trên đường tới tiệc chiêu 
				đăi, mưa c̣n có thể to hơn được không chứ? Đă khi nào bọn ḿnh 
				trông thấy James, em trai của anh, oải đến thế chưa? Tôi 
				nghĩ về những buổi hoàng hôn đi dạo trong kỳ trăng mật, những 
				bữa tối lung linh ánh nến và cái buồi sáng đặc biệt sống động 
				khi Andy cùng tôi lang thang trên băi biển hoang sơ h́nh bán 
				nguyệt tên là Lumahai ở phía Bắc Kauai. Với cát trắng mịn màng 
				và những phiến nham thạch hết sức ấn tượng nhô lên trên mặt nước 
				màu ngọc lam, đó là một trong những cảnh tượng kỳ diệu nhất trên 
				trái đất mà tôi từng chiêm ngưỡng. Lúc đó, khi tôi đang măi ngắm 
				nh́n phong cảnh, Andy đặt cuốn sách của Stephen Ambrose lên 
				chiếc khăn tắm ngoại cỡ của chúng tôi, nắm lấy hai bàn tay tôi, 
				và hôn tôi. Tôi cũng hôn anh, ghi khắc trong ḷng giây phút ấy. 
				Tiếng sóng vỗ bờ ́ oạp, cảm giác làn gió biển mát lạnh lùa trên 
				mặt, hương thơm của chanh ḥa quyện với mùi dừa từ kem chống 
				nắng. Khi chúng tôi rời nhau, tôi nói với Andy rằng tôi chưa bao 
				giờ cảm thấy hạnh phúc đến thế. Đó là sự thật.
 Nhưng phần tuyệt vời nhất lại đến sau lễ cưới, sau tuần trăng 
				mật, sau khi những món quà hữu dụng được tháo dỡ ra trong căn hộ 
				nhỏ bé của chúng tôi ở Murray Hill – và những món ngộ nghĩnh, ít 
				hữu dụng được chuyển xuống pḥng kho. Nó đến khi chúng tôi h́nh 
				thành nhịp điệu đời sống vợ chồng. B́nh thường, giản dị và thực 
				tế. Nó đến vào buổi sáng khi chúng tôi nhấm nháp cà phê và tṛ 
				chuyện trong lúc chuẩn bị đi làm. Nó đến khi tên anh chốc chốc 
				lại hiện lên trong ḥm tin nhắn của tôi. Nó đến vào mỗi buổi tối, 
				khi chúng tôi lật tới lật lui mấy cuốn thực đơn giao hàng tại 
				nhà, tính xem nên ăn món ǵ và cả quyết rằng sắp tới sẽ tự nấu 
				bữa tối. Nó đến trong những lúc massage chân, trong từng nụ hôn, 
				trong mỗi lần chúng tôi giúp nhau cởi đồ trong bóng tối. Tôi 
				hướng tâm trí ḿnh về những chi tiết đó. Tất cả những chi tiết 
				đă làm nên một trăm ngày đầu tiên bên nhau của chúng tôi.
 Vậy nhưng lúc Annie mang bánh ṿng tới, tôi lại trở về nơi giao 
				lộ đó, trái tim tôi lại đập th́nh thịch. Tôi chợt hiểu rằng mặc 
				cho tôi cảm thấy hạnh phúc nhường nào khi sống cùng Andy, tôi 
				cũng không thể dễ dàng quên được khoảnh khắc đó, cái cảm giác 
				tắc nghẹn nơi cổ họng lúc tôi trông thấy lại khuôn mặt của người 
				ấy. Dù cho tôi muốn quên nó đến tuyệt vọng.
				Nhất là v́ tôi muốn quên.
 Tôi ngại ngần liếc nh́n h́nh phản chiếu của ḿnh trên vách kính 
				bên cạnh ghế ngồi. Tôi không có ǵ phải lo lắng về dáng vẻ của 
				ḿnh, mà lại càng không có ǵ để hân hoan khi nhận ra ḿnh vẫn 
				có mái tóc hết sức gọn gàng đẹp mắt, mặc cho mọi tác động của 
				một buổi chiều loanh quanh trong mưa. Tôi c̣n có làn da hồng hào, 
				nhưng tôi thầm nhủ đó chỉ là v́ gió lạnh đă nhuốm hồng đôi má. 
				Không có ǵ khác nữa.
 Và đó cũng là lúc điện thoại của tôi đổ chuông rồi tôi nghe thấy 
				giọng người ấy. Giọng nói đă tám năm mười sáu ngày rồi tôi không 
				nghe thấy.
 “Có thật là em đó không?” người ấy hỏi tôi. Giọng anh thậm chí 
				c̣n trầm ấm hơn tôi nhớ, nhưng mặc khác nó vẫn như đang quay 
				ngược về quá khứ. Như thể đang nói nốt câu chuyện mới chỉ vài 
				giờ trước.
 “Vâng,” tôi nói.
 “Vậy ư,” anh nói. “Em vẫn dùng số cũ.”
 Rồi, sau một khoảnh khắc im lặng kỳ lạ, khoảnh khắc mà tôi nhất 
				định không chịu lấp đầy, anh nói tiếp, “Anh cho rằng có những 
				thứ không hề thay đổi.”
 “Vâng,” tôi lại nói.
 Bởi v́ dù tôi không muốn thừa nhận bao nhiêu đi nữa th́ anh vẫn 
				đúng.
 
 Chương 2
 
 Bộ phim mà tôi luôn yêu thích nhất chắc chắn là
				Khi Harry gặp Sally. Tôi 
				mê nó v́ rất nhiều lư do – cảm xúc đẹp đẽ của thập niên 1980 
				trong đó, diễn xuất cực kỳ ăn ư giữa Billy Crystal và Meg Ryan, 
				cảnh ái ân nồng nàn ở Kart’s Deli. Nhưng đoạn phim tôi thích thú 
				nhất hẳn là cảnh những cặp đôi trẻ có, già có, ánh mắt thảy đều 
				lấp lánh , ngồi trên trường kỷ, thao thao kể chuyện họ đă gặp 
				nhau như thế nào.
 Lần đầu tiên xem bộ phim đó tôi mới mười bốn tuổi, chưa bao giờ 
				hôn, và nói theo một trong những cách nói quen thuộc của Suzanne 
				th́, c̣n chưa biết mùi đời. Tôi đă thấy Suzanne phải ḷng cơ số 
				cậu trai, chỉ để nhận lấy trái tim tan vỡ, c̣n nhiều hơn cả số 
				lần tôi đi siết lại niềng răng, và trong chuyện yêu đương đó, 
				chẳng có chút ǵ hạnh phúc cả.
 Mặc dù vậy, tôi nhớ ḿnh đă ngồi trong rạp chiếu phim bật điều 
				ḥa lạnh ngắt, tự hỏi người chồng tương lai của ḿnh lúc này 
				đang ở đâu – h́nh dáng và giọng nói anh ấy ra sao? Phải chăng 
				anh đang trong buổi hẹn ḥ đầu tiên, nắm tay ai đó, và giữa bọn 
				họ là những thỏi kẹo táo và một chai Sprite bự? Hay anh lớn hơn 
				thế nhiều, đă vào đại học và có đầy kinh nghiệm về các kiểu phụ 
				nữ cũng như về thế giới? Anh là tiền vệ ngôi sao hay là tay 
				trống của một ban nhạc diễu hành? Tôi sẽ gặp anh trên một chuyến 
				bay tới Paris? Trong một pḥng quản trị danh tiếng? Hay trên lối 
				đi giữa các dăy hàng trong quầy tạp phẩm ở thị trấn quê hương 
				tôi. Tôi tưởng tượng chúng tôi đang kể chuyện của hai đứa, hết 
				lần này qua lần khác, ngón tay chúng tôi đang vào nhau, giống 
				hệt những cặp đôi say đắm trên màn ảnh rộng kia.
 Tuy vậy, điều tôi vẫn c̣n phải học là những chuyện tưởng tượng 
				đó hiếm khi dễ dàng, suôn sẻ như trong giai thoại về hồi ức lăng 
				mạn mà ta chia sẻ trên trường kỷ. Qua thời gian, tôi hiểu rằng 
				hầu như lúc nào cũng vậy, khi ta nghe chuyện của các cặp đă kết 
				hôn, có rất ít sự nên thơ c̣n sót lại, chỉ là một khoảnh khắc mơ 
				mộng được đánh lên bóng loáng theo thời gian. Và trừ khi bạn 
				cưới người yêu thời trung học (hoặc quanh thời gian ấy), c̣n 
				không th́ đó thường là một câu chuyện đă qua chẳng mấy thú vị. 
				Có những con người, địa điểm và sự kiện mà ta muốn quên đi th́ 
				hơn hoặc chí ít là không nghĩ tới nữa. Rốt cuộc, ta có thề dán 
				lên chúng một cái nhăn xinh xắn – ví như duyên phận hay định 
				mệnh. Hoặc ta có thể tin đó chỉ là một con đường ngẫu nhiên mà 
				cuộc sống đă mở ra.
 Nhưng dù ta gọi nó là ǵ đi chăng nữa, dường như mọi cặp đôi đều 
				có hai câu chuyện – một đă được trau chuốt để chia sẻ trên chiếc 
				trường kỷ, và một không gọt giũa, tốt hơn cả là được giữ kín. 
				Andy và tôi không phải ngoại lệ. Andy và tôi có cả hai.
 Tuy nhiên, cả hai câu chuyện đều cùng bắt đầu theo một lối. Cả 
				hai cùng bắt đầu từ một lá thư xuất hiện trong ḥm thư của tôi 
				vào một chiều hè ẩm ướt, ngột ngạt sau khi tôi tốt nghiệp trung 
				học – và chỉ c̣n vài tuần trước ngày tôi rời quê hương 
				Pittsburgh đến trường đại học Wake Forest, ngôi trường xây bằng 
				gạch xinh đẹp ở Bắc Carolina mà tôi t́m thấy trong danh mục các 
				trường đại học và rồi đă lựa chọn sau khi họ đề nghị một suất 
				học bổng hào phóng. Lá thư chứa đựng tất cả các chi tiết quan 
				trọng về chương tŕnh giảng dạy, sinh hoạt ở kư túc và định 
				hướng chuyên nghành. Nhưng quan trọng hơn cả là nó có tên người 
				bạn cùng pḥng đă chỉ định trước của tôi, được đánh máy trọn cả 
				một ḍng: Margaret “Margot” Elizabeth Hollinger Graham. Tôi đọc 
				kỹ tên cô, cùng với địa chỉ và số điện thoại của cô ở Atlanta, 
				Georgia, cảm thấy vừa ấn tượng vừa e sợ. Tất cả lũ học sinh 
				trường trung học công lập chúng tôi đều có những cái tên chung 
				chung kiểu như Kim hay Jen hay Amy. Tôi chẳng biết một đứa nào 
				có cái tên giống Margot (cái âm T câm làm tôi để tâm nhất), và 
				chắc chắn không biết một ai có tới tận hai tên đệm. Tôi chắc 
				rằng Margot từ Atlanta hẳn phải là một trong những cô nàng xinh 
				đẹp có h́nh trên cuốn sách giới thiệu bóng láng của trường Wake 
				Forest, đeo đôi bông tai ngọc trai và mặc bộ váy hoa tươi mát 
				hiệu Laura Ashley đi xem bóng đá. (Tôi chỉ mặc quần jean và áo 
				nỉ có mũ trùm đầu khi tới các sự kiện thể thao). Tôi chắc chắn 
				cô nàng có một cậu bạn trai hoành tráng, và tưởng tượng ra 
				chuyện cô bỏ rơi anh chàng không thương tiếc vào cuồi học kỳ, 
				chạy theo một trong những gă chân trần cao lêu nghêu diện trang 
				phục có các chữ cái Hy Lạp đang ném đĩa trong khuôn viên trường 
				trên cùng mấy cuốn sách giới thiệu đó.
 Tôi nhớ đă cầm lá thư chạy vội vào nhà để kể cho Suzanne tin ấy. 
				Suzanne sắp vào năm thứ ba ở trường Penn State và rất thạo 
				chuyện bạn cùng pḥng. Tôi t́m thấy chị trong pḥng chúng tôi, 
				đang dán miếng mi giả xanh bằng kim loại dày cộp và nghe bài 
				“Wanted Dead or Alive” của Bon Jovi từ đài.
 Tôi đọc to tên đầy đủ của Margot, và rồi nói ra dự đoán cùa ḿnh 
				bằng cái giọng điệu hệt như trong
				Steel Magnolias, bộ phim 
				đă trở thành cơ sở nh́n nhận mọi thứ đến từ miền Nam của tôi. 
				Tôi thậm chí c̣n tinh quái lôi vào cả những cây cột trắng, 
				Scarlet O’Hara và đám người hầu đông đúc. Mặc dù phần lớn là đùa 
				cợt, nhưng tôi cũng cảm thấy trào lên nỗi lo lắng rằng ḿnh đă 
				chọn nhầm trường. Tôi lẽ ra nên đăng kư vào Pitt hoặc Penn State 
				như tất cả lũ bạn. Tôi sắp trở thành con cá mắc cạn, một nàng 
				Yankee lạc lơng.
 Tôi nh́n Suzanne rời khỏi chiếc gương đứng dài, chống tay lên 
				hông ḥng làm nhỏ nhất ṿng eo cỡ bự mà chị vẫn chưa thể thu gọn, 
				và nói, “Giọng em nghe kẹo 
				quá, Ellen. Em nói cứ như em từ Anh đến chứ không phải giọng 
				Atlanta… Mà này, cho con bé một cơ hội th́ sao nhỉ? Chuyện ǵ sẽ 
				xảy ra nếu nó đoán rằng em là một cô nàng Pittsburgh chả có tí 
				thẩm mỹ thời trang nào?” Chị cười to rồi nói tiếp, “Ôi trời… con 
				bé sẽ hoàn toàn đúng nếu 
				nghĩ vậy!”
 “Buồn cười ghê,” tôi nói nhưng không làm sao cười nổi. Thật trớ 
				trêu, bà chị ủ dột của tôi luôn tràn đầy sức sống nhất khi châm 
				biếm tôi.
 Suzanne vẫn không ngừng cười trong lúc tua băng cassette và hát 
				váng lên, “Tôi bước đi trên những con phố này, một chiếc guitar 
				đeo trên lưng!” Rồi chị dừng lại giữa bài hát và nói, “Nhưng mà 
				nghiêm túc nhé, bất chấp những chuyện em đă biết đó, con bé này 
				có thể, thế nào nhỉ, là con gái một nông dân. Và biết đâu, em sẽ
				thực sự thích nó.”
 “Con gái nông dân thường có tên 
				bốn chữ hả?” tôi bật lại.
 “Em chẳng bao giờ biết đâu,” Suzanne nói với cái giọng bà chị kẻ 
				cả. “Chỉ là em chẳng bao giờ 
				biết đâu.”
 Nhưng những nghi hoặc của tôi dường như được củng cố thêm khi 
				vài ngày sau đó tôi nhận được một lá thư viết tay trên giấy hồng 
				phấn với những nết chữ chững chạc, đẹp mắt từ Margot. Chữ kư 
				lồng óng ánh của cô là kiểu chữ thảo bay bướm, chữ
				G trong tên họ viết to 
				lên lượn ṿng qua chữ M 
				và chữ H. Tôi tự hỏi 
				người họ hàng giàu có nào đă bị cô xem nhẹ bằng hành động bỏ qua 
				chữ E. Giọng văn dạt dào 
				t́nh cảm (tám dấu chấm cảm cả thảy) nhưng vẫn đâu ra đấy một 
				cách kỳ lạ. Cô nói cô nóng ḷng muốn gặp tôi. Cô đă cố gắng gọi 
				cho tôi nhiều lần nhưng không thể gặp được tôi (nhà tôi không có 
				loại điện thoại giữ cuộc gọi chờ hoặc trả lời tự động, một thực 
				tế khiến tôi khá xấu hổ). Cô nói cô sẽ mang theo một chiếc tủ 
				lạnh nhỏ và dàn âm thanh (loại nghe được CD; tôi c̣n chưa biết 
				ǵ nhiều về cassette). Cô hy vọng chúng tôi có thể mua chăn 
				giống nhau. Cô đă nh́n thấy mấy chiếc màu hồng pha lục xám rất 
				dễ thương hiệu Ralph Lauren, và đề nghị mua hai chiếc cho chúng 
				tôi nếu tôi thấy thích. Nhưng nếu tôi không phải người yêu màu 
				hồng, chúng tôi có thể đổi sang màu vàng pha với màu hoa oải 
				hương, “một sự kết hợp tuyệt vời”. Hay màu ngọc lam pha với đỏ 
				san hô, “thú vị không kém”. Cô chỉ không quá thích thú với lối 
				thiết kế nột thất sử dụng các màu cơ bản, nhưng sẳn sàng lắng 
				nghe các gợi ư của tôi. Cô viết cho tôi rằng cô “chân thành” hy 
				vọng tôi sẽ nghỉ ngơi thoải mái suốt mùa hè c̣n lại và kư dưới 
				lá thư “Nồng ấm, Margot,” một lối kết thư quá sức lạ lùng, có vẻ 
				như nhạt nhẽo và giả dối th́ đúng hơn là ấm áp. Tôi từ trước tới 
				giờ chỉ kư thư bằng từ “Thân yêu” hoặc “Chân thành”, nhưng ghi 
				nhớ trong đầu lần sau sẽ dùng thử từ “Nồng ấm” đó. Nó là điều 
				đầu tiên trong rất nhiều điều tôi sẽ bắt chước Margot.
 Tôi lên dây cót để gọi điện cho cô vào chiều hôm sau, cầm sẵn 
				giấy bút trong tay để chắc chắn sẽ không bỏ sót điều ǵ, chẳng 
				hạn như một đề nghị sử dụng chung đồ pḥng tắm – làm cho
				mọi thứ đúng như gia 
				đ́nh thật sự.
 Điện thoại đổ chuông hai lần và rồi một giọng đàn ông trả lời. 
				Tôi đoán đó là bố Margot hoặc có lẽ là người làm vườn đang vào 
				nhà pha một ly nước chanh tươi mát. Bằng giọng trả lời điện 
				thoại thích hợp nhất, tôi hỏi gặp Margot.
 “Margot đang ở câu lạc bộ, đi chơi tennis,” giọng nam đáp.
 Câu lạc bộ, tôi ngẫm 
				ngợi. Bingo. Chúng tôi 
				cũng có một câu lạc bộ, về mặt lư thuyết là thế nhưng thực ra nó 
				chỉ là cái bể bơi khu phố được gọi là câu lạc bộ, bao gồm một 
				cái bể nhỏ h́nh chữ nhật, một đầu có quầy phục vụ đồ ăn nhanh, 
				một đầu là ván nhảy, c̣n lại được chắn bởi rào dây xích. Tôi gần 
				như chắc chắn câu lạc bộ mà Margot đến là một kiểu hoàn toàn 
				khác. Tôi tưởng tượng ra hàng dăy sân đất nện, những chiếc 
				sandwich ngon lành dọn trên đĩa sứ, những khu đồi uốn lượn của 
				sân golf điểm tô bởi những cây liễu rủ hay bất kể loại cây bản 
				địa nào của vùng Georgia.
 “Tôi có thể nhắn ǵ cho Margot?” người đó hỏi. Ngữ điệu miền Nam 
				của người đó rất nhẹ, chỉ lộ ra ở chữ
				tôi.
 Tôi lưỡng lự, hơi bối rối, và rồi ngần ngại giới thiệu ḿnh là 
				bạn cùng pḥng sắp tới của Margot.
 “Ồ, thế ư! Anh là Andy. Anh trai của Margot.”
 Và chuyện là thế.
 Andy. Tên người chồng 
				tương lai của tôi – cái tên mà sau này tôi được biết nó đầy đủ 
				là Andrew Wallace Graham III.
 Andy nói tiếp rằng anh học ở trường Vanderbilt, nhưng cậu bạn 
				nối khố sắp vào năm cuối trường Wake Forest, thế nên anh cùng 
				đám bạn thân chắc chắn sẽ tới chỉ bảo mọi việc cho chúng tôi, 
				chia sẽ với chúng tôi thông tin về các giáo sư và các hội nữ 
				trong trường, giữ cho chúng tôi tránh khỏi rắc rối, và “đủ 
				chuyện hay”.
 Tôi cảm ơn anh, cảm thấy ḿnh có phần dễ thở hơn.
 “Không có ǵ đâu,” Andy nói. Rồi bảo thêm, “Margot sẽ mừng lắm 
				đấy khi nghe tin em. Anh biết con bé rất muốn bàn với em về khăn 
				trải giường hay rèm cửa hay cái ǵ đó… Anh thật sự mong là em 
				thích màu hồng.”
 Tôi sốt sắng trả lời, “Ồ. Có 
				chứ. Em yêu màu 
				hồng.”
 Đó là một lời nói dối sẽ được nhắc đi nhắc lại nhiều năm sau, 
				thậm chí Andy c̣n lôi ra để châm chọc tôi vào bữa tối trước đám 
				cưới của chúng tôi, phần nhiều là để mua vui cho Margot và bạn 
				bè thân nhất của chúng tôi, tất cả những kẻ biết thừa rằng mặc 
				dù cũng có mặt nữ tính nhưng c̣n lâu tôi mới đáng là thục nữ.
 “Ô. Tốt quá,” Andy nói. 
				“Một đôi bạn trời sinh giữa thiên đường màu hồng.”
 Tôi mỉm cười thầm nghĩ mặc cho những điều c̣n chưa rơ về Margot, 
				cô ấy có người anh trai hết sức đáng yêu.
 Rồi hóa ra thế thật, tôi đă đúng về cả Andy
				lẫn Margot. Anh ấy
				rất đáng yêu, c̣n cô ấy 
				hoàn toàn chẳng có ǵ tương hợp với tôi. Trước hết chúng tôi có 
				nhiều đối lập về ngoại h́nh. Cô có mái tóc vàng, mắt xanh, da 
				trắng, dáng người mi nhon hấp dẫn. C̣n tôi có mái tóc sậm màu, 
				mắt nâu, làn da luôn trông rám nắng ngay cả giữa ngày đông xám 
				xịt, và dáng người thể thao cao ráo. Chúng tôi đều quyến rũ như 
				nhau nhưng Margot có vẻ nhẹ nhàng, uyển chuyển trong khi tôi th́ 
				có thể được mô tả một cách đon giản hơn bằng từ xinh đẹp.
 Hoàn cảnh sống của chúng tôi cũng chẳng thể khác biệt hơn được 
				nữa. Margot sống trong căn nhà to lớn, lộng lẫy ngự trên mặt đất 
				đẹp đẽ rộng vài mẫu có cây cối bao quanh ở vùng giàu có nhất 
				Atlanta – một điền sản vô giá. Tôi th́ lớn lên trong một trang 
				trại nhỏ với những quầy bếp màu cam như trong bộ phim Brady Buch 
				ở khu lao động của Pittsburgh. Bố Margot là một luột sư nổi 
				tiếng có chân trong ban điều hành của nhiều công ty. Bố tôi là 
				một người bán hàng – bán những thứ đồ tầm thường như máy chiếu 
				để chiếu những bộ phim tẻ nhạt, chán ngắt mà cánh giáo viên 
				trung học lười biếng thường bắt hoc tṛ xem. Mẹ Margot từng là 
				hoa khôi ở Charleston, có óc thẩm mỹ thời trang chẳng kém ǵ 
				Babe Paley(1) và một thân h́nh xinh đẹp, quư phái. Mẹ tôi từng 
				là cô giáo dạy số học cấp hai b́nh thường trước khi bà mất v́ 
				bệnh ung thư phổi, dù bà chưa bao giờ hút thuốc, vào ngày trước 
				sinh nhật thứ mười ba của tôi.
 Margot có hai anh trai, cả hai đều rất thương chiều cô. Gia đ́nh 
				cô thuộc nhóm Anglo Saxon da trắng theo đạo tin lành ở miền Nam 
				giống như ḍng họ Kennedy, chơi bóng ném trên băi biển ở Sea 
				Island, đi trượt tuyết mọi mùa đông, và nghỉ lễ Giáng sinh ở 
				Châu Âu. Chị gái tôi và tôi trải qua những kỳ nghĩ ở băi biển 
				Jersey cùng ông bà. Chúng tôi không có hộ chiếu, chưa bao giờ ra 
				khỏi đất nước và chỉ mới được lên máy bay mỗi một lần.
 Margot là đội trưởng đội cổ vũ và là cựu hoa khôi của trường, 
				luôn tràn đầy ḷng tự tin có được nhờ sự giàu có, giao du rộng 
				răi của ḍng dơi danh giá. Tôi là người kín đáo, thần kinh hơi 
				yếu, và bất chấp khao khát được ḥa nhập của ḿnh, tôi lại thấy 
				thoải mái hơn nhiều khi chỉ đứng bên lề.
 Nhưng bất kể mọi khác biệt, chúng tôi đă trở thành bạn thân của 
				nhau. Và rồi mấy năm sau, trong câu chuyện sẽ là hồi ức hoàn hảo 
				được kể lại trên trường kỷ, tôi đă phải ḷng anh trai cô. Người 
				mà tôi biết hẳn sẽ dễ 
				thương không kém ǵ sự tử tế mà anh từng thể hiện.
 Nhưng có rất nhiều điều đă xảy ra trước lúc tôi cưới Andy và sau 
				khi lá thư của Margot đến trong ḥm thư của tôi. Rất
				nhiều điều. Và một trong 
				số đó là Leo. Người tôi sẽ yêu trước khi yêu Andy. Người tôi sẽ 
				thành ra hận, nhưng vẫn c̣n yêu, rất lâu sau khi chúng tôi chia 
				tay. Người mà rốt cuộc, rốt 
				cuộc tôi cũng quên được. Để rồi gặp lại, nhiều năm sau đó, 
				trên một lối bộ hành giữa phố phường New York.
 
 -----------------
 (1) Babe Paley (1915 – 1978): Một người phụ nữ Mỹ xinh đẹp, được 
				xem là biểu tượng thời trang thế giới, từng giữ chức tổng biên 
				tập tạp chí Vogue. Bà mất v́ bệnh ung thư phổi.
 
 Chương 3
 
 “Em đang ở đâu?” Leo hỏi.
 Tôi hít thở khó nhọc khi cân nhắc câu trả lời. Trong một thoáng 
				tôi nghĩ anh muốn hỏi với một nghĩa hàm ẩn –
				Em đang ở đâu trong cuộc đời? 
				– và tôi suưt chút đă nói với anh về Andy. Bạn bè và gia đ́nh 
				tôi. Công việc nhiếp ảnh của tôi. Nơi tôi đang trú ngụ mới tốt 
				đẹp và đáng măn nguyện siết bao. Những câu trả lời mà cho măi 
				đến tận gần đây tôi vẫn thường soạn thảo lúc trong pḥng tắm hay 
				trên xe điện ngầm, hy vọng dành cho chính dịp này. Cơ hội để nói 
				cùng Leo rằng tôi đă sống sót và bước tiếp với niềm hạnh phúc 
				lớn hơn rất nhiều.
 Nhưng ngay khi mở miệng định nói những câu ấy, tôi chợt nhận ra 
				điều Leo thực sự đang hỏi. Anh muốn biết
				theo đúng nghĩa đen tôi 
				đang ngồi hay đứng hay bước đi ở chỗ nào? Trong góc nhỏ nào của 
				New York, tôi đang tiêu hóa và suy ngẫm về chuyện ǵ vừa xảy ra?
 Câu hỏi làm tôi bối rối hệt như cảm giác người ta bối rối khi bị 
				ai đó hỏi về cân nặng hay số tiền kiếm được hay bất kỳ câu ḍ 
				hỏi riêng tư nào khác mà người ta hoàn toàn không muốn trả lời. 
				Nhưng, nếu từ chối trả lời công khai, người ta lại sợ ḿnh có vẻ 
				giấu giếm hay thô lỗ. Rồi sau đó, dĩ nhiên, người ta kiếm một 
				cách thay thế và cố nghĩ ra lời đáp né tránh lịch sự, hoàn hảo.
				Chỉ cái cân của tôi mới biết 
				thôi… Tiền chẳng bao giờ là đủ, tôi e vậy. Hoặc với 
				trường hợp này là: Loanh hoanh 
				đâu đó.
 Nhưng trong những lúc như vậy, tôi luôn vụng về buột miệng thốt 
				ra câu trả lời chính xác. Cân nặng thật của tôi. Số lương của 
				tôi chi tiết đến từng đồng. Hay, trong trường hợp này, tên của 
				quán ăn mà tôi đang ngồi uống cà phê trong một ngày rét mướt.
 Tốt rồi, tôi nghĩ, khi 
				điều đó đă thốt ra đầu lưỡi. Rốt cuộc, có lẽ tốt hơn cả là nên 
				nói thật. Trốn tránh có thể lại thành ra như đang cố gắng ỡm ờ, 
				tán tỉnh: Hăy đoán xem em đang 
				ở đâu. T́m em đi, sao anh không làm thế nhỉ.
 Dù sao, Leo trả lời nhanh gọn, vẻ hiểu biết. “Được rồi,” anh nói, 
				như thể quán ăn này là nơi đặc biệt chúng tôi thường xuyên lui 
				tới. Hay tệ hơn, như thể anh đoán trước được tôi chỉ có thể ở
				đó mà thôi. Rồi anh hỏi 
				tôi đang ở một ḿnh phải không.
 Chẳng liên quan ǵ đến anh, 
				tôi muốn nói vậy, nhưng thay v́ thế tôi lại mở miệng mà thốt lên 
				một từ phải thô mộc, đơn giản, đầy mời gọi. Giống như một con cờ 
				đam màu đỏ đơn lẻ lẻn vào giữa hai hàng cờ đen, chỉ chực bị xơi.
 Quả nhiên, Leo nói, “Tốt. Anh đến ngay đây. Đừng đi đâu.” Rồi 
				anh ngắt điện thoại trước khi tôi kịp trả lời. Tôi gập điện 
				thoại, và bỗng thấy hoảng sợ. Bản năng đầu tiên mách bảo tôi 
				đứng dậy rời khỏi đây ngay. Nhưng tôi tự nhủ ḿnh không được hèn 
				nhát. Tôi có thể xử lư được chuyện gặp lại anh ấy. Tôi là một 
				phụ nữ trưởng thành, vững vàng, 
				có cuộc hôn nhân hạnh phúc. Vậy th́ có ǵ ghê gớm khi gặp 
				lại bạn trai cũ, tṛ chuyện đôi lời lịch sự với nhau chứ? Hơn 
				nữa, nếu tôi bỏ chạy, chẳng phải tôi sẽ bày ra một tṛ chơi mà 
				tôi không có lư do ǵ để chơi cả? Một cuộc chơi đă kết thúc từ 
				rất lâu rồi!
 Thế là thay v́ làm vậy, tôi bắt đầu ăn chiếc bánh ṿng. Nó không 
				có vị ǵ cả - chỉ như miếng vải – nhưng tôi vẫn cứ nhai và nuốt, 
				không quên chốc chốc lại nhấm nháp cà phê. Tôi không cho phép 
				ḿnh nh́n vào gương lần nào nữa. Tôi sẽ không tô thêm một lớp 
				son bóng mới, hay thậm chí không thèm kiểm tra xem liệu răng có 
				dính thức ăn không. Cứ để kệ một mẫu bánh nhân hạt hoa anh túc 
				giữa kẽ răng cửa. Tôi chẳng có ǵ phải chứng tỏ với anh ấy. Và 
				chẳng có ǵ để chứng tỏ với chính tôi.
 Đó là suy nghĩ cuối cùng của tôi trước khi tôi nh́n thấy gương 
				mặt của anh qua khung cửa giăng đầy mưa của quán ăn. Tim tôi lại 
				bắt đầu náo loạn, chân tôi luống ca luống cuống. Tôi nghĩ thật 
				tốt biết mấy nếu tôi có một trong những viên thuốc trợ tim của 
				Andy – loại thuốc vô hại mà anh thường uống trước mỗi phiên ṭa 
				để giữ miệng khỏi khô và giọng nói không bị run rẩy. Andy cứ quả 
				quyết rằng anh không bao giờ quá căng thẳng, nhưng những biểu 
				hiện trên cơ thể anh lại nói điều ngược lại. Cũng như lúc này 
				tôi đang tự nhủ ḿnh không căng thẳng. Chỉ là cơ thể tôi đang 
				phản bội trí năo và trái tim tôi. Đúng là như thế.
 Tôi nh́n Leo vừa giũ nhanh chiếc ô vừa nh́n quanh quán ăn, lướt 
				qua phía Annie đang lau chùi chỗ sàn nhà dưới một chiếc ghế. 
				Thoạt đầu anh không nh́n thấy tôi, và thế nào đó, điều ấy khiến 
				tôi có được một chút sức mạnh.
 Nhưng nó lập tức biến mất khi ánh mắt anh chạm phải ánh mắt tôi. 
				Anh thoáng cười nhẹ với tôi, rồi cúi đầu xuống và sải bước về 
				phía tôi. Vài giây sau anh đă đứng bên bàn tôi ngồi, cởi chiếc 
				áo khoác da màu đen mà tôi c̣n nhớ rất rơ. Bụng tôi cuộn lên 
				cuộn xuống liên hồi. Tôi sợ anh sẽ cúi xuống hôn vào má tôi. 
				Nhưng không, đó chẳng phải phong cách của anh. Andy thường hôn 
				má tôi. Leo không bao giờ làm vậy. Đúng như kiểu cách vốn dĩ của 
				anh, Leo bỏ qua những tiểu tiết và ngồi xuống chiếc ghế đối diện 
				tôi, lắc lắc đầu, một lần, rồi hai lần. Anh trông vẫn giống y 
				như trong trí nhớ của tôi, chỉ già đi một chút, và không hiểu 
				sao lại tràn trề sức sống hơn và đậm hơn – tóc anh sẫm màu hơn, 
				cơ thể vạm vỡ hơn, khuôn hàm khỏe mạnh hơn. Một sự đối lập hoàn 
				toàn với dáng vẻ thanh tú, chân tay mảnh khảnh và nước da sáng 
				của Andy. Tôi nghĩ Andy dễ nh́n hơn. Andy là
				quăng đời dễ dàng hơn. 
				Cũng dễ dàng như một buổi dạo chơi bên bờ biển. Một giấc trưa 
				ngày Chủ nhật. Một cái vung tṛn úp nồi tṛn.
 “Ellen Dempsey,” cuối cùng Leo thốt lên, nh́n thẳng vào mắt tôi.
 Tôi không thể soạn thảo được lối mở đầu nào hay hơn. Tôi chộp 
				lấy cơ hội ấy, chằm chặp nh́n lại cặp mắt màu nâu viền đen của 
				anh. “Ellen Graham,” tôi 
				tự hào tuyên bố.
 Leo nhíu mày, như thể anh đang cố để nhớ được điều ǵ đó về cái 
				họ mới của tôi, cái họ mà lẽ ra anh có thể ngay lập tức kết nối 
				tới Margot, cô bạn cùng pḥng của tôi thời tôi và Leo c̣n yêu 
				nhau. Nhưng anh dường như không thể t́m ra mối liên hệ đó. Điều 
				này chẳng làm tôi ngạc nhiên. Leo chẳng bao giờ để ư tới việc 
				t́m hiểu bạn bè tôi – và chẳng bao giờ quan tâm chút nào đến 
				Margot. Mà Margot cũng không ưa ǵ Leo. Sau lần căi nhau to đầu 
				tiên với Leo khiến tôi biến thành một cô nàng chỉ biết khóc rền 
				khóc rĩ, nhếch nhác đến độ không khác ǵ nhân vật trong
				Girl, Interrupted, 
				Margot đă lôi tấm ảnh duy nhất của Leo mà hồi đó tôi có, một 
				loạt ảnh vui chân dung đen trắng chụp liên tiếp bằng máy ảnh tự 
				động, rồi xé chúng theo một đường khéo léo, chạy thẳng từ trán 
				xuống mũi, môi Leo, hoàn toàn tách rời khỏi những gương mặt tươi 
				rói của tôi.
 “Thấy giờ cậu tuyệt vời hơn bao nhiêu chưa nào,” Margot nói. 
				“Khi không có tay của nợ đó.”
 Thế mới là t́nh bạn, tôi 
				nớ đă nghĩ vậy, ngay cả khi tôi dùng băng keo cẩn thận dán h́nh 
				Leo lại. Tôi lại một lần nữa nghĩ y như thế về Margot , khi Leo 
				với tôi chia tay thực sự và cô đă mua cho tôi tấm thiệp chúc 
				mừng cùng một chai Dom Pérignon. Tôi giữ chiếc nút chai lại, lấy 
				dây cao su cuộn tấm ảnh liên hoàn kia quanh nó rồi xếp gọn vào 
				hộp nữ trang – cho tới vài năm sau Margot phát hiện ra nó khi cô 
				trả lại đôi bông tai vàng đă mượn tôi.
 “Cái khỉ ǵ đây?” cô hỏi, lăn lăn chiếc nút chai giữa những ngón 
				tay.
 “Ừm… cậu đă mua cho ḿnh chai sâm banh đó,” tôi rầu rĩ đáp. “Sau 
				chuyện Leo. Nhớ không?”
 “Cậu giữ chiếc nút? Và mấy cái ảnh này?”
 Tôi lắp bắp rằng tôi xem cái nút chai như một bằng chứng t́nh 
				bạn của tôi với cô, chẳng có ǵ khác cả - mặc dù sự thật là tôi 
				không nỡ bỏ đi bất cứ thứ ǵ có chút nào đó liên hoan tới Leo.
 Margot nhướng mày, nhưng vẫn bỏ qua chủ đề đó, theo cái cách cô 
				thường bỏ qua những vấn đề dễ gây tranh căi nhất. Đó dường như 
				là cách thức của người miền Nam. Hoặc ít nhất là cách thức của 
				Margot.
 Dù sao th́, tôi vừa tuyên bố được với Leo tên theo họ chồng của 
				tôi. Một thắng lợi không phải là nhỏ.
 Leo hếch cằm, trề môi dưới ra rồi nói, “Ồ vậy ư? Chúc mừng.”
 “Cảm ơn anh.” Tôi tỏ ra hết sức hân hoan, sôi nổi – rồi thoáng 
				chút xấu hổ v́ đă tỏ ra đắc thắng đến thế.
				Đối lập với t́nh yêu là sự dửng 
				dưng, tôi thầm nhủ.
 “Thế. Gă may mắn đó là ai vậy?” Leo hỏi.
 “Anh nhớ Margot chứ?”
 “Hẳn rồi, anh nhớ.”
 “Em cưới anh trai cô ấy. Em nghĩ anh đă gặp anh ấy rồi?” tôi nói 
				với vẻ mơ hồ, mặc dù tôi biết chắc chắn Leo và Andy đă gặp nhau 
				một lần, tại một quán bar ở Đông Village. Vào thời điểm ấy, đó 
				chỉ là lần chạm mặt ngắn ngủi, không có ǵ đáng nói giữa bạn 
				trai tôi và anh trai người bạn thân nhất của tôi. Một cuộc trao 
				đổi những câu kiểu như Chào 
				anh… Rất vui được làm quen, anh bạn. Có thể có một cái 
				bắt tay. Đúng kiểu cánh mày râu. Nhưng nhiều năm sau đó, rất lâu 
				sau khi tôi và Leo chia tay, c̣n Andy và tôi bắt đầu ḥ hẹn, 
				cũng như bất kỳ người phụ nữ nào, tôi lại mổ xẻ khoảnh khắc ấy 
				đến từng chi tiết.
 Giờ th́ một thoáng vỡ lẽ vụt hiện trên khuôn mặt Leo. “Anh chàng
				đó. Thật sao? Cậu sinh 
				viên luật ấy ư?”
 Tôi thấy gai gai với mấy từ anh 
				chàng đó cũng như giọng lưỡi gợn chút diễu cợt của Leo, 
				tự hỏi không biết lúc này anh đang nghĩ ǵ. Phải chăng anh lượm 
				lặt được ǵ đấy từ cuộc gặp gỡ thoáng qua đó? Hay chỉ là anh 
				đang bày tỏ ḷng khinh khi với giới luật sư? Hay có một lúc nào 
				đó tôi từng đàm tiếu ǵ về Andy khiến Leo có thái độ công kích 
				này? Không. Không thể nào. Chưa từng – và cả
				bây giờ cũng không hề - 
				có bất kỳ điều ǵ bất hảo hay đáng phàn nàn để nói về Andy. Andy 
				không có kẻ thù. Mọi người đều yêu mến anh.
 Tôi nh́n vào mắt Leo, tự nhủ ḿnh đừng tỏ ra pḥng vệ hay phản 
				ứng ǵ cả. Ư kiến của Leo chẳng c̣n quan trọng nữa. Thế là tôi 
				gật đầu điềm tĩnh, tự tin. “Phải. Anh trai của Margot,” tôi nhắc 
				lại.
 “Ái chà. Chuyện diễn ra hoàn 
				hảo quá,” Leo nói với ngữ điệu mà tôi khá chắc là mai mỉa.
 “Vâng,” tôi nói, nở nụ cười măn nguyện. “Quả 
				là vậy.”
 “Một đại gia đ́nh hạnh phúc,” Leo nói.
 Giờ th́ tôi đă hoàn toàn 
				chắc chắn về giọng điệu của anh, và tôi thấy ḿnh nóng ran người, 
				một cảm giác tức giận quen thuộc trỗi dậy. Kiểu giận sôi gan mà 
				chỉ có Leo từng khuấy lên trong tôi. Tôi nh́n xuống ví với đinh 
				ninh mười mươi là sẽ lấy tiền đặt lên bàn, đứng phắt dậy và mạnh 
				bước bỏ đi. Nhưng rồi tôi nghe thấy tên ḿnh trong tiếng gọi 
				mảnh như tơ và cảm nhận được bàn tay Leo phủ lấy tay tôi, bao 
				bọc gọn ghẽ. Tôi đă quân mất tay anh lớn đến thế nào.Chúng đă ấm 
				áp nhường bao, ngay cả giữa mùa đông tang giá. Tôi đấu tranh để 
				rút tay ḿnh khỏi tay anh, nhưng không thể.
				Dù sao th́ anh ấy cũng chỉ có 
				bàn tay phải của ḿnh thôi, tôi nghĩ. Tay trái tôi đang 
				nắm chặt lại dưới bàn, vẫn an toàn. Tôi miết ngón tay cái lên 
				chiếc nhẫn cưới và nín thở.
 “Anh vẫn luôn nhớ em,” Leo nói.
 Tôi nh́n anh chằm chặp, choáng váng không thốt nên lời. Anh
				nhớ tôi? Không thể nào 
				đó là sự thật – nhưng nói cho đúng th́, Leo không thuộc típ 
				người nói dối. Anh thà chọn sự thật lạnh lùng, tàn nhẫn. Hoặc 
				chối bỏ, hoặc thương yêu.
 “Anh xin lỗi, Ellen,” anh nói tiếp.
 “Xin lỗi v́ điều ǵ?” tôi hỏi, thầm nghĩ rằng có hai kiểu xin 
				lỗi. Có lời xin lỗi nhuốm màu nuối tiếc. Lại có lời xin lỗi thự 
				sự đúng nghĩa. Kiểu đó đơn giản là cầu mong được tha thứ, không 
				ǵ khác hơn.
 “Mọi điều,” Leo nói. “Mọi điều.”
 Chẳng c̣n ǵ để nói nữa, 
				tôi nghĩ. Tôi mở các ngón tay trái ra và nh́n xuống chiếc nhẫn 
				của ḿnh. Có một cục nghẹn to tướng đè nơi cổ họng tôi, và giọng 
				tôi thốt lên thầm th́. “Nước chảy chân cầu rồi,” tôi nói. Mà tôi 
				nghĩ như thế thật. Tất cả giờ 
				là nước chảy chân cầu.
 “Anh biết,” Leo nói. “Nhưng anh vẫn xin lỗi.”
 Tôi chớp mắt nh́n sang chỗ khác, nhưng vẫn không thể buộc ḿnh 
				rút tay ra. “Không sao,” tôi nói. “Mọi chuyện ổn cả.”
 Cặp mày rậm của Leo dựng ngược lên, đôi mày vốn gọn gàng tới mức 
				tôi từng trêu đùa cáo buộc anh đă nhổ tỉa chúng thành như thế. 
				“Ổn ư?”
 Tôi biết điều anh đang ám chỉ nên đáp lời ngay lập tức, “Hơn cả 
				ổn. Mọi chuyện đều rất tuyệt. 
				Chính xác như tất cả nên thế.”
 Nét mặt anh chuyển thành vẻ tinh quái, đúng như anh vẫn thường 
				trông vậy thời tôi c̣n yêu anh say đắm và tin tưởng rằng mọi 
				chuyện giữa chúng tôi sẽ có hậu. Tim tôi thắt lại.
 “Vậy, Ellen Graham, 
				trong lung linh ánh sáng của mọi thứ mà hóa ra đều rất ổn, em 
				nghĩ sao nếu chúng ta cho t́nh bạn một cơ hội? Nghĩ xem ḿnh có 
				thể thế không?”
 Tôi thầm liệt kê tất cả lư do tại sao không, tất cả mọi thứ nó 
				có thể gây tổn thương. Nhưng tôi lại thấy ḿnh điềm tĩnh nhún 
				vai và nghe ḿnh nói khẽ, “Tại sao không?”
 Rồi tôi rút tay ra khỏi tay anh vào thời khắc muộn màng.
 
 Chương 4
 
 Tôi rời khỏi quán ăn trong thảng thốt, cảm thấy tâm trạng 
				hỗn độn giữa sầu muộn, oán giận và thổn thức. Đó là một sự trộn 
				lẫn lạ lùng, chao đảo của rất nhiều cảm xúc cứ thao thiết măi 
				lên trong cơn mưa, giờ tan ra thành muôn mảnh ngổn ngang buốt 
				giá. Tôi thoáng định đi bộ về nhà, hầu
				mong được ch́m trong ướt 
				lạnh và buồn khổ, nhưng rồi tôi nghĩ lại. Chẳng việc ǵ phải đắm 
				ḿnh vào chuyện ấy, chẳng có lư do nào để phiền muộn hay thậm 
				chí là bận tâm đến.
 Vậy nên, thay vào đó, tôi đi về phía ga tàu điện ngầm, sải những 
				bước dài quả quyết trên con đường trơn trượt. Đẹp đẽ, tồi tệ, và 
				cả những kỷ niệm b́nh thường nhất về Leo vẫn cuộn xoáy trong đầu 
				tôi nhưng tôi nhất định không chịu dừng lại ở bất kỳ kỷ niệm nào 
				trong số đó. Chuyện quá xưa rồi, 
				tôi lầm bầm thành tiếng khi bước trên cầu thang xuống ga tàu 
				điện ngầm ở Union Square. Trên đường vào sân ga, tôi sải chân 
				qua những vũng nước nhỏ và cố gắng t́m cách xua đuổi mọi ư nghĩ. 
				Tôi mua một gói kẹo Butterscotch Life Savers trong quầy tạp phẩm, 
				lướt qua những tít báo, hóng nghe một cuộc đàm thoại sôi nổi về 
				chính trị, và quan sát ḍng người hối hả chạy tới chạy lui trên 
				các đường sân ga phía dưới. Bất cứ thứ ǵ để tránh được việc gợi 
				nhắc hay diễn lại cuộc nói chuyện của tôi với Leo. Nếu cánh cửa 
				được mở bung ra, tôi sẽ không ngừng phân tích tất cả những ǵ 
				chúng tôi vừa nói, cũng như lối nói bóng gió ương ngạnh vốn xuất 
				hiện quá thường xuyên như một phần của quăng thời gian chúng tôi 
				bên nhau. Anh ấy bảo vậy là ư 
				ǵ? Tại sao anh ấy lại nói như thế? Anh ấy vẫn c̣n cảm xúc với 
				tôi sao? Giờ anh ấy cũng đă kết hôn rồi chứ? Nếu vậy, tại sao 
				anh ấy không kể cho tôi?
 Tôi tự nhủ rằng giờ đây tất cả điều đó chẳng có nghĩa lư ǵ cả. 
				Nó đă chẳng có nghĩa lư ǵ từ lâu rồi.
 Chuyến tàu của tôi cuối cùng cũng vào ga. Giờ cao điểm nên mọi 
				toa tàu đều đă kín, chỉ c̣n chỗ để đứng. Tôi chen vào một chỗ 
				đứng bên cạnh một người mẹ và đứa con tầm tuổi tiểu học của cô. 
				Ít nhất th́ tôi cũng cho rằng đó là con gái cô – họ có kiểu mũi 
				và cằm thon nhọn giống nhau. Cô bé mặc chiếc áo khoác thủy thủ 
				với hai hàng khuy h́nh mỏ neo vàng. Họ đang bàn xem nên ăn ǵ 
				vào buổi tối.
 “Ḿ ống pho mát và bánh ḿ bơ tỏi được không ạ?” cô con gái đề 
				nghị với vẻ rất hy vọng.
 Tôi chờ đợi một câu phản đối quen thuộc của các bậc phụ huynh 
				kiểu như “Chúng ta đă ăn món đó tối qua rồi mà”, nhưng người mẹ 
				chỉ mỉm cười và nói, “Được thôi, nghe có vẻ rất thích hợp với 
				một ngày mưa đấy.” Giọng nói của cô cũng ấm và mềm như loại ngũ 
				cốc mà họ sẽ cùng ăn với nhau vào bữa tối vậy.
 Tôi nghĩ về mẹ ḿnh, như vẫn làm thế rất nhiều lần mỗi ngày, rơ 
				ràng bà ít khích lệ hơn nhiều so với hai mẹ con đang đứng cạnh 
				tôi lúc này. Ư nghĩ của tôi lại trôi tới một câu hỏi thường 
				xuyên xuất hiện trong đầu – mối quan hệ người lớn với nhau của 
				mẹ con tôi thế nào? Tôi có nghi ngờ những điều bà khuyên nhủ khi 
				tôi gặp khó khăn trong t́nh cảm, hay cố ư chống lại những ǵ bà 
				muốn tôi làm không? Hay chúng tôi sẽ gần gũi như Margot và mẹ cô, 
				ngày nào cũng nói với nhau bao nhiêu là chuyện. Tôi muốn nghĩ 
				rằng chúng tôi có thể trở thành những người bạn tâm t́nh. Có thể 
				không tới mức dùng chung quần áo, dày dép hay ôm nhau cười khúc 
				khích (mẹ tôi quá nghiêm túc để làm như vậy), nhưng cũng có đủ 
				cảm giác gần gũi để tôi nói với bà về Leo và về quán ăn. Bàn tay 
				của anh ấy chạm vào tay tôi. Cảm xúc của tôi lúc này.
 Tôi nghĩ tới mọi điều bà có thể nói với tôi, những lời an ủi 
				kiểu như: Mẹ thật vui biết bao 
				khi con có được Andy. Cậu ấy là người con trai mà mẹ không thể 
				có được. Mẹ chẳng bao giờ quan tâm đến cái cậu kia cả.
 Tất cả lời ấy thật dễ dàng đoán được, tôi nghĩ, rồi tiếp tục đào 
				sâu hơn những suy tưởng đó. Tôi nhắm mắt nhớ lại h́nh ảnh của bà
				trước khi bà lâm bệnh, 
				điều mà gần đây tôi không nghĩ tới. Tôi có thể thấy đôi mắt màu 
				nâu lục nhạt h́nh quả hạnh của bà, giống mắt tôi, nhưng ở khóe 
				mắt ngả sang màu sáng hơn – đôi mắt pḥng ngủ, bố tôi lúc nào 
				cũng gọi thế. Tôi h́nh dung ra vần trán rộng mịn màng của bà. 
				Mái tóc dày bóng luôn được cắt tới vai cùng một kiểu đơn giản, 
				không theo xu hướng hay thời trang nào, chỉ đủ dài để buộc túm 
				ra sau khi bà làm việc nhà cửa vườn tược. Khe hở nhỏ giữa mấy 
				cái răng cửa của bà và kiểu bà che tay một cách vô thức mỗi khi 
				cười lớn.
 Rồi tôi nhớ lại ánh nh́n nghiêm nghị nhưng thẳng thắn, thích hợp 
				với vai tṛ cô giáo dạy toán tại một trường công lập hà khắc – 
				và nghe thấy những lời nói bằng ngữ âm Pittsburgh rất nặng của 
				bà: Nghe này, Ellie. Đừng nhồi 
				cho lần chạm mặt này bất kỳ ư nghĩa dở hơi nào như con từng làm 
				với cậu ta vào cuộc gặp đầu tiên. Nó không có nghĩa ǵ cả. Chẳng 
				mảy may. Đôi khi, trong đời, có những thứ hoàn toàn vô nghĩa đấy.
 Lúc này tôi muốn nghe theo mẹ. Tôi muốn tin rằng mẹ đang chỉ dẫn 
				cho tôi từ một nơi xa xôi nào đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy bất lực, 
				để mặc cho ḿnh trở lại hồi ức về lần đầu tiên gặp gỡ tại Ṭa án 
				Tối cao bang New York ở Centre Street khi Leo và tôi bị triệu 
				đến làm bồi thẩm viên vào cùng một ngày thứ Ba, tháng Mười. 
				Những tù nhân bị tống chung vào một căn pḥng ồn ào kinh khủng, 
				không cửa sổ, có mấy cái ghế gập kim loại, và ít nhất c̣n có 
				thêm một gă nông dân quên xài thuốc khử mùi. Tất cả hết sức ngẫu 
				nhiên, và trong một thời gian dài tôi đă điên rồ tin rằng, điều 
				đó thật lăng mạn bởi v́ 
				hoàn toàn ngẫu nhiên.
 Tôi mói hai mươi ba tuổi nhưng cảm thấy ḿnh già hơn thế nhiều 
				bởi nỗi lo sợ mơ hồ và cảm giác vỡ mộng đi kèm với việc phải rời 
				xa cuộc sống an toàn trong trường đại học và đột ngột rơi vào 
				thực tế xă hội, nhất là khi không có mục tiêu hay kế hoạch, 
				không tiền bạc hay một người mẹ. Margot và tôi chuyển đến New 
				York vào mùa hè trước đó, ngay sau khi chúng tôi tốt nghiệp, và 
				Margot đă tiếp nhận vị trí nhân viên marketing tuyệt vời tại văn 
				pḥng tập đoàn thời trang J. Crew. Tôi nhận được lời mời tập sự 
				tại Mellon Bank ở Pittsburgh, nên tôi dự định sẽ trở về nhà sống 
				cùng bố và người vợ mới của ông, Sharon, một phụ nữ tốt bụng 
				nhưng hơi xập xệ với bộ ngực đồ sộ và mái tóc ngă màu. Thế nhưng 
				Margot lại thuyết phục tôi đi New York với cô, cho tôi một bài 
				diễn thuyết hùng hồn về Big Apple(1) và rằng một khi đă thành 
				công được ở đó th́ tôi sẽ thành công ở bất kỳ nơi nào khác. Tôi 
				miễn cưỡng đồng ư v́ không thể chịu được ư nghĩ phải rời xa 
				Margot cũng như không thể chịu được ư nghĩ phải nh́n người phụ 
				nữ khác chiếm mất nhà tôi – nhà 
				mẹ tôi.
 Vậy là bố Margot thuê người vận chuyển tới đóng gói đồ đạc trong 
				pḥng kư túc xá, mua cho chúng tôi vé một chiều đi New York, 
				giúp chúng tôi ổn định cuộc sống trong một căn hộ hai pḥng ngủ 
				xinh xắn ở giữa đường Columbus và đường 79, Margot với tủ quần 
				áo công sở mới tinh và chiếc va li da cá sấu; tôi với tấm bằng 
				triết học vô giá trị và một ḥm áo phông lẫn quần soóc jean. Tôi 
				chỉ có 433 đô la trong tài khoản và đă h́nh thành thói quen chỉ 
				rút mỗi lần 5 đô la từ ATM, một số tiền mà thật kinh ngạc là 
				không đủ mua cho tôi một cái sandwich ḅ ướp ở thành phố này. 
				Tuy nhiên tài khoản ủy thác ông bà ngoại lập cho Margot vừa mới 
				được kích hoạt, và cô khẳng định với tôi rằng bất kể thứ ǵ 
				thuộc về cô đều là của tôi bởi v́, rốt cuộc, chẳng phải chúng 
				tôi giống nhau như chị em hơn là bạn bè sao?
 “Đừng có bắt ḿnh sống trong một cái ổ chuột chỉ để cậu có thể 
				trả nửa tiền thuê đấy nhé,” cô nói đùa nhưng cũng hết sức nghiêm 
				túc. Tiền bạc là thứ mà Margot chẳng những không
				phải nghĩ tới mà c̣n 
				không muốn nghĩ tới hay 
				bàn đến. Thế nên tôi đă học được cách kiềm chế ḷng kiêu hănh và 
				phớt lờ cảm giác nóng mặt mỗi lần phải vay mượn cô. Tôi tự nhủ 
				rằng trong chuyện này cảm xúc tội lỗi là một thứ thừa thải, và 
				rằng một ngày kia tôi có thể trả lại cho cô , nếu không phải là 
				tiền bạc th́ cũng sẽ bằng một cách nào đó khác.
 Suốt gần một tháng trời trong mùa hè tất tả đầu tiên ở New York, 
				tôi thêm mắm thêm muối làm đẹp bộ hồ sơ rồi đem nộp vào bất cứ 
				vị trí công việc nào t́m được. Tôi nhận được vô khối cuộc gọi, 
				nhưng tất cả hẳn nhiên đều là những cuộc phỏng vấn chẳng hứa hẹn 
				ǵ, bởi lẽ tôi là một kẻ tay không. Vậy nên cuối cùng tôi nhận 
				công việc phục vụ tại L’Express, một quán cà phê ở Nam đại lộ 
				Park luôn tự ví ḿnh như một 
				bouchon Lyon. Những giờ làm việc dài dằng dặc – tôi 
				thường làm ca khuya – và chân tôi luôn luôn đau đớn, nhưng không 
				phải mọi thứ đều tệ cả. Tôi kiếm được số tiền đáng ngạc nhiên (khách 
				boa nhiều hơn vào đêm muộn), được gặp gỡ nhiều người thú vị và 
				học được tất cả mọi thứ mà tôi từng khao khát muốn biết về các 
				món thịt heo ướp kèm pho mát, chân gị hầm vang đỏ.
 Trong thời gian rỗi, tôi thường đi chụp ảnh, việc đó ban đầu là 
				sở thích, một cách tiêu khiển trong ngày và để t́m hiểu thêm về 
				thành phố. Tôi lang thang quanh rất nhiều khu phố - Đông 
				Village, Alphabet City, Soho, Chinatown, Tribeca – trong khi 
				chụp ảnh với chiếc máy ảnh ống kính 35 milimet mà bố tôi và 
				Sharon mua tặng nhân dịp tốt nghiệp. Nhưng chẳng bao lâu, chụp 
				ảnh đă trở nên rất có ư nghĩa với tôi. Nó trở thành một thứ tôi 
				không chỉ yêu thích mà c̣n thật sự
				cần phải làm, giống như 
				cách các nhà văn nói về việc họ nhất thiết
				phải viết vai ḍng văn 
				lên trang giấy, hay những người mê môn chạy luôn
				phải chạy bộ vào buổi 
				sáng. Chụp ảnh làm tôi vui sướng, khiến tôi ắp đầy mục đích ngay 
				trong lúc tôi đang thực sự ở vào thời điểm thiếu định hướng và 
				cô đơn nhất. Tôi bắt đầu thấy nhớ mẹ nhiều hơn hẳn hồi đại học, 
				và lần đầu tiên trong đời, tôi thực sự thèm khát có được một 
				t́nh yêu lăng mạn. Ngoại trừ chút phải ḷng bất chợt và lén lút 
				với Matt Iannotti năm học lớp 10, tôi chưa bao giờ đặc biệt quan 
				tâm đến một người con trai nào. Thỉnh thoảng tôi có ḥ hẹn với 
				một số chàng trai và từng quan hệ với hai cậu bạn cùng trường 
				đại học, một nghiêm túc, một không nghiêm túc mấy, nhưng chưa 
				khi nào tiến gần tới t́nh yêu. Mà tôi cũng chưa từng nói hoặc 
				viết ra từ đó với bất kỳ ai khác ngoài gia đ́nh tôi và Margot, 
				vào những lúc cả hai chúng tôi đă uống đến say mèm. Tất cả mọi 
				điều đều vẫn ổn với tôi cho tới năm đầu tiên chuyển đến New 
				York. Tôi không chắc điều ǵ đă thay đổi trong trí năo tôi, 
				nhưng có lẽ đó là việc ḿnh đă là một người trưởng thành thực sự, 
				và như Margot vẫn nói, đang bị bủa vây bởi hàng triệu con người 
				mà dường như ai cũng có những mơ ước rơ ràng và một người nào đó 
				dể yêu.
 Thế nên tôi dành toàn bộ tâm lực cho nhiếp ảnh. Tôi chi từng xu 
				dành dụm được để mua phim và dùng mọi thời gian rănh rỗi để đi 
				chụp h́nh hoặc ngập ch́m trong đống sách ở thư viện hay hiệu 
				sách. Tôi ngấu nghiến cả loại sách tham khảo kỹ thuật chụp h́nh 
				lẫn các bộ sưu tập của những nhiếp ảnh gia nổi tiếng. Quyển sách 
				yêu thích của tôi – Margot đă mua tặng tôi vào sinh nhật thứ hai 
				mươi ba – là The Americans 
				của Robert Frank, đăng tải hàng loạt bức ảnh ông chụp vào thập 
				niên năm 1950 khi chu du ṿng quanh đất nước. Tôi đă bị mê hoặc 
				bởi những tấm h́nh đen trắng của ông, mỗi tấm chức đựng cả một 
				câu chuyện trong đó. Tôi cảm thấy như thể ḿnh có quen biết 
				người đàn ông vạm vỡ cúi người bên chiếc máy hát, người phụ nữ 
				thanh lịch ngoái nh́n qua vai trong chiếc thang máy, và cả bà 
				nhũ mẫu da đen cưng nựng dỗ dành em bé da trắng đang gào khóc. 
				Tôi nhận ra rằng vượt lên tất cả mọi điều, cảm giác hoàn toàn 
				tin ḿnh quen biết các nhân vật trong bức ảnh ở người xem chính 
				là điểm mấu chốt của một tác phẩm vĩ đại.
				Nếu chụp được những bức h́nh 
				như vậy, tôi nghĩ, ḿnh vẫn có thể cảm giác đủ đầy, kể cả khi 
				không có bạn trai.
 Nghĩ lại th́ lúc ấy tôi hoàn toàn chẳng biết phải làm ǵ tiếp 
				theo, nhưng chính Margot đă chỉ ra những điều hiển nhiên - một 
				trong những việc mà đúng thực là bạn bè sinh ra để giúp nhau như 
				thế. Hôm đó cô vừa trở về nhà từ chuyến công tác tới Los 
				Angeles, quẳng xoẹt chiếc va li xuống, dừng lại bên bàn bếp cầm 
				một trong những tấm ảnh mới rửa của tôi lên. Đó là tấm ảnh màu 
				chụp một cô bé mới lớn đang thẫn thờ ngồi trên vỉa hè của đại lộ 
				Bedford ở Brooklyn, mọi thứ trong túi xách văng ra khắp đường 
				xung quanh. Em có mái tóc màu đỏ xoăn dài và trông thật xinh 
				tươi trong hương sắc tuổi dậy th́ không son phấn, một vẻ đẹp mà 
				tôi c̣n chưa cảm nhận được trọn vẹn, bởi cũng như em, lúc đó tôi 
				c̣n quá trẻ. Một tay em chới với nhặt lại tấm gương đă vỡ, c̣n 
				tay kia hờ hững đặt lên vầng trán.
 “Ôi!” Margot thốt lên, nâng tấm ảnh tới sát mặt. “Bức h́nh
				tuyệt quá.”
 “Cảm ơn cậu,” tôi nói, cố làm ra vẻ b́nh thường nhưng thực cảm 
				thấy rất tự hào. Đó là 
				một bức ảnh tuyệt vời.
 “Sao cô bé trong ảnh buồn quá vậy?” Margot hỏi.
 Tôi nhún vai bảo với cô rằng tôi hiếm khi tṛ chuyện với những 
				người mà tôi chụp h́nh. Tôi chỉ làm vậy khi người ta trông thấy 
				tôi chụp ảnh họ và tới bắt chuyện trước thôi.
 “Có lẽ cô bé mất ví,” Margot nói.
 “Có thể em vừa chia tay bạn trai,” tôi nói.
 Mà cũng có thể mẹ em mới qua 
				đời.
 Margot tiếp tục nghiên cứu tấm ảnh , b́nh luận rằng đôi tất dài 
				tới gối màu đỏ tươi của cô bé tạo cho bức h́nh một ấn tượng hết 
				sức đặt biệt. “Dù sao th́,” Margot nói tiếp, sử dụng cảm quan 
				thời trang của ḿnh như thường lệ, “mốt tất dài tới gối
				đang trở lại rồi. Mặc 
				cho cậu có thích nó hay không.”
 “Không thích đâu,” tôi đáp. “Nhưng cũng có để ư.”
 Thế rồi ngay lúc ấy cô nói với tôi, “H́nh cậu chụp thực sự kỳ 
				tài đấy, Ellen ạ.” Margot khẽ gật đầu với vẻ nghiêm túc trong 
				lúc quấn mái tóc mềm mại màu mật ong thành búi rồi cài vào đó 
				một chiếc bút bi bấm để giữ cho chặt. Đó là thứ kỹ nghệ độc đáo 
				tuyệt vời mà tôi cố bắt chước hàng trăm lần, thế nhưng chưa một 
				lần nào làm được trông đúng như vậy cả. Trong những chuyện liên 
				quan đến đầu tóc, quần áo hay trang điểm, không hiểu sao tất cả 
				mọi thứ tôi học lơm từ Margot đều chẳng giống là bao. Cô gật đầu 
				lần nữa rồi nói, “Cậu nên theo đuổi con đường nhiếp ảnh chuyên 
				nghiệp đi.”
 “Cậu nghĩ vậy ư?” tôi hỏi một cách chân t́nh.
 Thật kỳ lạ là chẳng hiểu tại sao, tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều 
				đó. Có lẽ tôi đă quá lo lắng rằng nhiệt tâm của ḿnh lớn hơn so 
				với khả năng. Tôi không thể chịu được ư nghĩ sẽ thất bại trong 
				một lĩnh vực mà ḿnh hết sức đam mê. Nhưng ư kiến của Margot đă 
				có tác động vô cùng to lớn với tôi. Và mặc dù đôi khi Margot 
				chẳng mấy thật thà trong những lời ngợi khen hay ca tụng kiểu 
				miền Nam của ḿnh, cô không bao giờ đối xử như vậy với tôi. Cô 
				luôn luôn dành cho tôi những lời nhận xét thẳng thắn - dấu hiệu 
				của một t́nh bạn đích thực.
 “Ḿnh biết rơ như thế,” 
				cô nói. “Cậu nên tấn công vào lĩnh vực ấy. Làm công việc đó một 
				cách thật sự.”
 Thế là theo lời khuyên của Margot, tôi bắt đầu t́m kiếm một công 
				việc mới liên quan đến nhiếp ảnh. Tôi nộp hồ sơ vào mọi vị trí 
				trợ lư mà tôi t́m thấy, kể cả vài ba chỗ phụ tá cho mấy tay thợ 
				ảnh kém cỏi chụp h́nh đám cưới ở Long Island. Nhưng v́ chẳng 
				được đào tạo chính quy nên một lần nữa tôi bị tất cả các nhà 
				tuyển dụng từ chối, cuối cùng đành phải vào làm công việc tráng 
				phim với đồng lương chết đói trong một hiệu ảnh nhỏ bé, tồi tàn, 
				trang thiết bị cổ lỗ. Ḿnh cần một nơi để bắt đầu, tôi tự nhủ 
				như thế khi bắt xe buưt xuống một khu nhếch nhác ở Đại lộ Hai 
				trong ngày đầu tiên đi làm, cũng như khi giở chiếc sandwich nhân 
				lạc-bơ-mứt ra ăn trong tầng hầm chỉ có mỗi một cái quạt thông 
				gió, nồng nặc mùi thuốc lá và chất tẩy.
 Nhưng rồi hóa ra đó là một công việc khởi đầu lư tưởng, tất cả 
				nhờ có Quỳnh, cô gái người Việt Nam kết hôn với con trai ông chủ 
				hiệu ảnh. Quỳnh nói tiếng Anh c̣n bập bơm nhưng lại cực kỳ giỏi 
				về màu sắc, cô dạy cho tôi thủ thuật in tùy chỉnh c̣n nhiều hơn 
				tôi có thể học từ bất kỳ lớp học nào (mà rốt cuộc là c̣n nhiều 
				hơn những ǵ tôi học được thật, 
				khi cuối cùng tôi cũng đă vào trường nhiếp ảnh). Hằng ngày trong 
				khi quan sát các ngón tay mảnh dẻ thoăn thoắt đặt phim lên rồi 
				vặn những chiếc nút trên mấy cái máy, tăng thêm một chút màu 
				vàng, giảm bớt đôi phần sắc xanh để có được bức h́nh ưng ư nhất, 
				tôi cảm thấy yêu hơn biết bao công việc ḿnh vừa lựa chọn.
 Cuộc đời của tôi đang diễn ra như thế vào cái ngày tôi 
				nhận được tờ giấy triệu tập làm bồi thẩm viên quái quỷ đó. Mặc 
				dù vẫn c̣n rất nghèo, tôi luôn cảm thấy đầy đủ, hạnh phúc, ngập 
				tràn hy vọng, thế nên tôi không quá lo lắng khi phải tŕ hoăn 
				công việc (và thu nhập) để thực hiện trách nhiệm trong một bồi 
				thẩm đoàn. Tuy nhiên Margot gợi ư tôi xin lời khuyên của Andy 
				xem làm sao để được miễn trừ trách nhiệm, lúc này anh mới vào 
				năm thứ ba trường luật thuộc đại học Columbia. Thế là tôi gọi 
				cho anh, và anh cả quyết với tôi rằng đó là việc dễ như bỡn.
 “Em không thể nói dối trong lúc sát hạch để tuyển lựa bồi thẩm 
				đoàn,” Andy nói trong khi tôi lắng nghe và ấn tượng với thuật 
				ngữ Latin mà anh sử dụng. “Nhưng em có thể thổi phồng những 
				thành kiến của ḿnh lên. Chỉ cần làm sao ẩn ư được rằng em chẳng 
				ưa ǵ giới luật sư, không tin nổi cớm, và ghét cay ghét đắng bọn 
				nhà giàu. Bất cứ thứ ǵ mà dường như mấy gă trong ṭa án đang 
				muốn nghe.”
 “Được thôi,” tôi nói. “Em thực 
				sự ghét bọn nhà giàu mà.”
 Andy bật cười. Có thể anh cho rằng tôi đang đùa, nhưng chắc hẳn 
				từ Margot, anh cũng biết rơ t́nh trạng túng thiếu triền miên của 
				tôi. Anh hắng giọng rồi nói tiếp với vẻ nghiêm túc, “Khai thác 
				triệt để ngôn ngữ cơ thể cũng là một thủ thuật hay. Làm ra vẻ 
				miễn cưỡng và phiền toái khi phải ở đó. Cứ như thể em đang có 
				việc quan trọng hơn nhiều. Giữ tay luôn khoanh trước ngực. Không 
				ai muốn có một bồi thẩm viên thiếu kiên nhẫn cả.”
 Tôi nói tôi chắc chắn sẽ làm theo lời khuyên của anh. Làm bất cứ 
				điều ǵ để quay trở lại với cuộc sống được lập tŕnh đều đặn – 
				và đống hóa đơn lúc nào cũng đ̣i thanh toán khẩn cấp của tôi.
 Nhưng mọi ư nghĩ ấy tan biến trong thoáng chốc ngay khi tôi nh́n 
				thấy Leo lần đầu tiên, một khoảnh khắc hằn sâu trong tâm trí tôi 
				măi măi.
 Lúc đó trời vẫn c̣n tinh mơ nhưng tôi đă đọc hết nhẵn đống tạp 
				chí trong chiếc túi xách mang theo, đă xem đồng hồ hàng trăm 
				lần, và cũng đă gọi cho Quỳnh từ một bốt điện thoại để tŕnh bày 
				sự việc với cô, thế là tôi lại ngồi vào ghế của ḿnh, lướt mắt 
				khắp một lượt pḥng bồi thẩm, và trông thấy anh đang ngồi chéo 
				góc phía trước tôi, cách chừng vài ba hàng ghế. Anh vừa đọc 
				trang cuối của tờ tạp chí New 
				York Post vừa gật gật đầu theo nhịp điệu của bài hát phát 
				ra từ chiếc Discman của ḿnh, và đột nhiên trong tôi trào lên 
				một sự thôi thúc điên rồ muốn biết xem anh đang nghe ǵ. Chẳng 
				hiểu tại sao, tôi tưởng tượng rằng đó hẳn phải là ban nhạc Steve 
				Miller Band hoặc bộ ba Crosby, Stills và Nash. Những ḍng nhạc 
				rất phong lưu và nam tính thật phù hợp với chiếc quần ḅ mài 
				Levi’s, cái áo nỉ chui đầu và đôi giày Adidas buộc hờ. Lúc anh 
				ngẩng lên liếc nh́n chiếc đồng hồ treo tường, tôi ngắm nh́n nét 
				mặt nghiêng nghiêng của anh. Cái mũi đặc biệt (về sau Margot đặt 
				cho nó cái tên mũi cua ḅ), 
				đôi g̣ má cao, và mái tóc sẫm màu, gợn sóng quặp vào cái cổ có 
				làn da mịn màng màu ô liu. Leo không quá cao lớn , nhưng anh có 
				bờ vai và khuôn lưng rộng trông hết sức vững chăi. Tôi h́nh dung 
				cảnh anh nhảy dây trong một pḥng tập thể h́nh trống trơn, đơn 
				giản, hoặc lúc anh chạy lên bậc tam cấp vào ṭa án, phong cách 
				cực kỳ thể thao, và quyết định rằng anh
				quyến rũ th́ đúng hơn là 
				đẹp trai. Trong đó bao hàm cả phần “Chắc chắn anh ta rất tuyệt 
				khi ở trên giường” của định nghĩa về quyến rũ. Ư nghĩ đó khiến 
				tôi kinh ngạc bởi v́ tôi không có thói quen đánh giá các chàng 
				trai xa lạ theo cái cách đậm màu thể xác đó. Giống như hầu hết 
				phụ nữ, tôi luôn hướng tới việc t́m hiểu con người trước tiên – 
				sự lôi cuốn dựa vào tính cách. Hơn thế nữa, tôi thậm chí c̣n 
				không mang theo ư nghĩ ấy vào những lần ái ân.
				Vẫn chưa.
 Như thể đọc được ư nghĩ của tôi, Leo xoay người trên ghế, ném 
				cho tôi một ánh nh́n hài hước, ranh mănh như muốn nói, “Tôi tóm 
				được cô rồi,” mà cũng có thể chỉ là, “Cái tṛ bồi thẩm viên này 
				vớ vẩn quá, phải vậy không?” Anh có đôi mắt sâu thăm thẳm (thăm 
				thẳm đến nỗi tôi chẳng làm sao nói cho chính xác màu của chúng), 
				bằng cách nào đó chúng tạo nên vẻ bí ẩn dưới ánh đèn huỳnh quang 
				vàng vọt. Tôi lưu giữ ánh nh́n đó trong khoảnh khắc tựa hồ một 
				nhịp nguy hiểm, trước khi làm bộ chú ư vào tay nhân viên đang 
				giải thích ít nhất là đến lần thứ năm về những trường hợp được 
				miễn thực hiện nhiệm vụ v́ lư do sức khỏe.
 Về sau, Leo cứ nói rằng trông tôi lúc đó hết sức bối rối, trong 
				khi tôi kịch liệt phản đối, khăng khăng rằng tôi chẳng tôi chẳng 
				để ư tới anh tẹo nào. Tuy nhiên, chúng tôi đồng thuận rằng đó là 
				khoảnh khắc mà trách nhiệm bồi thẩm viên không c̣n hoàn toàn vớ 
				vẩn nữa.
 Suốt một giờ sau đó, tôi chú ư tỉ mỉ từng cử động nhỏ nhất của 
				Leo. Tôi quan sát anh vươn vai ngáp ngắn ngáp dài. Tôi quan sát 
				anh gập tờ báo lại rồi xếp gọn xuống dưới ghế. Tôi quan sát anh 
				thong dong ra khỏi pḥng rồi quay lại với một gói bánh quy đậu 
				phộng bơ gịn tan và cứ thế ăn tự nhiên, mặc kệ những tấm bảng 
				Không Ăn Uống dán khắp xung quanh pḥng. Anh không nh́n lại tôi 
				lấy một lần, nhưng tôi có cảm giác anh biết rơ tôi đang quan sát 
				anh, và điều đó khiến tôi run rẩy lạ thường. Tôi không định gọi 
				nó bằng những điều dớ dẩn như yêu từ cái nh́n đầu tiên – tôi 
				không tin vào những thứ như thế - nhưng tôi biết ḿnh đă bị mê 
				hoặc theo một cách vô tiền khoáng hậu, không tài nào cắt nghĩa 
				nổi.
 Và rồi nàng thánh nữ bảo hộ bồi thẩm viên đă ban phước cho lời 
				cầu nguyện của tôi. Tên chúng tôi được gọi, cùng với một loạt 
				cái tên khác, và rốt cuộc chúng tôi được xếp ngồi sát cạnh nhau 
				chỉ cách vài phân trong cùng một bồi thẩm đoàn. Chẳng có ǵ vĩ 
				đại hay hào nhoáng hay lăng mạn kiểu phim ảnh nơi căn pḥng xử 
				án nhỏ bé ấy, tuy nhiên vẫn có cảm giác như thể một điều ǵ đó 
				nghiêm trang và trịnh trọng sắp sửa xảy ra, một cảm giác khiến 
				cho việc ngồi sát bên Leo trở nên hết sức thân t́nh. Từ khóe 
				mắt, tôi có thể thấy cánh tay anh chằng chịt những đường gân 
				xanh, và tôi ngạc nhiên với nỗi khát khao rung động khiến tôi 
				nhớ lại khi phải ḷng Matt thời trung học, nhớ lại tâm trạng 
				phởn phơ một sáng nọ khi ngồi cạnh Matt trong hội trường ẩm mốc 
				suốt giờ giảng chán ngắt về tất cả những con đường mà ma túy có 
				thể phá hủy cuộc sống của chúng ta. Tôi nhớ ḿnh đă ch́m đắm 
				trong hương nước hoa Aramis sực nức của Matt (thứ mùi mà đến giờ 
				tôi vẫn c̣n có thể nhận ra giữa đám đông) và cười phá lên với 
				những câu đùa lém lỉnh của chàng về tất cả các cách mà thật ra 
				cần sa có thể nâng đỡ 
				cuộc đời ta. Nghĩ kỹ th́, Leo gần như một bản sao lớn tuổi hơn 
				của Matt, điều đó khiến tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng tôi thực 
				sự có một h́nh mẫu chàng trai trong ḷng, mặc dù tôi luôn khăng 
				khăng cả quyết với Margot điều ngược lại. Nếu đúng vậy th́ anh 
				đích thị là h́nh mẫu ấy. Thế rồi khi tôi đang miên man nghĩ đến 
				điều đó, tay ủy viên công tố hướng sự chú ư tới Leo và nói với 
				một điệu bộ tươi vui thái quá. “Bồi thẩm viên số Chín. Xin 
				chào.”
 Leo gật đầu đáp lại với vẻ xa cách nhưng kính trọng.
 “Ngài sống ở đâu?” tay công tố viên hỏi.
 Tôi ngồi thẳng dậy trên ghế, mong rằng giọng nói của anh sẽ 
				tương hợp với vẻ bên ngoài. Sẽ chẳng có ǵ tệ hơn giọng nói lóe 
				chóe, đi kèm với hai cổ tay lẻo khẻo, đôi bờ vai xuôi xị và cái 
				bắt tay yếu xèo ở một gă đàn ông.
 Tất nhiên, Leo không làm tôi thất vọng. Anh đằng hắng rồi cất 
				tiếng với giọng nói trầm ấm, tự tin mang ngữ âm New York chuẩn. 
				“Morningside Heights.”
 “Ngài sinh trưởng ở đó à ?”
 “Không, tôi đến từ Astoria,” Leo nói. “Sinh ra và lớn lên ở 
				đấy.”
 Oa! Vùng Queens! Tôi 
				thầm tán thưởng, bởi v́ khi ấy tôi đă bắt đầu thực sự yêu những 
				vùng ngoại ô. Có thể bởi Brooklyn, Bronx và Queens gợi cho tôi 
				nghĩ tới quê nhà – mảnh đất của người dân lao động với sự gần 
				gủi tin yêu. Cũng có thể bởi v́ những bức ảnh tôi chụp ở xa vùng 
				trung tâm giàu có của New York luôn luôn hấp dẫn hơn nhiều.
 Công tố viên tiếp tục, hỏi Leo làm nghề ǵ, trong khi tôi thầm 
				nghĩ cuộc sát hạch tuyển lựa bồi thẩm đoàn c̣ thú vị hơn cả buối 
				hẹn ḥ đầu tiên. Một ai đó đặt câu hỏi trong khi ta được nghe 
				lén. Và anh chàng của ta phải nói sự thật.
				Quá hoàn hảo.
 “Tôi là một người viết… Một phóng viên,” Leo nói. “Tôi quản lư 
				vài chuyên mục cho một tờ báo nhỏ.”
 Hoàn hảo, tôi lại nghĩ. 
				Tôi h́nh dung ra cảnh anh lang thang trên những con phố với cuốn 
				sổ gáy xoắn trên tay và tṛ chuyện với những người trung niên 
				trong mấy quán bar tối tăm vào giữa buổi chiều để viết một bài 
				về việc New York đang đánh mất tất cả bản sắc và truyền thống 
				như thế nào.
 Và cuộc trao đổi tiếp tục như vậy một lúc, trong khi tôi rung 
				động trước những câu trả lời của Leo bởi những điều anh nói cũng 
				như bởi gương mặt lạnh lùng mà vô cùng biểu cảm của anh. Tôi 
				nghe thấy rằng anh học đại học được ba năm th́ phải nghỉ v́ 
				“không c̣n tiền”. Anh chẳng biết một luật sư nào cả, ngọai trừ 
				cậu bạn tên là Vern học cùng tiểu học, “người hiện đang làm luật 
				sư chuyên về các vụ chủ động khuyến khích nạn nhân kiện tụng để 
				kiếm tiền, nhưng cho dù công việc có thế nào th́ anh ta vẫn là 
				người rất tử tế. Không có ǵ đáng để chê trách.” Bố và các anh 
				trai anh là lính cứu hỏa, nhưng anh chẳng bao giờ cảm thấy công 
				việc truyền thống của gia đ́nh “thật sự hấp dẩn”. Anh chưa từng 
				lập gia đ́nh và không có đứa con nào “mà anh được biết”. Anh 
				chưa từng là nạn nhân của vụ ẩu đả nào, “trừ khi ông tính đến 
				những lần thua trong các vụ căi vă với bồ.”
 Với câu nói hài hước sau cùng của Leo, mong mỏi được phóng thích 
				của tôi hoàn toàn biến mất. Thay vào đó, tôi đón nhận trách 
				nhiệm công dân của ḿnh với một cảm giác yêu thích mới mẻ. Khi 
				đến lượt ḿnh trả lời câu hỏi, tôi đă làm tất cả những điều Andy 
				khuyên tôi không nên 
				làm. Tôi tỏ ra vô cùng thân thiện và háo hức được làm vui ḷng 
				mọi người. Tôi trao cho luật sư cả hai bên nụ cười nhiệt t́nh 
				nhất của ḿnh, cho họ thấy tôi là một bồi thẩm viên lư tưởng, 
				khoáng đạt tới chừng nào. Tôi nói qua về công việc của ḿnh, về 
				việc Quỳnh cần tôi cho hiệu ảnh thế nào, nhưng rồi lại tỏ ra cao 
				thượng mà kết luận rằng hệ thống thực thi luật pháp và Hiến pháp 
				làm nền tảng cho hệ thống đó là đáng để cho tôi hy sinh.
 Và rồi trong những ṿng thẩm vấn tiếp theo, khi Leo và tôi vẫn 
				được chọn là bồi thẩm viên số Chín và số Mười, tôi đă rất vui 
				sướng, một cảm giác cứ trở đi trở lại trong suốt sáu ngày lấy 
				lời khai sau đó, bất chấp những chi tiết vô cùng sinh động của 
				vụ đâm người tàn bạo bằng dao xén giấy ở Spanish Harlem. Một gă 
				trai hai mươi tuổi đă chết, c̣n một đứa khác bị đi tù v́ tội 
				giết người, và tôi đă hy vọng rằng việc t́m chứng cớ sẽ kéo dài 
				trước khi ngă ngũ. Tôi không sao cưỡng lại mong mỏi đó. Tôi khao 
				khát có thêm thời gian ở cạnh Leo, thêm cơ hội để tṛ chuyện với 
				anh. Để hiểu con người anh cho tường tận. Tôi cần biết rằng phải 
				chăng sự phải ḷng của tôi – mặc dù từ này có vẻ tầm thường hóa 
				cảm gíac trong tôi lúc đó – đă bắt đầu. Suốt thời gian ấy, Leo 
				tỏ ra thân thiện, nhưng vẫn thật khó tiếp cận. Anh đeo tai nghe 
				bất cứ khi nào có thể, tránh xa các cuộc x́ xào trên hành lang 
				bên ngoài pḥng xử án, nơi những bồi thẩm viên c̣n lại sẳn sàng 
				tào lao bất cứ chuyện ǵ ngoài lề vụ án, anh luôn ăn trưa một 
				ḿnh thay v́ ăn cùng bọn tôi ở hàng cơm sát cạnh ṭa. Sự đề 
				pḥng của anh chỉ càng khiến tôi thích anh hơn.
 Rồi một buổi sáng nọ, ngay trước lúc kết thúc phần tranh luận, 
				khi chúng tôi đang ngồi trên ghế bồi thẩm, Leo quay sang nói với 
				tôi, “Thế đấy.” Rồi anh nở nụ cười chậm răi, chân thành cứ như 
				thể chúng tôi đang có chung một bí mật. Tim tôi xao xuyến lạ. Và 
				rồi, như thể định mệnh, chúng tôi thực sự
				có chung một bí mật.
 Bí mật đó bắt đầu từ suốt các cuộc tranh luận quanh vụ án khi 
				mọi chuyện trở nên rơ ràng rằng Leo và tôi có chung quan điểm về 
				lời khai. Nói tóm lại, cả hai chúng tôi đều thiên về khả năng 
				tuyên bố trắng án hoàn toàn. Hành vi sát nhân không c̣n là vấn 
				đề cần phải tranh luận – bị cáo đă thú nhận và lời khai không bị 
				bác bỏ - vậy nên vấn đề tranh căi duy nhất là có phải anh ta 
				hành động để tự vệ hay không. Leo và tôi đều cho là như vậy. 
				Hay, nói chính xác hơn, chúng tôi nghĩ có hàng đống nghi ngờ đối 
				với những chứng cứ của công tố viên cho rằng anh ta
				không hành động để tự vệ 
				- một sự khác biệt tinh vi mà thật đáng quan ngại là ít nhất nửa 
				tá bồi thẩm viên đă không cảm nhận được. Chúng tôi cứ hết lần 
				này đến lần khác cứ xoáy vào chi tiết bị cáo không hề có tiền án 
				tiền sự (một điều gần như kỳ diệu trong môi trường sống khắc 
				nghiệt của cậu ta), và cậu ta sợ chết khiếp tên nạn nhân (kẻ vốn 
				là tay trùm anh chị khét tiếng ở Harlem và đă đe dọa bị cáo suốt 
				nhiều tháng liền – tới mức cậu ta đă phải nhờ đến sự bảo vệ của 
				cảnh sát). Và cuối cùng, bị cáo mang theo dao xén giấy là hành 
				động b́nh thường đối với công việc của bị cáo tại một công ty 
				vận chuyển. Tất cả những điều này đă gia cố cho niềm tin của 
				chúng tôi rằng bị cáo đă quá khiếp đảm khi bị nạn nhân và
				ba gă tay chân trong 
				băng đảng của hắn dồn vào chân tường, và đă ra tay trong t́nh 
				trạng tự vệ một cách hoảng loạn. Đó dường như là một kịch bản 
				đáng tin cậy – và hoàn toàn đáng tin cậy tới mức đủ để nghi ngờ 
				chứng cứ của công tố viên.
 Sau ba ngày dài loay hoay giữa những ṿng luẩn quẩn ngày càng 
				phức tạp thêm, chúng tôi vẫn c̣n vướng mắc với những thành viên 
				c̣n lại của đoàn bồi thẩm, tất cả chúng tôi cùng bị giam lỏng 
				khốn khổ trong nhà nghỉ Ramada tồi tàn ở gần sân bay JFK. Chúng 
				tôi được phép xem ti vi – hẳn là vụ án không đáng để đưa tin 
				trên truyền h́nh – nhưng chúng tôi không được phép gọi ra ngoài 
				, cũng không được thảo luận với nhau về vụ án ngoại trừ trong 
				các cuộc tranh luận chính thức tại pḥng bồi thẩm.
 Thế nên một đêm, khi điện thoại pḥng khách sạn của tôi đổ 
				chuông, tôi đă rất ngạc nhiên tự hỏi đó có thể là ai, và âm thầm 
				mong rằng đó là Leo. Có thể anh ấy đă ghi nhớ số pḥng của tôi 
				trên đường chúng tôi trở lại khách sạn sau bữa tối chung có sự 
				giám sát của chấp hành viên ṭa án hôm đó. Tôi với tay ṃ chiếc 
				điện thoại và khẽ a lô vào ống nói.
 Leo đáp lại bằng tiếng chào th́ thầm. Rồi anh nói như thể đang 
				có chút bối rối, “Bồi thẩm viên số Chín. Leo đây.”
 “Tôi biết,” tôi nói, cảm thấy máu dồn từ năo xuống khắp tứ chi.
 “Nghe này,” anh nói (sau ba ngày tranh luận, tôi đă biết anh 
				thường bắt đầu câu nói với từ “nghe này”, một thói quen mà tôi 
				rất thích). “Tôi biết là tôi không được phép gọi cho cô… nhưng 
				mà tôi sắp phát rồ rồi đây…”
 Tôi không chắc anh có ư ǵ khi nói vậy – phát rồ v́ bị giam lỏng 
				hay phát rồ v́ si mê tôi. Tôi nghĩ hẳn phải là vế trước . Vế sau 
				th́ quá tuyệt vời để có thể trở thành sự thật.
 “Vâng. Tôi hiểu ư anh,” tôi nói, cố gắng giữ giọng b́nh tĩnh. 
				“Tôi vẫn cứ không thể ngừng nghĩ đến lời khai. Thật là phát điên 
				lên được.”
 Leo thở ra trong điện thoại và nói sau một khoảng im lặng kéo 
				dài, “Ư tôi là chẳng phải quá tệ hay sao khi để một tá những kẻ 
				ngốc nghếch quyết định số phận của ta?”
 “Một tá kẻ khờ dại ?” 
				tôi nói, cố gắng tỏ ra vui vẻ, dễ thương. “Nói về ḿnh thế đấy 
				à, anh bạn.”
 Leo phá lên cười, trong khi đó tôi nằm trên giường, ḷng dạt dào 
				cảm xúc.
 Rồi anh nói, “Okay. Mười 
				kẻ ngốc nghếch. Hay chắc chắn chí ít cũng là tám.”
 “Phải,” tôi nói. “Tôi cũng nghĩ thế.”
 “Tôi nói nghiêm túc 
				đấy,” anh tiếp tục. “Cô có thể tin tưởng mấy người đó không chứ? 
				Phân nửa trong số họ chẳng có tí đầu óc thông thoáng nào – nửa 
				c̣n lại th́ là những kẻ khờ không có tí chính kiến chỉ biết ba 
				phải theo mấy tay bạn cùng ăn trưa.”
 “Tôi cũng nghĩ thế,” tôi lặp lại, tự thấy câu đó thật ngớ ngẩn. 
				Tôi không tin nổi cuối cùng chúng tôi cũng có một cuộc tṛ 
				chuyện thật sự. Và khi ấy, nằm trong bóng tối, trùm chăn kín 
				mít, tôi cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Tôi nhắm mắt, tưởng tượng 
				ra h́nh ảnh Leo trên giường. Tôi không thể tưởng tượng được ḿnh 
				lại ham muốn một người hoàn toàn xa lạ đến thế.
 “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này,” Leo nói, “nhưng nếu bị xét 
				xử tại ṭa th́ tôi thà phải đối mặt với quan ṭa c̣n hơn là với 
				một bồi thẩm đoàn.”
 Tôi đáp rằng tôi hẳn phải đồng ư với điều đó thôi.
 “Quỷ thật. Tôi thà có một tay quan ṭa
				chuyên ăn của đút nhận 
				hối lộ từ bọn đối thủ của tôi c̣n hơn phải chịu đựng một hội dở 
				hơi thế này.”
 Tôi bật cười khi anh bắt đầu pha hài về những giai thoại ngoài 
				lề c̣n thái quá hơn mấy gă trong ban bồi thẩm đă kể cho nhau 
				nghe. Anh nói đúng. Đây lại là một sự ngoại lề tiếp nối các sự 
				ngoài lề trong căn pḥng khép kín với thế giới bên ngoài đó – 
				một cuộc tranh luận về chuyện đời sống chẳng có chút liên quan 
				nào tới phiên ṭa.
 “Một số người chỉ thích nghe bản thân nói thôi,” tôi nói. Và rồi 
				bồi thêm: “Anh dường như chẳng thuộc số họ, Ngài Tách Biệt ạ.”
 “Tôi không tách biệt,” Leo đáp trả một cách yếu ới.
 “Có đấy,” tôi nói. “Ngài-Đeo-Tai-Nghe để không phải tṛ chuyện 
				cùng ai cả ạ.”
 “Tôi đang nói đấy thôi,” Leo nói.
 “Cũng đến lúc rồi đấy,” tôi nói, thầm nghĩ thật dễ dàng biết bao 
				để có thể dũng cảm trong bóng tối, bên ống nghe điện thoại.
 Một khoảng im lặng kéo dài trong cảm giác ấm áp lẫn ngại ngùng. 
				Rồi tôi chợt nhận ra chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn nếu Chester, 
				tay chấp hành viên ṭa án lúc nào cũng kè kè như bảo mẫu, phát 
				hiện ra chúng tôi đang nói chuyện điện thoại. Mà lại c̣n về 
				phiên ṭa nữa chứ, thật đáng ngạc nhiên.
 “Phải, chúng ta nên thế,” Leo nói. Rồi anh chầm chạp nói thêm 
				đầy thận trọng, “Và tôi cá rằng chúng ta c̣n có nhiều chuyện hay 
				hơn nữa nếu tôi đến chỗ cô ngay bây giờ, nhỉ?”
 “Ǵ cơ?” tôi hỏi, mặc dù tôi đă nghe thấy điều anh nói, rất to 
				và rơ ràng.
 “Tôi đến chỗ cô nhé?” anh hỏi lại, giọng nói có chút khêu gợi.
 Tôi ngồi bật dậy, vuốt ve tấm chăn quấn quanh ḿnh. “Chester th́ 
				sao?” tôi hỏi, cảm thấy giọng nói của ḿnh thật yếu ớt.
 “Ông ta đi ngủ rồi. Các pḥng đều yên ắng. Tôi kiểm tra rồi.”
 “Thật sao?” tôi hỏi. Tôi chẳng nghĩ ra cái ǵ khác để nói.
 “Thật. Đúng thế… Vậy?”
 “Vậy?” tôi lặp lại.
 “Vậy tôi có thể đến chỗ cô được chứ? Tôi chỉ… muốn nói chuyện. 
				Trực diện. Một ḿnh.”
 Tôi không thật sự tin đó là tất cả những ǵ Leo muốn – phần lớn 
				trong tôi mong rằng đó là sự thật. Tôi nghĩ bề muôn vàn rắc rối 
				mà chúng tôi sẽ mắc phải nếu cả hai bị phát hiện đang ỡm ờ nhau 
				trong khi giữ vai tṛ bồi thẩm viên, và nghĩ đến chuyện v́ trách 
				nhiệm với bị can chúng tôi phải tôn trọng các quy định – hành 
				động khinh suất của chúng tôi có thể dẫn đến một vụ xét xử sai 
				thủ tục. Tôi nghĩ đến chiếc áo phông hiệu Steelers và cái quần 
				cotton thiếu hấp dẫn đến chừng nào và tôi cũng không có bộ nào 
				khá hơn trong chiếc va li nhét vội nhét vàng của ḿnh. Tôi suy 
				nghĩ theo lối tư duy truyền thống của phụ nự rằng nếu tôi đồng ư 
				– và rồi điều ǵ quả thực 
				xảy ra – vậy th́ Leo có thể sẽ đánh mất ḷng tôn trọng đối với 
				tôi, và chúng tôi sẽ kết thúc trước khi kịp bắt đầu.
 Thế nên tôi mở miệng, sẵn sàng nói câu phản đối, hoặc chí ít ra 
				cũng là một lời chối quanh. Nhưng thay v́ thế, tôi th́ thào một 
				từ vâng khôn cưỡng vào 
				điện thoại. Đó sẽ lần đầu tiên trong muôn vàn lần tôi không thể 
				nói không với Leo.
 
 Chương 5
 
 Trời đă tối mịt khi tôi rẽ vào khu nhà yên tĩnh nằm giữa 
				những hàng cây của chúng tôi ở Murray Hill. Andy đến tận tối 
				muộn mới về nhà, nhưng riêng với lần này th́ tôi không phiền 
				ḷng về những giờ anh buộc phải làm thêm ở hăng luật hàng đầu 
				của ḿnh. Tôi sẽ có thời gian tắm gội, thắp lên vài ngọn nến, mở 
				một chai rượu và t́m kiếm bản nhạc hoàn hảo để xua đi những dấu 
				vết của quá khứ cuối cùng khỏi tâm trí ḿnh, một bản thật vui 
				tươi nào đó không mảy may dính dáng tới Leo. “Dancing Queen” sẽ 
				cực kỳ hợp lư đấy, tôi nghĩ rồi mỉm cười với chính ḿnh. Tuyệt 
				đối không có ǵ thuộc về ABBA gợi nhắc đến Leo. Dù sao đi nữa, 
				tôi muốn đêm nay hoàn toàn thuộc về Andy và tôi. Thuộc về
				chúng tôi.
 Khi băng qua màn mưa lạnh giá bước vào lối đi lát đá cát kết màu 
				nâu đỏ, tôi thở sâu thư giăn. Chẳng có ǵ hào nhoáng nơi ṭa nhà 
				này, thế nhưng tôi lại yêu dáng vẻ ấy của nó. Tôi yêu hành lang 
				cũ kỹ sàn gạch hoa văn dích dắc ọp ẹp bước chân và chùm đèn bằng 
				đống thau khẩn thiết chờ được kỹ càng đánh bóng. Tôi yêu tấm 
				thảm thổ cẩm Đông phương thoang thoảng mùi băng phiến. Tôi yêu 
				cả cái thang máy bé tí, ́ ạch, đe dọa người ta với một không 
				gian kín bưng lúc nào cũng cơ hồ sắp sửa tiêu đời. Trên tất cà, 
				tôi yêu cái thực tế rằng nó là tổ ấm đầu tiên của chúng tôi.
 Đêm nay tôi chọn đi cầu thang bộ, sải bước hai bậc một trong khi 
				tưởng tượng đến ngày nào đó trong tương lai xa Andy và tôi trở 
				lại nơi đây với lũ nhóc rồi-sẽ-chào-đời của chúng tôi. Dẫn các 
				con đi một ṿng khắp “nơi đầu tiên ba mẹ chung sống”. Nói với 
				chúng, “Thế đấy, với tiền bạc gia đ́nh nhà nội lẽ ra ba mẹ có 
				thể sống ở một ṭa nhà cao cấp sang trọng ở khu Thượng Đông ấy 
				chứ, nhưng ba các con chọn nơi đây, giữa một không gian yên 
				tĩnh, bởi v́ chỗ này cá tính hơn nhiều… Cũng hệt như chuyện bỏ 
				qua tất cả kiều nữ miền Nam biếc xanh ánh mắt, ba các con đă 
				chọn mẹ vậy.”
 Tôi bước lên tầng bốn, lục t́m ch́a khóa, và khi xoay ch́a th́ 
				giật ḿnh nhận ra Andy đang chờ tôi trong nhà. Một sự ngạc 
				nhiên. Tôi cảm thấy nửa ngại ngần, nửa xấu hổ khi đẩy cửa, đưa 
				mắt qua dăy kệ bếp liếc vào pḥng khách, và thấy chồng tôi đang 
				nằm dài trên trường kỷ, đầu tựa lên chiếc gối ôm màu cam. Anh đă 
				cởi áo khoác và cà vạt bỏ dưới sàn nhà và mở cúc cổ chiếc áo sơ 
				mi xanh. Thoạt đầu tôi tưởng anh đă ngủ, nhưng rồi tôi thấy một 
				ngón chân trần của anh rung rung khi đĩa nhạc chuyển qua bài
				As it của Ani DiFranco. 
				Đó là bản nhạc từ chiếc CD của tôi, và tôi đoán dàn âm thanh đă 
				được cho chạy ở chế độ chọn bài ngẫu nhiên v́ bài hát đó hoàn 
				toàn khác xa với những bài vui nhộn trong Top 40 quen thuộc của 
				Andy (hay kiểu nhạc đồng quê rộn ràng của anh). Andy chẳng bao 
				giờ biện bạch về gu âm nhạc của ḿnh, và mỗi khi tôi nghe những 
				bản nhạc mà tôi say đắm, như của Elliott Smith hay Marianne 
				Faithfull, anh sẽ trợn mắt lên trước những giai điệu quá chừng 
				xáo động đó và kêu lên “Xin lỗi chứ anh đến phải kiếm ít thuốc 
				độc để uống mất thôi.” Nhưng mặc cho gu âm nhạc khác xa nhau, 
				anh chẳng bao giờ buộc tôi phải tắt hay chuyển nhạc. Andy hoàn 
				toàn không phải kiểu người ưa điều khiển. Một luật sư Manhattan 
				với tâm hồn vô ưu, khoáng đạt và thoải mái trẻ thơ.
 Trong một lúc lâu, tôi ngắm nh́n Andy nằm đó giữa ánh đèn màu hổ 
				phách ấm áp và trong ḷng tôi tràn ngập một cảm giác chỉ có thể 
				gọi là nhẹ nhơm. Nhẹ nhơm v́ tôi đă chọn nơi này, v́
				đây chính là cuộc đời 
				tôi. Khi tôi tiến thêm vài bước về phía chiếc trường kỷ, đôi mắt 
				nhắm hờ của Andy mở ra. Anh ngồi thẳng dậy, mỉm cười rồi nói, 
				“Chào, em yêu.”
 “Chào anh,” tôi nói và rạng rỡ cười đáp lại anh khi thả chiếc 
				túi xách xuống chiếc bàn ăn h́nh tṛn mà chúng tôi mua từ một 
				khu chợ trời ở Chelsea. Margot và mẹ cô ghét cay ghét đắng nó 
				cũng hệt như họ chẳng ưa ǵ những món đồ trang trí linh tinh 
				choán hết mọi bề mặt không gian c̣n trống trong căn hộ chúng 
				tôi. Một con khỉ bằng vỏ dừa đeo cặp gọng kính thép chễm chệ 
				trên bậu cửa sổ. Chuỗi hạt từ dịp lễ Mardi Gras vừa rồi treo 
				lủng lẳng trên cây máy tính của chúng tôi. Một bộ sưu tập những 
				lọ đựng muối và hạt tiêu h́nh con giống bày tràn trên khắp quầy 
				bếp. Tôi c̣n gọn gàng và ngăn nắp gấp bội Andy, nhưng về căn bản 
				chúng tôi đều là những con chuột thích nhặt nhạnh đồ lặt vặt – 
				Margot vẫn thường đùa rằng đó là mối nguy hiểm duy nhất khi 
				chúng tôi sống với nhau.
 Andy thở dài ngồi dậy, duỗi chân xuống sàn. Rồi anh liếc qua 
				đồng hồ đeo tay và nói, “Em không gọi. Không nhắn. Em đă ở đâu 
				suốt cả ngày vậy? Anh đă cố gọi di động cho em mấy lần…”
 Giọng nói của anh nhẹ nhàng – không hề có ư buộc tội – nhưng tôi 
				vẫn thấy cảm giác run run như có lỗi khi đáp, “Đi loanh quanh. 
				Lang thang trong mưa. Điện thoại của em không hoạt động.”
 Tất cả đều là sự thật, 
				tôi nghĩ. Nhưng tôi vẫn biết ḿnh đang giấu chồng một điều, và 
				rồi lập tức cân nhắc giữa việc xem xét lại lời thề giữ bí mật 
				của ḿnh với việc sẽ kể cho anh nghe tất cả mọi điều. Những ǵ
				thực sự đă xảy ra hôm 
				nay. Anh chắc chắn sẽ phiền ḷng – và có lẽ một chút tổn thương 
				nếu biết tôi đă để Leo đến gặp ḿnh ở quán ăn đó. Tôi cũng sẽ 
				cảm thấy như thế nếu Andy để cho một cô bạn gái cũ tới cùng uống 
				cà phê trong khi anh có thể gần như dễ dàng từ chối. Sự thật đó 
				có thể khởi đầu một cuộc tranh luận – lần đôi co đầu tiên
				trong hôn nhân của chúng 
				tôi.
 Mặt khác th́, không có vẻ ǵ là Andy cảm thấy bị đe dọa bởi Leo 
				hay cảm thấy thù địch đối với anh ấy. Andy chỉ là làm lơ Leo 
				theo đúng cái lối tự nhiên, thông thường mà hầu hết tất cả mọi 
				người vẫn đối xử với người cũ đặc biệt nhất của người đặc biệt 
				của ḿnh. Với một sự kết hợp nhẹ nhàng của ghen tuông và cạnh 
				tranh đă dần mờ theo thời gian. Thực sự th́, Andy là người thoải 
				mái đến nỗi chắc hẳn anh sẽ 
				chẳng có bất cứ cảm giác nào như vậy nếu tôi không mắc 
				sai lầm khi đă quá bộc toạc trong một lần tṛ chuyện vào lúc 
				khuya muộn thời gian đầu ḥ hẹn của chúng tôi. Nhất là, tôi đă 
				sử dụng từ cuồng nhiệt 
				để diễn tả chuyện giữa tôi và Leo. Đây dường như không có vẻ là 
				tiết lộ động trời ǵ v́ tôi đoán Margot đă kể cho anh nghe điều 
				này điều kia về Leo và tôi, nhưng tôi lập tức nhận ra chuyện này 
				hoàn toàn mới lạ với Andy khi anh trở ḿnh trên giường để nh́n 
				thẳng vào mặt tôi, đôi mắt xanh của anh lóe lên một ánh nh́n tôi 
				chưa bao giờ thấy.
 “Cuồng nhiệt?” anh nói với vẻ bị tổn thương. “Chính xác theo ư 
				em th́ cuồng nhiệt là 
				ǵ?”
 “Ôi, em không biết…” tôi nói.
 “T́nh dục cuồng nhiệt?”
 “Không,” tôi vội nói. “Không giống như
				thế.”
 “Vậy giống như hai người chia sẻ
				tất cả thời gian bên 
				nhau? Mọi buổi đêm và mọi giờ dạo bộ?”
 “Không,” tôi lại nói. Mặt tôi nóng ran với cảm giác xấu hổ lạ 
				lùng khi tôi nhớ lại cái đêm Margot buộc tội tôi đă bỏ rơi cô v́ 
				Leo. Buộc tội tôi thuộc kiểu con gái luôn đặt người yêu lên trên 
				t́nh bạn. Mà lại là người đàn 
				ông không đáng tin cậy chẳng mảy may có ư định kết hôn, 
				cô nói thêm một cách phẫn nộ. Ngay cả lúc ấy, đâu đó trong sâu 
				thẳm, tôi biết Margot hẳn là có lư, nhưng bất chấp cảm giác tội 
				lỗi và óc suy xét của ḿnh, tôi vẫn không thể ngăn bản thân lại 
				được. Nếu Leo muốn gặp tôi, tôi lập tức bỏ rơi tất cả mọi thứ - 
				cũng như bỏ rơi tất cả mọi người khác.
 “Vậy th́ là cái ǵ?” Andy thúc giục. “Em yêu anh ta như trời như 
				biển à?” Giọng anh kéo dài đầy giễu cợt, nhưng vẻ tổn thương nơi 
				anh vẫn không mất đi.
 “Cũng không phải kiểu cuồng nhiệt đó,” tôi nói, nỗ lực t́m ra 
				một cách trung ḥa và ít cảm xúc nào đó để diễn tả từ
				cuồng nhiệt. Thật không 
				thể làm được điều đó. Chẳng khác ǵ cố thêm nghĩa vui vẻ vào từ
				đau buồn hay nghĩa hy 
				vọng vào từ bi đát.
 Tôi băn khoăn thêm một lúc rồi cuối cùng yếu ớt nói, “Em không 
				có ư là cuồng nhiệt… Em rút lại… Lựa chọn từ như thế thật tệ.”
 Mà quả thật, đó là sự lựa chọn từ ngữ thật tệ. Nhưng chỉ v́ nó 
				là sự thật – cuồng nhiệt chính 
				xác là cảm xúc giữa tôi và Leo. Gần như mọi khoảnh khắc 
				chúng tôi đều chia sẻ cảm xúc cuồng nhiệt, bắt đầu từ chính cái 
				đêm đầu tiên đó trong căn pḥng khách sạn tối om của tôi khi 
				chúng tôi ngồi đan chân trên giường, đầu gối chạm vào nhau, tay 
				trong tay tṛ chuyện cho tới tận b́nh minh.
 “Quá muộn,” Andy nói, cười nhạt và lắc đầu. “Không rút lại. 
				Không thể cắt đoạn đó khỏi cuốn băng được, cô Dempsey ạ.”
 Và thế là nó quá muộn thật 
				rồi.
 Cũng may, Andy không phải là người thích phí công vào một việc 
				vô ích, thế nên từ sau hôm đó cái tên Leo hiếm khi được nhắc 
				lại. Nhưng suốt một thời gian dài, hễ có ai sử dụng từ
				cuồng nhiệt, Andy lại 
				ném về phía tôi một cái nh́n đầy ngụ ư hoặc làm một câu giễu cợt 
				về anh bạn trai cũ “ôi-quá-chừng-mănh-liệt-dai-dẳng” của tôi.
 Giờ tôi không c̣n phải chịu đựng kiểu ḍ xét đó nữa – dù là đùa 
				cợt hay ǵ đó khác. Vả chăng, tôi thầm nghĩ, trong khi cởi áo 
				khóac ra treo lên cây móc áo bằng gỗ, nếu có thể thay đổi được 
				th́ tôi thà không biết lần đụng độ t́nh cờ của Andy với Lucy, cô 
				bạn gái cũ mà anh yêu sâu sắc nhất và lâu nhất, hiện đang dạy 
				lớp ba ở một trường tư rất chúa ở Atlanta. Theo Margot, Lucy vẫn 
				khéo léo, thông minh như thế, lại c̣n vẫn xinh đẹp gấp bội phần 
				minh tinh Salma Hayek. Đó là một lời trích dẫn trực tiếp mà tôi 
				chẳng muốn nghe tới.
 Với biện luận đó, tôi chốt lại rằng giữ kín cái bí mật vặt vănh 
				kia sẽ tốt cho tất cả mọi người. Tôi ngồi phịch xuống trường kỷ, 
				bên cạnh Andy, đặt tay lên chân anh. “Thế sao hôm nay anh lại về 
				nhà sớm vậy?” tôi hỏi anh.
 “V́ anh nhớ em,” anh mỉm cười.
 “Thôi đi anh,” tôi nói, cảm thấy đau khổ. Tôi thích câu trả lời 
				của anh, nhưng gần như hy vọng rằng lần này anh sẽ đưa ra nhiều 
				lư do hơn thế. “Anh chẳng bao 
				giờ về nhà sớm thế.”
 “Anh đúng là có nhớ em thật 
				mà,” anh cười lớn. “Nhưng cũng v́ vụ án của anh kết thúc rồi.”
 “Tuyệt quá,” tôi nói. Tôi biết anh sợ những lần làm việc dài 
				dằng dặc khi có một vụ phức tạp đến mức nào. Tôi cũng sợ những 
				giờ đó.
 “Ừ. Đúng là nhẹ cả người. Anh phải ngủ miết mất thôi… Nhưng dù 
				sao, anh đang nghĩ hay là ḿnh thay đổi không khí và đi ra ngoài 
				ăn tối. Có thể nơi nào đó tuyệt một chút. Em thích đâu nào?”
 Tôi nh́n ra ngoài cửa sổ rồi nói, “Có lẽ giờ hơi muộn rồi… Trời 
				đă tối sầm ngoài kia… Em nghĩ em chỉ muốn như thế này một lúc.” 
				Tôi nở nụ cười quyến rũ khi hất đôi bốt ra, nép ḿnh vào ḷng 
				anh và ngước nh́n. Tôi trườn lên hôn vào cằm anh, rồi hôn vào cổ 
				anh.
 Andy mỉm cười , nhắm mắt và thầm th́ một câu sững người, “Chuyện 
				ǵ xảy ra vậy trời?”
 Đó là một trong những câu cảm thán thân thương của anh mà tôi ưa 
				thích nhất. Nhưng trong khoảnh khắc này, nó lại gợi lên trong 
				ḷng tôi một chút lo lắng. Phải chăng khúc âu yếm dạo đầu này 
				của tôi thực sự có nghĩa là 
				Chuyện ǵ xảy ra vậy trời. Chẳng lẽ chúng tôi không cứ 
				thế mà bước vào cuộc ái ân một cách hết sức tự nhiên sao? Tôi 
				căng óc cố t́m xem gần đây có lần nào thú vị kiểu đấy không, 
				nhưng thật thất vọng, tôi không nghĩ ra lần cuối chúng tôi quan 
				hệ ở một nơi nào khác hơn là trên giường vào giờ đi ngủ. Tôi tự 
				nhủ là điều đó hoàn toàn b́nh thường đối với các cặp đă kết hôn 
				– kể cả với những đôi vợ chồng 
				hạnh phúc. Andy và tôi có thể không xoắn lấy nhau lăn lộn 
				khắp các pḥng trong nhà, nhưng cũng đâu nhất thiết phải thỏa 
				măn nhau bằng mọi cách kể cả trên giá bếp hay dưới sàn gỗ cứng 
				để có được cuộc giao tiếp thể xác điên cuồng. Xét cho cùng, ân 
				ái trên những bề mặt thô cứng có thể trông nóng bỏng trên màn 
				ảnh, chứ trong đời thật th́ như thế thật không thoải mái, kỳ cục 
				và chẳng thực tế tí nào.
 Dĩ nhiên đă có một lần như vậy 
				với Leo trong văn pḥng của anh…
 Tôi nổ lực trong vô vọng đẩy lùi kư ức ra khỏi trí óc bằng cách 
				hôn Andy một lần nữa, lần này là trên môi anh. Nhưng hệt như thể 
				khi ta nổ lực để không nghĩ tới một điều ǵ, h́nh ảnh của nó chỉ 
				càng hiển hiện sống động hơn. Và thế là, đột nhiên, tôi đang làm 
				một việc không thể tưởng tượng nổi. Tôi đang hôn chồng tôi trong 
				khi h́nh dung ra người đàn ông khác. H́nh dung ra
				Leo. Tôi hôn Andy nồng 
				nàn hơn, tuyệt vọng xóa mờ khuôn mặt và đôi môi của Leo. Nhưng 
				chẳng thể được. Tôi chỉ càng hôn Leo cuồng nhiệt hơn. Tôi cởi 
				nút áo sơ mi của Andy rồi vuốt lên ngực và bụng anh. Tôi tự cởi 
				áo len của ḿnh. Chúng tôi ôm gh́, da thịt liền nhau. Tôi gọi 
				tên Andy thật lớn. Leo vẫn ở đây. Cơ thể Leo kề sát cơ thể tôi.
 “Ôi, Ellen,” Andy rên nhẹ, những ngón tay vuốt dọc lưng tôi.
 Những ngón tay nóng bỏng của Leo đang bấu chặt vào lưng tôi một 
				cách khẩn thiết điên cuồng.
 Tôi mở mắt và bảo Andy nh́n tôi. Anh làm theo.
 Tôi nh́n vào mắt anh và nói, “Em
				yêu anh.”
 “Anh cũng yêu em,” anh nói hết sức ngọt ngào. Lời nói của anh 
				thẳng thắn, chân thành và tha thiết. Gương mặt anh là gương mặt 
				tôi yêu.
 Tôi nhắm chặt mắt, tập trung vào cảm giác cương cứng của Andy 
				dưới đùi tôi. Chúng tôi c̣n mặc nguyên quần, nhưng tôi vẫn áp 
				sát vào Andy, chà xát lên anh, gọi tên anh lần nữa. Tên chồng 
				tôi. Andy. Ngay lúc này 
				đây, không c̣n sự lẫn lộn về người tôi đang ở cùng. Người tôi 
				yêu. Điều này được duy tŕ trong một lúc. Nó vẫn được duy tŕ 
				khi Andy kéo tôi lên giường, nơi nguồn nhiệt lượng bừng bừng của 
				cơ thể hoặc âm ỉ cháy hoặc phun tỏa khắp nơi. Giờ đây căn pḥng 
				thực sự nóng rực lên. Chúng tôi gạt chiếc chăn lông vũ ra và thả 
				ḿnh xuống tấm khăn trải giường mềm mại. Lúc này chúng tôi đă 
				hoàn toàn trút bỏ quần áo. Chiếc giường này là bất khả xâm phạm. 
				Leo đă biến mất. Anh ấy chẳng c̣n tồn tại.
 Nhưng rồi, một lúc sau, khi Andy đang đi vào tôi, tôi lại trở 
				lại trong căn hộ của Leo trong cái đêm phán quyết trắng án cuối 
				cùng cũng được đưa ra. Leo vẫn chưa cạo râu và đôi mắt anh đờ 
				đẫn sau bữa tiệc mừng. Anh ôm tôi điên cuồng và rót nhẹ vào tai 
				tôi, “Anh không chắc với em là ǵ đây, Ellen Dempsey, nhưng anh
				phải có em.”
 Đó cũng là đêm tôi đă hoàn toàn trao ḿnh cho Leo, biết rằng tôi 
				sẽ thuộc về anh chừng nào anh c̣n muốn tôi ở bên tôi.
 Và rồi hóa ra, nó thậm chí c̣n lâu hơn thế nữa.
 
 Chương 6
 
 Sáng hôm sau, Margot gọi điện đến trước khi mặt trời mọc 
				rất lâu, và như lời Andy vẫn than thở th́, trước khi bất cứ 
				người đầu óc b́nh thường nào kịp dậy. Andy hiếm khi bị kích 
				động, nhưng có ba điều luôn khiến anh phát điên: những người cắt 
				ngang lời nói của anh; những tranh luận vớ vẩn về quan điểm 
				chính trị trong các nhóm xă hội, và việc em gái anh gọi điện quá 
				sớm vào buổi sáng.
 “Cái khỉ ǵ vậy?” anh 
				hỏi sau khi điện thoại đổ chuông lần thứ hai. Giọng anh lào 
				khào, đúng như cái giọng mỗi buổi sáng sau khi làm vài cốc bia, 
				đúng như cách chúng tôi kết thúc buổi đêm hôm qua cùng với món 
				bánh burger và khoai tây sợi chiên hảo hạng trong một quán rượu 
				nhỏ trên đại lộ Ba gần nhà. Chúng tôi đă có những giờ khắc vui 
				vẻ, cười đùa c̣n nhiều hơn mọi khi, nhưng bữa tối của chúng tôi 
				cũng chẳng xóa bỏ được thêm chút nào h́nh ảnh của Leo so với lúc 
				ân ái. Anh ấy vẫn cứ dai dẳng bám theo tôi suốt buổi đêm, nhận 
				xét về người đàn ông cáu kỉnh ngồi ở bàn kế sát chúng tôi với 
				giai điệu nhạc nền của Joni Mitchell. Khi uống hết cốc bia thứ 
				ba và nghe Andy kể về chuyện công việc của anh, tôi thấy ḿnh 
				đang trôi về buổi sáng mà Leo nói với tôi rằng gương mặt tôi là 
				thứ anh ưa chuộng nhất trên thế gian này. Anh nói đúng như vậy, 
				một cách tuyệt đối giản dị và không chút màu mè ủy mị. Lúc đó 
				tôi không trang điểm, tóc buộc vổng ra sau, ánh nắng từ cửa sổ 
				pḥng khách của anh chảy tràn trong ánh mắt tôi. Nhưng tôi tin 
				lời anh nói. Tôi có thể khẳng định rằng anh thật ḷng nghĩ như 
				thế.
 “Cảm ơn anh,” tôi nói, hai má ửng đỏ, thầm nghĩ rằng gương mặt 
				anh cũng là thứ tôi vô cùng ưa chuông. Tôi tự hỏi có phải cảm 
				nhận đó, hơn bất kỳ điều ǵ khác, chính là biểu hiện của t́nh 
				yêu đích thực.
 Rồi Leo nói, “Anh sẽ chẳng bao giờ chán ngắm nh́n em… Chẳng bao 
				giờ.”
 Và cũng chính kỷ niệm này, có lẽ là kỷ niệm sâu đậm nhất về Leo, 
				lại một lần nữa tràn ngập trong tâm trí tôi khi tiếng chuông 
				điện thoại tiếp tục reo inh ỏi trong pḥng ngủ. Andy rên rỉ khi 
				thấy người gọi cuối cùng đă bỏ cuộc, chờ vài giây rồi cố gắng 
				gọi lại.
 “Thôi cho nó vào hộp thư thoại đi anh,” tôi nói, nhưng Andy với 
				tay qua người tôi và cầm chiếc điện thoại trên bàn ngủ phía tôi 
				nằm. Để chắc chắn người gọi là ai, anh kiểm tra số điện thoại – 
				một việc làm hoàn toàn không cần thiết. Đó chỉ có thể là Margot. 
				Quả đúng như vậy, tên chồng cô, Webb Buffington, hiện lên trên 
				màn h́nh điện thoại, kèm theo ḍng chữ Atlanta, Georgia, nơi mà 
				họ đă trở về sống vào năm ngoái trong nỗi thất vọng vô cùng của 
				tôi. Tôi đă luôn biết rằng việc Margot chuyển về là điều không 
				tránh khỏi, đặc biệt là sau khi cô gặp Webb, một người cũng đến 
				từ Atlanta. Mặc cho Margot yêu New York và công việc bao nhiêu 
				đi nữa, cô vẫn là một cô gái miền Nam từ trong bản chất, và cô 
				vô cùng mong muốn có tất cả những lề lối truyền thống của lối 
				sống thượng lưu. Hơn thế nữa, Webb, theo đúng cách anh ta nói, 
				đă “Quá ngán thành phố rồi.” Anh ta muốn chơi golf, muốn lái xe, 
				muốn có không gian cho thú vui chơi tṛ điện tử của ḿnh.
 Với những cuộc điện thoại như sáng nay, Margot và tôi vẫn nói 
				chuyện với nhau hằng ngày, nhưng tôi cứ nhớ khoảng thời gian ở 
				bên cạnh cô. Tôi nhớ những bữa ăn cuối tuần và những lần đi uống 
				sau giờ làm việc. Tôi nhớ lúc cùng cô chia sẻ đời sống thành phố 
				- và những người bạn chung. Andy cũng nhớ cô, ngoại trừ những 
				lúc bị quấy rầy như thế này, khi giấc ngủ của anh bị gián đoạn.
 Anh ấn nút nghe bằng ngón tay cái và quát vào điện thoại, “Lạy 
				chúa, Margot. Em có biết bây giờ là mấy giờ không?”
 Tôi có thể nghe thấy giọng nói cao vút của cô, “Em biết. Em
				thật sự xin lỗi, Andy. 
				Nhưng lần này là có lư do chính 
				đáng. Em thề đấy. Chuyển máy cho Ellen đi. Xin anh đấy!”
 “Thậm chí c̣n chưa đến bảy giờ,” anh nói. “Anh đă bảo em bao 
				nhiêu lần đừng đánh thức bọn anh dậy? Rồi th́ điều tử tế duy 
				nhất trong công việc của anh là được đi làm muộn? Em có làm thế 
				này không nếu Ellen cưới một người khác? Và nếu không, sao em 
				không tự hỏi bản thân xem lẽ nào em chẳng thể tôn trọng anh trai 
				ḿnh hơn một chút so với một gă ngẫu nhiên nào đó?”
 Tôi mỉm cười với một gă ngẫu 
				nhiên nào đó, nghĩ rằng sẽ chẳng có gă nào là ngẫu nhiên 
				nếu tôi cưới người đó. Rồi tôi lại nghĩ tới Leo và co rúm người 
				lại, biết rằng anh sẽ chẳng bao giờ chỉ là một gă ngẫu nhiên đối 
				với tôi. Tuy nhiên, tôi hiểu ư Andy, và tôi chắc Margot cũng 
				hiểu, nhưng anh chẳng cho cô ấy có cơ hội trả lời. Thay vào đó 
				anh đưa ống nghe cho tôi và chui tọt đầu dưới gối một cách rất 
				kịch.
 “Chào, Margot,” tôi nói khẽ hết mức.
 Cô xin lỗi một cách chiếu lệ rồi reo lên, “Tớ có
				tin đây!”
 Chính là câu nói ấy, cùng một giọng điệu náo nức, rộn ràng khi 
				cô gọi cho tôi vào cái đêm cô và Webb đính ước. Hay, như Webb 
				vẫn thích nói mỗi khi nhắc lại chuyện cầu hôn của họ, cô gọi cho 
				tôi để nói câu ấy c̣n trước cả khi kịp trả lời đồng ư với anh 
				ta. Đó chỉ là Webb nói quá lên, tất nhiên rồi, mặc dù đúng thực 
				cô đă gọi cho tôi đầu tiên, c̣n trước cả mẹ cô, điều ấy khiến 
				tôi sung sướng theo một cách mà tôi không tài nào diễn tả nổi. 
				Tôi nghĩ đó là một sự bù đắp cho tôi khi không c̣n mẹ, và củng 
				cố niềm tin trong tôi rằng bạn bè có thể thay thế cho gia đ́nh, 
				ngay cả khi không bị mất mát người thân.
 “Chúa ơi, Margot,” giờ th́ tôi nói, đầy sửng sốt và không c̣n 
				bận tâm đến việc làm phiền Andy nữa.
 Andy chui đầu ra khỏi gối và nói bằng giọng hối lỗi, gần như lo 
				sợ, “Nó ổn chứ?”
 Tôi gật đầu vui vẻ xác nhận, nhưng anh trông vẫn có vẻ sợ hăi 
				khi khẽ hỏi, “Chuyện ǵ vậy?”
 Tôi giơ một ngón tay lên. Tôi muốn xác nhận lại, cho dù trong 
				thâm tâm, tôi đă hoàn toàn chắc chắn về thông tin của Margot. 
				Ngữ điệu ấy Margot chỉ dành riêng cho hai chuyện – đám cưới và 
				có em bé. Cô đă có ít nhất ba lần thăng tiến trong quan trọng 
				tại J.Crew mà chẳng hề bận tâm đến chúng. Không phải v́ bản tính 
				khiêm tốn mà Margot chắng hề quan tâm đến công việc tới mức ấy, 
				cho dù cô làm tốt đến bao nhiêu chăng nữa. Có thể là do cô đă 
				biết giới hạn thời gian mà cô tự đặt ra cho ḿnh. Biết rằng một 
				thời điểm nào đó trong độ tuổi ba mươi, cô sẽ chủ động xin nghỉ 
				việc và khai mở một chương mới của cuộc đời, đó là kết hôn, trở 
				về Atlanta và bắt đầu cuộc sống gia đ́nh.
 “Thật sao?” tôi hỏi, 
				ngay lập tức tưởng tượng ra h́nh ảnh Margot với cái bụng tṛn 
				căng, mặc chiếc váy bầu sang trọng.
 “Nó làm sao?” Andy hỏi to.
 Tôi nh́n anh, tự hỏi anh nghĩ chúng tôi có thể đang nói ǵ với 
				nhau kia chứ. Tôi thấy trào dâng niềm yêu thương trước sự băn 
				khoăn ngơ ngác thơ trẻ của anh. Ồ, Andy, cô ấy đang làm món bánh 
				xèo cho bữa sáng. Ồ, Andy, cô 
				ấy đang t́m mua một chiếc piano dành cho trẻ em.
 “Ô la la!” Margot kêu lên. “Tớ có
				bầu rồi. Tớ vừa kiểm tra 
				xong.”
 “Ôi,” tôi thốt lên, cảm thấy tràn đầy phấn chấn mặc dù tôi biết 
				lâu nay hai vợ chồng cô đă rất nỗ lực để có em bé, và rằng 
				Margot hầu như luôn đạt được điều cô muốn, phần nào bởi v́ cô là 
				một người có nhóm máu A kiên tŕ bướng bỉnh. Nhưng chủ yếu bởi 
				v́ cô là người mạnh mẽ, đă muốn ǵ nhất định phải làm cho bằng 
				được. Việc lớn, việc nhỏ, việc nào cũng vậy. Tôi quen biết cô đă 
				mười lăm năm vậy mà lần khó khăn duy nhất đối với Margot tôi 
				từng chứng kiến, lần duy nhất cô phải thực sự vật lộn để vượt 
				qua là khi ông nội cô mất vào năm cuối đại học của chúng tôi. 
				Thật ra người ta đâu thể xem chuyện ông bà qua đời là một nỗi 
				đau khủng khiếp. Ít nhất là không phải thế, một khi ta đă từng 
				chứng kiến bố mẹ mất sớm.
 Tôi nói tất cả điều này về Margot mà không hề có ư oán giận ǵ. 
				Phải, mẹ tôi mất khi bà bốn mươi mốt tuổi, và phải, tôi đă lớn 
				lên với việc phải mặc bộ đồ cũ kỹ trong ngày nhà trường chụp 
				h́nh lưu niệm, nhưng tôi cũng chẳng thể nói rằng cuộc đời của 
				tôi đầy những mất mát cay đắng. Và tôi thực sự có tuổi trưởng 
				thành tốt đẹp, ít nhất là cho tới lúc này. Tôi không thất nghiệp 
				hay mất phương hướng hay dễ ngă ḷng. Tôi không đau khổ hay đơn 
				độc. Vả chăng, dù cho hết thảy những điều đó tồn tại đi nữa th́ 
				tôi cũng tuyệt đối không chút ganh tị với bạn thân của ḿnh. Tôi 
				chẳng bao giờ hiểu nổi những người phụ nữ như thế, những mối 
				quan hệ phức tạp lắm chuyện kiểu đó, vốn dường như vẫn tồn tại 
				rất nhiều trong cuộc sống. Thi thoảng tôi có ghen khi trông thấy 
				Margot với mẹ cô ấy không? Tôi có ước ḿnh có được cảm quan thời 
				trang và sự tự tin và những con dấu trong hộ chiếu của cô không? 
				Có, có chứ. Nhưng dù thế nào đi nữa, điều đó không nói lên rằng 
				có khi nào đó tôi muốn tước đi những thứ thuộc về cô hay cảm 
				thấy tị hiềm với hạnh phúc của cô. Hơn nữa giờ đây tôi đă là 
				người một nhà với cô. Những ǵ thuộc về cô
				đă thực sự cũng thuộc về 
				tôi.
 Thế nên mặc dù thật ra tin tốt lành này không có ǵ là bất ngờ, 
				tôi vẫn ngồi đây tràn ngập vui sướng, choáng váng và sửng sốt. 
				Dù sao đi nữa, có một sự khác biệt to lớn giữa việc
				lên kế hoạch có em bé 
				với chuyện thực sự nhận được kết quả kiểm tra chắc chắn mang 
				bầu. Bởi v́ ta biết rằng mấy tháng nữa thôi ta sẽ trở thành mẹ - 
				hay trong trường hợp của tôi là trở thành bác - của một nhóc t́ 
				nào đó.
 “Chúc mừng cậu,” tôi nói, cảm giác vỡ ̣a.
 “Margot có bầu à?” Andy 
				cuối cùng cũng đoán ra, mắt mở bừng.
 Tôi gật đầu mỉm cười. “Vâng… anh có c̣n bực ḿnh nữa không, Bác 
				Andy?”
 Anh cười rạng rỡ và nói, “Đưa điện thoại cho anh.”
 Tôi trao ống nghe cho anh.
 Anh kêu lên, “Maggie Beth! Em nên nói ngay chứ!”
 Tôi nghe thấy cô đáp, “Anh biết em sẽ nói với Ellen trước tiên 
				mà.”
 “Bỏ qua cả máu mủ của em luôn hả?”
 “Chỉ có một người trong vợ chồng anh vui vẻ nghe điện thoại của 
				em bất cứ lúc nào thôi,” 
				cô nói.
 Andy bỏ qua câu móc máy trêu chọc của cô và nói, “Chúa ơi, tin 
				này tuyệt quá. Anh vui quá, cuối tuần bọn anh sẽ xuống. Anh rất 
				muốn được ôm chặt em một cái.”
 Tôi chộp lại điện thoại và hỏi xem cô đă tính ngày lâm bồn chưa; 
				cô nghĩ đó là bé trai hay bé gái; cô ưng ư cái tên nào rồi; tôi 
				nên tổ chức bữa tiệc mừng cô ở New York hay Atlanta?
 Cô trả lời rằng ngày hai mươi mốt tháng Chín; cô nghĩ là một bé 
				gái; chưa ưng tên nào; và bữa tiệc tổ chức ở đâu cũng tuyệt vời 
				cả.
 “Thế Webb nói ǵ?” tôi hỏi, nhớ ra có một người nữa liên quan 
				tới chuyện này.
 “Anh ấy vui lắm. Ngạc nhiên nữa. Đến hơi lịm đi.” Margot cười 
				lớn. “Cậu có muốn nói chuyện với anh ấy không? Anh ấy đây này.”
 “Có chứ,” tôi nói, mặc dù không có tâm trạng đâu mà nói chuyện 
				với anh ta. Thực ra th́, tôi 
				chẳng bao giờ thích nói chuyện với Webb tuy rằng anh ta 
				lúc nào cũng thân thiện với tôi, có thể nói là hơn bất kỳ chàng 
				trai nào Margot từng hẹn ḥ trước đó. Cô luôn bị lôi cuốn bởi 
				kiểu người kiêu ngạo, và Webb đương nhiên là có rất nhiều tính 
				cách của người kiêu ngạo. Đặc biệt bởi v́ anh ta là một đại diện 
				thể thao gặt hái vô khối thành công và đă từng là một tay quần 
				vợt nhà nghề khá nổi tiếng – ít nhất anh ta cũng nổi tiếng trong 
				giới quần vợt, từng đánh bại Agassi ở ṿng loại. Và bên cạnh 
				tiền bạc cùng sự thành đạt, anh ta c̣n có vẻ ngoài đẹp mă quư 
				phái cổ điển, với mái tóc sáng màu chải chuốt và hàm răng trắng 
				đều tăm tắp tới nỗi mỗi lần anh ta ngửa đầu cười rộng miệng là 
				tôi lại nghĩ đến một đoạn quảng cáo cũ “Chải sạch miệng với kem 
				đánh răng Dentyne nào”. Anh ta có giọng nói sang sảng cùng thân 
				h́nh to lớn – và là kiểu người biết cách đưa ra một bài hùng 
				biện khiến phụ nữ phải nức nở mê ly hay chêm vài lời có cánh vào 
				một chuyện đùa nhạt nhẽo khiến cánh mày râu phải ḥ la. Thế nên, 
				xét trên phương diện nào đó, Webb
				lẽ ra phải là một kẻ 
				bảnh chọe thái quá. Nhưng không phải vậy. Thay vào đó, anh ta là 
				người khiêm tốn, dễ tính và chín chắn.
 Nhưng v́ một lư do nào đó, tôi vẫn cứ không cảm thấy thoải mái 
				khi ở gần anh ta – có lẽ bởi v́ chúng tôi hầu như không có ǵ 
				chung ngoài Margot. Cũng may là tôi chưa khi nào thú nhận chuyện 
				này với cô dạo hai người họ bắt đầu ḥ hẹn - chắc v́ tôi đă nhận 
				ra ngay rằng anh ta là “số Một”. Đó là lần đầu tiên tôi thấy 
				Margot hoàn toàn say mê ai đó không chút lưỡng lự, lần đầu tiên 
				cô yêu thích một người nhiều bằng - thậm chí c̣n nhiều
				hơn - người đó yêu thích 
				cô. Tôi cũng không đề cặp chuyện đó với Andy, có thể bởi v́ anh 
				dường như là một fan cuồng của Webb, cũng có thể bởi v́ tôi 
				không thực sự chắc điều ǵ khiến ḿnh không thoải mái.
 Nhưng tôi có thú nhận cảm xúc của ḿnh với chị gái lần tôi về 
				Pittsburgh chơi cuối tuần, ngay trước hôm đám cưới Margot. Hai 
				chị em ăn trưa ở quán Eat’n Park, nơi thường xuyên lui tới mà 
				chúng tôi đặc biệt yêu thích hồi trung học, và vẫn là lựa chọn 
				mang tính chất t́nh cảm bất cứ khi nào tôi về thăm nhà. Mỗi 
				chiếc bàn đều đầy ắp kỷ niệm, và chúng tôi chọn chiếc bàn sát 
				cửa ra vào nơi gợi nhắc về buổi hẹn ḥ mùa hè trước năm cuối đại 
				học của chị với một anh chàng nay chẳng biết đă đi đâu về đâu; 
				về một tối cha tôi bất ngờ bị chảy máu cam (thoạt tiên chúng tôi 
				lại tưởng đó là nước xốt cà chua); và về lần tôi ăn liền năm cái 
				bánh ḿ xúc xích kẹp thịt ḅ băm trộn ớt trong một vụ cá cược. 
				Khi chúng tôi đánh chén món hamburger Big Boy với hàng đống thứ 
				gia vị, Suzanne hỏi tôi về đám cưới của Margot bằng giọng điệu 
				khinh thị mà tôi khám phá ra rằng dường như luôn luôn xuất hiện 
				mỗi lần chị nói về gia đ́nh Graham - sự khinh thị mà tôi theo 
				tôi bao hàm cả kiểu vô lư vô cớ lẫn tính nhỏ nhen trẻ con. Nhưng 
				bất chấp giọng điệu đó, tôi vẫn có thể nói rằng Suzanne bị 
				Margot hấp dẫn theo đúng cái cách nông nổi không giấu giếm mà 
				chúng tôi thường bị lôi cuốn theo Luke và Laura trong chương 
				tŕnh General Hospital 
				hay Bo và Hope trong bộ phim 
				Days of Our Lives.
 “Thật ngớ ngẩn hết sức,” 
				Suzanne lúc nào cũng nói vậy khi hai chị em ngồi xem các cặp đôi 
				trong những bộ phim dài kỳ yêu thích của chúng tôi. Chị sẽ phùng 
				mang trợn má chỉ ra những điều mâu thuẩn hay phi lư của các cảnh 
				lăng mạn trên màn ảnh, nhưng rồi vẫn cứ ngồi đó, mê mẫn bên 
				chiếc ti vi, chờ đợi hơn nữa.
 Cũng tương tự như vậy, khi chúng tôi đang ăn bánh burger, 
				Suzanne muốn nghe mọi thứ về lễ cưới sắp tới của Margot, cố gắng 
				moi ra một chi tiết kịch tính tiềm tàng nào đó.
 “Đính hôn như vậy chẳng phải ngắn quá sao?” chị hỏi, cặp mày 
				nhíu lại. “Có khi nào cô ấy dính bầu không?”
 Tôi bật cười lắc đầu.
 “Thế sao phải vội vậy?”
 “Họ yêu nhau mà,” tôi nói, nghĩ rằng toàn bộ cuộc t́nh họ giống 
				như một cuốn truyện, tính cả độ ngắn ngủi của nó. Lễ đính hôn 
				của họ c̣n tổ chức trước chúng tôi, mặc dù Andy và tôi bắt đầu 
				hẹn ḥ trước.
 “Nhẫn cưới to cỡ nào?” chị hỏi với vẻ như chỉ trích.
 “To đùng,” tôi nói. “Không màu, tuyệt mỹ.”
 Suzanne tiêu hóa chuyện đó rồi nói tiếp, “Tên
				Webb là cái kiểu ǵ 
				vậy?”
 “Tên họ. Rút gọn của Webster.”
 “Như trên chương tŕnh ti vi chứ ǵ,” chị nói, cười lớn.
 “Phải,” tôi đáp.
 “Em mến anh ta không?” chị hỏi.
 Dựa vào tâm trạng của chị lúc đó th́ tôi nên nói dối mà buông ra 
				một từ có tấp lự, nhưng tôi lại chẳng bao giờ nói dối được với 
				Suzanne. Thay vào đó, tôi nói thật với chị - rằng mặc dù Webb có 
				vẻ là một anh chàng hoàn hảo nhưng tôi không thực sự thích 
				chuyện Margot kết hôn với anh ta. Tôi thấy ḿnh thật ích kỷ đă 
				phản bội bạn bè khi thừa nhận điều đó, và càng cảm thấy như thế 
				khi Suzanne ḍ hỏi kỹ, “Tại sao? Cô ấy bỏ rơi em v́ cậu ta à?”
 “Không. Không bao giờ,” tôi nói, mà đó là sự thật. “Cô ấy không 
				phải người như thế.”
 “Vậy th́ có thể là ǵ?... Cậu ta
				đe dọa em à?”
 “Không,” tôi đáp vội, cảm thấy ḿnh trở nên pḥng vệ. Tôi yêu 
				Suzanne, nhưng cảm giác pḥng vệ đó không c̣n là điều bất thường 
				kể từ khi tôi chuyển lên New York c̣n chị vẫn bất di bất dịch ở 
				quê nhà. Chị thường công kích rất tinh vi, c̣n tôi khéo léo 
				pḥng vệ. Gần như thể chị oán giận tôi v́ v́ đă rời xa 
				Pittsburgh măi măi. Hoặc tệ hơn, chị cho rằng tôi thấy ḿnh giỏi 
				giang hơn – điều này là hoàn toàn không có. Xét trên mọi phương 
				diện quan trọng, tôi cảm thấy như ḿnh vẫn
				đích xác là con người 
				của ngày nào. Chỉ là tôi bộc lộ bản thân nhiều hơn. Tôi có thêm 
				sự tinh tế và trải đời nhờ sống ở một thành phố lớn, và nói thật 
				là nhờ sống trong gia đ́nh Graham. “Đe dọa bởi cái ǵ cơ?”
 “Chị không biết. Bằng bộ dạng của cậu ta? Tiền bạc của cậu ta?”
 “Anh ta không hẳn là người xảo trá,” tôi nói, cố nhớ lại một 
				cách chính xác xem trước đây đă nói ǵ về Webb với Suzanne. Chị 
				có một trí nhớ như in như tạc – thứ mà chị vẫn thường dùng để 
				chống lại tôi. “Thật sự th́ anh ta rất có đầu óc thực tế.”
 “Một triệu phú có đầu óc thực tế hả?” chị nói.
 “Phải, đúng thế đấy,” 
				tôi nói, nhớ lại ḿnh đă mất thời gian để nhận ra rằng không thể 
				xếp tất cả những người giàu có vào cùng một giuộc. Người giàu có 
				cũng đa dạng như người nghèo khổ vậy. Có người chăm chỉ lao 
				động, có kẻ lười biếng. Có người tự tay gây dựng, có kẻ sinh ra 
				trong nhung lụa. Có người giản dị khiêm nhường, có kẻ phô trương 
				khoác lác. Nhưng những quan điểm của Suzanne th́ chẳng bao giờ 
				thoát ra khỏi các bộ phim như 
				Dallas hay Dynasty
				hay Love Boat mà 
				chúng tôi vẫn xem suốt ngày (hai chị em tôi xem ti vi
				rất nhiều dạo mới lớn, 
				chẳng giống Andy và Margot chỉ được giới hạn nửa tiếng mỗi 
				ngày.) Đối với Suzanne, mọi kẻ “giàu” (chị dùng từ đó với vẻ 
				nhạo báng) đều cùng một giuộc: yếu đuối, ích kỷ và giống với 
				“phục xà của Đảng Cộng Ḥa”.
 “Okay, rồi,” chị nói. “Vậy có lẽ chỉ là em cảm thấy bị đe dọa 
				bởi thực tế rằng cậu ta thuộc về thế giới của Margot, c̣n em 
				th́… không.”
 Tôi thấy thật quá hẹp ḥi và cay nghiệt khi nói vậy và tôi bảo 
				với chị đúng như thế. Tôi c̣n nói thêm rằng tôi vẫn sống tốt bất 
				chấp những mất mát của thời niên thiếu, và rằng mấy cảm giác bị 
				đe dọa đó đă kết thúc từ thời đại học rồi, đâu đó sau lần đại 
				hội nữ sinh mà Margot tham dự cùng vô khối tiểu thư tóc vàng lái 
				xe BMW và tôi đă lo sợ một cách sai lầm là chuyến viếng thăm Hy 
				Lạp ấy của cô sẽ khiến t́nh bạn chúng tôi phai nhạt. Hơn nữa, 
				tôi nói với Suzanne rằng rơ ràng là tôi
				thực sự thuộc về thế 
				giới của Margot. Cô ấy là bạn cùng pḥng đồng thời là bạn thân 
				nhất của tôi. Và ơn chúa, tôi chắc cũng sắp kết hôn với anh trai 
				cô nữa.
 “Được rồi. Xin lỗi,” Suzanne nói, nghe không thực ḷng hối lỗi 
				chút nào. Chị nhún vai, cắn một miếng bánh. Chị nhai rồi nuốt 
				chầm chậm, nhấp một hơi Coke dài bằng ống hút và nói giọng mỉa 
				mai đến phát bực, “Chỉ là giả thuyết thôi.
				Tha lỗi cho chị đi mà.”
 Tôi tha lỗi cho chị, chẳng bao giờ tôi có thể bực Suzanne lâu – 
				nhưng tôi không quên ngay được. Thật ra th́, trong lần Andy và 
				tôi đi ăn tối với Webb và Margot sau đó, tôi cứ bứt rứt với suy 
				nghĩ Suzanne đă đúng. Có thể tôi là người phụ nữ ngớ ngẩn ngoài 
				cuộc thật . Có thể Margot cũng ư thức được sự khác biệt giữa 
				chúng tôi và Webb hẳn sẽ cướp cô đi vĩnh viễn. Có thể Webb thực 
				sự là một kẻ trưởng giả hợm hĩnh, chẳng qua anh ta giỏi che giấu 
				mà thôi.
 Nhưng cùng với những ǵ diễn ra trong tối đó và sự quan sát kỹ 
				lưỡng con người cùng phong thái của anh ta, tôi quyết định rằng 
				Suzanne thực sự sai rồi. Chẳng có ǵ đáng để không ưa Webb cả. 
				anh ta là người thật thà đáng mến. Đó chỉ là một sự cách biệt 
				với người khác mà ta khó ḷng lư giải được. Webb khiến tôi có 
				cảm giác y như lúc tôi c̣n nhỏ tới nhà bạn ngủ và phát hiện ra 
				thứ mùi kỳ cục trong tầng hầm hay bộ sưu tập toàn những món ngũ 
				cốc lạ lùng trong tủ bếp nhà người ta. Anh ta không đe dọa tôi; 
				anh ta không làm tôi khó chịu; anh ta không làm tôi phải lo lắng 
				về t́nh bạn với Margot. Anh ta chỉ khiến tôi cảm thấy thoáng 
				như… nhớ nhà. Nhớ nhà v́ 
				sao th́ tôi cũng không chắc nữa.
 Nhưng bất kể điều đó, tôi vẫn quyết định giao thiệp với Webb ở 
				một mức độ thân mật nhất định. Hay nói một cách chính xác hơn, 
				đă tiến đến giai đoạn có thể cảm thấy thoải mái đến mức nếu chỉ 
				có mỗi hai chúng tôi trong một căn pḥng th́ tôi cũng không phải 
				loay hoay t́m kiếm, hy vọng người thứ ba sớm quay trở lại.
 Thế nên giờ đây, khi Margot chuyển điện thoại cho Webb và anh ta 
				thoải mái cất giọng sang sảng “Chào, đây rồi!” vào ống nghe, tôi 
				cũng nhiệt t́nh nói lớn cho ḥa hợp với sự hồ hởi của anh ta, 
				“Chúc mừng! Tôi mừng cho hai bạn lắm!”
 “Chúng tôi cũng vô cùng hạnh phúc… xem nào, mất đến bốn mươi lăm 
				giây rồi đấy. Cô gái của chị đang phí phạm thời gian quá phải 
				không ?”
 Tôi bật cười thầm nghĩ không biết anh ta cảm thấy phiền hà hay 
				vui thích với những cuộc điện thoại liên tục suốt ngày và lời 
				hứa thăm nhau ít nhất mỗi lần một tháng của chúng tôi, rồi nói 
				tiếp, “Hẹn gặp hai bạn cuối tuần tới nhé. Chúng ta phải ăn mừng 
				chứ.”
 “Phải rồi, sẽ vui lắm đấy,” anh ta nói. “Chị, anh Andy và tôi, 
				chúng ta sẽ chỉ phải chúc mừng và uống v́ Margot, thế nữa chứ.”
 Tôi bật cười lần nữa và nói, đúng rồi, chúng ta chỉ phải làm như 
				vậy thôi. Sau đó Webb đưa điện thoại lại cho Margot, và cô bảo 
				cô yêu tôi. Tôi nói với cô tôi cũng yêu cô. Andy bảo tôi nói với 
				cô rằng anh cũng yêu cô. Và chúng tôi cùng nói chúng tôi yêu em 
				bé sắp chào đời. Rồi tôi gác máy và nằm xuống lại bên Andy. 
				Chúng tôi áp mặt, chân chạm vào nhau. Tay anh đặt trên hông tôi, 
				ngay dưới chiếc áo phông rộng thùng th́nh. Chúng tôi mỉm cười 
				với nhau nhưng lặng yên không nói, cả hai đều đang nghĩ về thông 
				tin quan trọng đó. Một thông tin quan trọng hơn rất nhiều thứ, 
				ví như t́nh cờ gặp lại người yêu cũ trên đường phố.
 Và như thế, lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi giao lộ đó, tôi cảm 
				thấy xao xuyến trước một viễn cảnh phủ chụp lấy ḿnh. Viễn cảnh 
				đó không phải được khai mở bởi chuyện ái ân. Hay một buổi tối 
				vui vẻ ở nhà hàng. Hay một đêm ngủ bên người chồng thương yêu và 
				thỉnh thoảng lại thức giấc để được nghe tiếng thở đều đều, yên 
				ấm của anh. Leo không có chỗ trong khoảnh khắc này, tôi nghĩ. 
				Anh ta không có chỗ trong gia đ́nh Andy. Gia đ́nh
				chúng tôi.
 “Em cũng muốn một chứ?” anh hỏi, bàn tay anh âu yếm tôi rồi xoa 
				lên tấm lưng thon nhỏ của tôi.
 “Một ǵ cơ?” tôi hỏi, dù biết rơ anh đề cập đến điều ǵ.
 “Một em bé,” anh nói. “Anh biết em và Margot thích làm mọi 
				chuyện cùng nhau mà.”
 Tôi không chắc anh đang trêu đùa hay khêu gợi tôi hay chỉ nói 
				cho vui thế thôi, nên tôi chỉ ậm ừ, “Ngày nào đó.”
 Bàn tay Andy vuốt ve chầm chậm và dần dừng hẳn. Rồi anh nhắm mắt 
				ngủ thêm một lát trong khi tôi ngắm nh́n đôi mí anh rung rung và 
				tưởng tượng ngày nào đó, mọi 
				ngày, bên Andy.
 Sáng hôm sau, Margot gọi điện đến trước khi mặt trời mọc 
				rất lâu, và như lời Andy vẫn than thở th́, trước khi bất cứ 
				người đầu óc b́nh thường nào kịp dậy. Andy hiếm khi bị kích 
				động, nhưng có ba điều luôn khiến anh phát điên: những người cắt 
				ngang lời nói của anh; những tranh luận vớ vẩn về quan điểm 
				chính trị trong các nhóm xă hội, và việc em gái anh gọi điện quá 
				sớm vào buổi sáng.
 “Cái khỉ ǵ vậy?” anh 
				hỏi sau khi điện thoại đổ chuông lần thứ hai. Giọng anh lào 
				khào, đúng như cái giọng mỗi buổi sáng sau khi làm vài cốc bia, 
				đúng như cách chúng tôi kết thúc buổi đêm hôm qua cùng với món 
				bánh burger và khoai tây sợi chiên hảo hạng trong một quán rượu 
				nhỏ trên đại lộ Ba gần nhà. Chúng tôi đă có những giờ khắc vui 
				vẻ, cười đùa c̣n nhiều hơn mọi khi, nhưng bữa tối của chúng tôi 
				cũng chẳng xóa bỏ được thêm chút nào h́nh ảnh của Leo so với lúc 
				ân ái. Anh ấy vẫn cứ dai dẳng bám theo tôi suốt buổi đêm, nhận 
				xét về người đàn ông cáu kỉnh ngồi ở bàn kế sát chúng tôi với 
				giai điệu nhạc nền của Joni Mitchell. Khi uống hết cốc bia thứ 
				ba và nghe Andy kể về chuyện công việc của anh, tôi thấy ḿnh 
				đang trôi về buổi sáng mà Leo nói với tôi rằng gương mặt tôi là 
				thứ anh ưa chuộng nhất trên thế gian này. Anh nói đúng như vậy, 
				một cách tuyệt đối giản dị và không chút màu mè ủy mị. Lúc đó 
				tôi không trang điểm, tóc buộc vổng ra sau, ánh nắng từ cửa sổ 
				pḥng khách của anh chảy tràn trong ánh mắt tôi. Nhưng tôi tin 
				lời anh nói. Tôi có thể khẳng định rằng anh thật ḷng nghĩ như 
				thế.
 “Cảm ơn anh,” tôi nói, hai má ửng đỏ, thầm nghĩ rằng gương mặt 
				anh cũng là thứ tôi vô cùng ưa chuông. Tôi tự hỏi có phải cảm 
				nhận đó, hơn bất kỳ điều ǵ khác, chính là biểu hiện của t́nh 
				yêu đích thực.
 Rồi Leo nói, “Anh sẽ chẳng bao giờ chán ngắm nh́n em… Chẳng bao 
				giờ.”
 Và cũng chính kỷ niệm này, có lẽ là kỷ niệm sâu đậm nhất về Leo, 
				lại một lần nữa tràn ngập trong tâm trí tôi khi tiếng chuông 
				điện thoại tiếp tục reo inh ỏi trong pḥng ngủ. Andy rên rỉ khi 
				thấy người gọi cuối cùng đă bỏ cuộc, chờ vài giây rồi cố gắng 
				gọi lại.
 “Thôi cho nó vào hộp thư thoại đi anh,” tôi nói, nhưng Andy với 
				tay qua người tôi và cầm chiếc điện thoại trên bàn ngủ phía tôi 
				nằm. Để chắc chắn người gọi là ai, anh kiểm tra số điện thoại – 
				một việc làm hoàn toàn không cần thiết. Đó chỉ có thể là Margot. 
				Quả đúng như vậy, tên chồng cô, Webb Buffington, hiện lên trên 
				màn h́nh điện thoại, kèm theo ḍng chữ Atlanta, Georgia, nơi mà 
				họ đă trở về sống vào năm ngoái trong nỗi thất vọng vô cùng của 
				tôi. Tôi đă luôn biết rằng việc Margot chuyển về là điều không 
				tránh khỏi, đặc biệt là sau khi cô gặp Webb, một người cũng đến 
				từ Atlanta. Mặc cho Margot yêu New York và công việc bao nhiêu 
				đi nữa, cô vẫn là một cô gái miền Nam từ trong bản chất, và cô 
				vô cùng mong muốn có tất cả những lề lối truyền thống của lối 
				sống thượng lưu. Hơn thế nữa, Webb, theo đúng cách anh ta nói, 
				đă “Quá ngán thành phố rồi.” Anh ta muốn chơi golf, muốn lái xe, 
				muốn có không gian cho thú vui chơi tṛ điện tử của ḿnh.
 Với những cuộc điện thoại như sáng nay, Margot và tôi vẫn nói 
				chuyện với nhau hằng ngày, nhưng tôi cứ nhớ khoảng thời gian ở 
				bên cạnh cô. Tôi nhớ những bữa ăn cuối tuần và những lần đi uống 
				sau giờ làm việc. Tôi nhớ lúc cùng cô chia sẻ đời sống thành phố 
				- và những người bạn chung. Andy cũng nhớ cô, ngoại trừ những 
				lúc bị quấy rầy như thế này, khi giấc ngủ của anh bị gián đoạn.
 Anh ấn nút nghe bằng ngón tay cái và quát vào điện thoại, “Lạy 
				chúa, Margot. Em có biết bây giờ là mấy giờ không?”
 Tôi có thể nghe thấy giọng nói cao vút của cô, “Em biết. Em
				thật sự xin lỗi, Andy. 
				Nhưng lần này là có lư do chính 
				đáng. Em thề đấy. Chuyển máy cho Ellen đi. Xin anh đấy!”
 “Thậm chí c̣n chưa đến bảy giờ,” anh nói. “Anh đă bảo em bao 
				nhiêu lần đừng đánh thức bọn anh dậy? Rồi th́ điều tử tế duy 
				nhất trong công việc của anh là được đi làm muộn? Em có làm thế 
				này không nếu Ellen cưới một người khác? Và nếu không, sao em 
				không tự hỏi bản thân xem lẽ nào em chẳng thể tôn trọng anh trai 
				ḿnh hơn một chút so với một gă ngẫu nhiên nào đó?”
 Tôi mỉm cười với một gă ngẫu 
				nhiên nào đó, nghĩ rằng sẽ chẳng có gă nào là ngẫu nhiên 
				nếu tôi cưới người đó. Rồi tôi lại nghĩ tới Leo và co rúm người 
				lại, biết rằng anh sẽ chẳng bao giờ chỉ là một gă ngẫu nhiên đối 
				với tôi. Tuy nhiên, tôi hiểu ư Andy, và tôi chắc Margot cũng 
				hiểu, nhưng anh chẳng cho cô ấy có cơ hội trả lời. Thay vào đó 
				anh đưa ống nghe cho tôi và chui tọt đầu dưới gối một cách rất 
				kịch.
 “Chào, Margot,” tôi nói khẽ hết mức.
 Cô xin lỗi một cách chiếu lệ rồi reo lên, “Tớ có
				tin đây!”
 Chính là câu nói ấy, cùng một giọng điệu náo nức, rộn ràng khi 
				cô gọi cho tôi vào cái đêm cô và Webb đính ước. Hay, như Webb 
				vẫn thích nói mỗi khi nhắc lại chuyện cầu hôn của họ, cô gọi cho 
				tôi để nói câu ấy c̣n trước cả khi kịp trả lời đồng ư với anh 
				ta. Đó chỉ là Webb nói quá lên, tất nhiên rồi, mặc dù đúng thực 
				cô đă gọi cho tôi đầu tiên, c̣n trước cả mẹ cô, điều ấy khiến 
				tôi sung sướng theo một cách mà tôi không tài nào diễn tả nổi. 
				Tôi nghĩ đó là một sự bù đắp cho tôi khi không c̣n mẹ, và củng 
				cố niềm tin trong tôi rằng bạn bè có thể thay thế cho gia đ́nh, 
				ngay cả khi không bị mất mát người thân.
 “Chúa ơi, Margot,” giờ th́ tôi nói, đầy sửng sốt và không c̣n 
				bận tâm đến việc làm phiền Andy nữa.
 Andy chui đầu ra khỏi gối và nói bằng giọng hối lỗi, gần như lo 
				sợ, “Nó ổn chứ?”
 Tôi gật đầu vui vẻ xác nhận, nhưng anh trông vẫn có vẻ sợ hăi 
				khi khẽ hỏi, “Chuyện ǵ vậy?”
 Tôi giơ một ngón tay lên. Tôi muốn xác nhận lại, cho dù trong 
				thâm tâm, tôi đă hoàn toàn chắc chắn về thông tin của Margot. 
				Ngữ điệu ấy Margot chỉ dành riêng cho hai chuyện – đám cưới và 
				có em bé. Cô đă có ít nhất ba lần thăng tiến trong quan trọng 
				tại J.Crew mà chẳng hề bận tâm đến chúng. Không phải v́ bản tính 
				khiêm tốn mà Margot chắng hề quan tâm đến công việc tới mức ấy, 
				cho dù cô làm tốt đến bao nhiêu chăng nữa. Có thể là do cô đă 
				biết giới hạn thời gian mà cô tự đặt ra cho ḿnh. Biết rằng một 
				thời điểm nào đó trong độ tuổi ba mươi, cô sẽ chủ động xin nghỉ 
				việc và khai mở một chương mới của cuộc đời, đó là kết hôn, trở 
				về Atlanta và bắt đầu cuộc sống gia đ́nh.
 “Thật sao?” tôi hỏi, 
				ngay lập tức tưởng tượng ra h́nh ảnh Margot với cái bụng tṛn 
				căng, mặc chiếc váy bầu sang trọng.
 “Nó làm sao?” Andy hỏi to.
 Tôi nh́n anh, tự hỏi anh nghĩ chúng tôi có thể đang nói ǵ với 
				nhau kia chứ. Tôi thấy trào dâng niềm yêu thương trước sự băn 
				khoăn ngơ ngác thơ trẻ của anh. Ồ, Andy, cô ấy đang làm món bánh 
				xèo cho bữa sáng. Ồ, Andy, cô 
				ấy đang t́m mua một chiếc piano dành cho trẻ em.
 “Ô la la!” Margot kêu lên. “Tớ có
				bầu rồi. Tớ vừa kiểm tra 
				xong.”
 “Ôi,” tôi thốt lên, cảm thấy tràn đầy phấn chấn mặc dù tôi biết 
				lâu nay hai vợ chồng cô đă rất nỗ lực để có em bé, và rằng 
				Margot hầu như luôn đạt được điều cô muốn, phần nào bởi v́ cô là 
				một người có nhóm máu A kiên tŕ bướng bỉnh. Nhưng chủ yếu bởi 
				v́ cô là người mạnh mẽ, đă muốn ǵ nhất định phải làm cho bằng 
				được. Việc lớn, việc nhỏ, việc nào cũng vậy. Tôi quen biết cô đă 
				mười lăm năm vậy mà lần khó khăn duy nhất đối với Margot tôi 
				từng chứng kiến, lần duy nhất cô phải thực sự vật lộn để vượt 
				qua là khi ông nội cô mất vào năm cuối đại học của chúng tôi. 
				Thật ra người ta đâu thể xem chuyện ông bà qua đời là một nỗi 
				đau khủng khiếp. Ít nhất là không phải thế, một khi ta đă từng 
				chứng kiến bố mẹ mất sớm.
 Tôi nói tất cả điều này về Margot mà không hề có ư oán giận ǵ. 
				Phải, mẹ tôi mất khi bà bốn mươi mốt tuổi, và phải, tôi đă lớn 
				lên với việc phải mặc bộ đồ cũ kỹ trong ngày nhà trường chụp 
				h́nh lưu niệm, nhưng tôi cũng chẳng thể nói rằng cuộc đời của 
				tôi đầy những mất mát cay đắng. Và tôi thực sự có tuổi trưởng 
				thành tốt đẹp, ít nhất là cho tới lúc này. Tôi không thất nghiệp 
				hay mất phương hướng hay dễ ngă ḷng. Tôi không đau khổ hay đơn 
				độc. Vả chăng, dù cho hết thảy những điều đó tồn tại đi nữa th́ 
				tôi cũng tuyệt đối không chút ganh tị với bạn thân của ḿnh. Tôi 
				chẳng bao giờ hiểu nổi những người phụ nữ như thế, những mối 
				quan hệ phức tạp lắm chuyện kiểu đó, vốn dường như vẫn tồn tại 
				rất nhiều trong cuộc sống. Thi thoảng tôi có ghen khi trông thấy 
				Margot với mẹ cô ấy không? Tôi có ước ḿnh có được cảm quan thời 
				trang và sự tự tin và những con dấu trong hộ chiếu của cô không? 
				Có, có chứ. Nhưng dù thế nào đi nữa, điều đó không nói lên rằng 
				có khi nào đó tôi muốn tước đi những thứ thuộc về cô hay cảm 
				thấy tị hiềm với hạnh phúc của cô. Hơn nữa giờ đây tôi đă là 
				người một nhà với cô. Những ǵ thuộc về cô
				đă thực sự cũng thuộc về 
				tôi.
 Thế nên mặc dù thật ra tin tốt lành này không có ǵ là bất ngờ, 
				tôi vẫn ngồi đây tràn ngập vui sướng, choáng váng và sửng sốt. 
				Dù sao đi nữa, có một sự khác biệt to lớn giữa việc
				lên kế hoạch có em bé 
				với chuyện thực sự nhận được kết quả kiểm tra chắc chắn mang 
				bầu. Bởi v́ ta biết rằng mấy tháng nữa thôi ta sẽ trở thành mẹ - 
				hay trong trường hợp của tôi là trở thành bác - của một nhóc t́ 
				nào đó.
 “Chúc mừng cậu,” tôi nói, cảm giác vỡ ̣a.
 “Margot có bầu à?” Andy 
				cuối cùng cũng đoán ra, mắt mở bừng.
 Tôi gật đầu mỉm cười. “Vâng… anh có c̣n bực ḿnh nữa không, Bác 
				Andy?”
 Anh cười rạng rỡ và nói, “Đưa điện thoại cho anh.”
 Tôi trao ống nghe cho anh.
 Anh kêu lên, “Maggie Beth! Em nên nói ngay chứ!”
 Tôi nghe thấy cô đáp, “Anh biết em sẽ nói với Ellen trước tiên 
				mà.”
 “Bỏ qua cả máu mủ của em luôn hả?”
 “Chỉ có một người trong vợ chồng anh vui vẻ nghe điện thoại của 
				em bất cứ lúc nào thôi,” 
				cô nói.
 Andy bỏ qua câu móc máy trêu chọc của cô và nói, “Chúa ơi, tin 
				này tuyệt quá. Anh vui quá, cuối tuần bọn anh sẽ xuống. Anh rất 
				muốn được ôm chặt em một cái.”
 Tôi chộp lại điện thoại và hỏi xem cô đă tính ngày lâm bồn chưa; 
				cô nghĩ đó là bé trai hay bé gái; cô ưng ư cái tên nào rồi; tôi 
				nên tổ chức bữa tiệc mừng cô ở New York hay Atlanta?
 Cô trả lời rằng ngày hai mươi mốt tháng Chín; cô nghĩ là một bé 
				gái; chưa ưng tên nào; và bữa tiệc tổ chức ở đâu cũng tuyệt vời 
				cả.
 “Thế Webb nói ǵ?” tôi hỏi, nhớ ra có một người nữa liên quan 
				tới chuyện này.
 “Anh ấy vui lắm. Ngạc nhiên nữa. Đến hơi lịm đi.” Margot cười 
				lớn. “Cậu có muốn nói chuyện với anh ấy không? Anh ấy đây này.”
 “Có chứ,” tôi nói, mặc dù không có tâm trạng đâu mà nói chuyện 
				với anh ta. Thực ra th́, tôi 
				chẳng bao giờ thích nói chuyện với Webb tuy rằng anh ta 
				lúc nào cũng thân thiện với tôi, có thể nói là hơn bất kỳ chàng 
				trai nào Margot từng hẹn ḥ trước đó. Cô luôn bị lôi cuốn bởi 
				kiểu người kiêu ngạo, và Webb đương nhiên là có rất nhiều tính 
				cách của người kiêu ngạo. Đặc biệt bởi v́ anh ta là một đại diện 
				thể thao gặt hái vô khối thành công và đă từng là một tay quần 
				vợt nhà nghề khá nổi tiếng – ít nhất anh ta cũng nổi tiếng trong 
				giới quần vợt, từng đánh bại Agassi ở ṿng loại. Và bên cạnh 
				tiền bạc cùng sự thành đạt, anh ta c̣n có vẻ ngoài đẹp mă quư 
				phái cổ điển, với mái tóc sáng màu chải chuốt và hàm răng trắng 
				đều tăm tắp tới nỗi mỗi lần anh ta ngửa đầu cười rộng miệng là 
				tôi lại nghĩ đến một đoạn quảng cáo cũ “Chải sạch miệng với kem 
				đánh răng Dentyne nào”. Anh ta có giọng nói sang sảng cùng thân 
				h́nh to lớn – và là kiểu người biết cách đưa ra một bài hùng 
				biện khiến phụ nữ phải nức nở mê ly hay chêm vài lời có cánh vào 
				một chuyện đùa nhạt nhẽo khiến cánh mày râu phải ḥ la. Thế nên, 
				xét trên phương diện nào đó, Webb
				lẽ ra phải là một kẻ 
				bảnh chọe thái quá. Nhưng không phải vậy. Thay vào đó, anh ta là 
				người khiêm tốn, dễ tính và chín chắn.
 Nhưng v́ một lư do nào đó, tôi vẫn cứ không cảm thấy thoải mái 
				khi ở gần anh ta – có lẽ bởi v́ chúng tôi hầu như không có ǵ 
				chung ngoài Margot. Cũng may là tôi chưa khi nào thú nhận chuyện 
				này với cô dạo hai người họ bắt đầu ḥ hẹn - chắc v́ tôi đă nhận 
				ra ngay rằng anh ta là “số Một”. Đó là lần đầu tiên tôi thấy 
				Margot hoàn toàn say mê ai đó không chút lưỡng lự, lần đầu tiên 
				cô yêu thích một người nhiều bằng - thậm chí c̣n nhiều
				hơn - người đó yêu thích 
				cô. Tôi cũng không đề cặp chuyện đó với Andy, có thể bởi v́ anh 
				dường như là một fan cuồng của Webb, cũng có thể bởi v́ tôi 
				không thực sự chắc điều ǵ khiến ḿnh không thoải mái.
 Nhưng tôi có thú nhận cảm xúc của ḿnh với chị gái lần tôi về 
				Pittsburgh chơi cuối tuần, ngay trước hôm đám cưới Margot. Hai 
				chị em ăn trưa ở quán Eat’n Park, nơi thường xuyên lui tới mà 
				chúng tôi đặc biệt yêu thích hồi trung học, và vẫn là lựa chọn 
				mang tính chất t́nh cảm bất cứ khi nào tôi về thăm nhà. Mỗi 
				chiếc bàn đều đầy ắp kỷ niệm, và chúng tôi chọn chiếc bàn sát 
				cửa ra vào nơi gợi nhắc về buổi hẹn ḥ mùa hè trước năm cuối đại 
				học của chị với một anh chàng nay chẳng biết đă đi đâu về đâu; 
				về một tối cha tôi bất ngờ bị chảy máu cam (thoạt tiên chúng tôi 
				lại tưởng đó là nước xốt cà chua); và về lần tôi ăn liền năm cái 
				bánh ḿ xúc xích kẹp thịt ḅ băm trộn ớt trong một vụ cá cược. 
				Khi chúng tôi đánh chén món hamburger Big Boy với hàng đống thứ 
				gia vị, Suzanne hỏi tôi về đám cưới của Margot bằng giọng điệu 
				khinh thị mà tôi khám phá ra rằng dường như luôn luôn xuất hiện 
				mỗi lần chị nói về gia đ́nh Graham - sự khinh thị mà tôi theo 
				tôi bao hàm cả kiểu vô lư vô cớ lẫn tính nhỏ nhen trẻ con. Nhưng 
				bất chấp giọng điệu đó, tôi vẫn có thể nói rằng Suzanne bị 
				Margot hấp dẫn theo đúng cái cách nông nổi không giấu giếm mà 
				chúng tôi thường bị lôi cuốn theo Luke và Laura trong chương 
				tŕnh General Hospital 
				hay Bo và Hope trong bộ phim 
				Days of Our Lives.
 “Thật ngớ ngẩn hết sức,” 
				Suzanne lúc nào cũng nói vậy khi hai chị em ngồi xem các cặp đôi 
				trong những bộ phim dài kỳ yêu thích của chúng tôi. Chị sẽ phùng 
				mang trợn má chỉ ra những điều mâu thuẩn hay phi lư của các cảnh 
				lăng mạn trên màn ảnh, nhưng rồi vẫn cứ ngồi đó, mê mẫn bên 
				chiếc ti vi, chờ đợi hơn nữa.
 Cũng tương tự như vậy, khi chúng tôi đang ăn bánh burger, 
				Suzanne muốn nghe mọi thứ về lễ cưới sắp tới của Margot, cố gắng 
				moi ra một chi tiết kịch tính tiềm tàng nào đó.
 “Đính hôn như vậy chẳng phải ngắn quá sao?” chị hỏi, cặp mày 
				nhíu lại. “Có khi nào cô ấy dính bầu không?”
 Tôi bật cười lắc đầu.
 “Thế sao phải vội vậy?”
 “Họ yêu nhau mà,” tôi nói, nghĩ rằng toàn bộ cuộc t́nh họ giống 
				như một cuốn truyện, tính cả độ ngắn ngủi của nó. Lễ đính hôn 
				của họ c̣n tổ chức trước chúng tôi, mặc dù Andy và tôi bắt đầu 
				hẹn ḥ trước.
 “Nhẫn cưới to cỡ nào?” chị hỏi với vẻ như chỉ trích.
 “To đùng,” tôi nói. “Không màu, tuyệt mỹ.”
 Suzanne tiêu hóa chuyện đó rồi nói tiếp, “Tên
				Webb là cái kiểu ǵ 
				vậy?”
 “Tên họ. Rút gọn của Webster.”
 “Như trên chương tŕnh ti vi chứ ǵ,” chị nói, cười lớn.
 “Phải,” tôi đáp.
 “Em mến anh ta không?” chị hỏi.
 Dựa vào tâm trạng của chị lúc đó th́ tôi nên nói dối mà buông ra 
				một từ có tấp lự, nhưng tôi lại chẳng bao giờ nói dối được với 
				Suzanne. Thay vào đó, tôi nói thật với chị - rằng mặc dù Webb có 
				vẻ là một anh chàng hoàn hảo nhưng tôi không thực sự thích 
				chuyện Margot kết hôn với anh ta. Tôi thấy ḿnh thật ích kỷ đă 
				phản bội bạn bè khi thừa nhận điều đó, và càng cảm thấy như thế 
				khi Suzanne ḍ hỏi kỹ, “Tại sao? Cô ấy bỏ rơi em v́ cậu ta à?”
 “Không. Không bao giờ,” tôi nói, mà đó là sự thật. “Cô ấy không 
				phải người như thế.”
 “Vậy th́ có thể là ǵ?... Cậu ta
				đe dọa em à?”
 “Không,” tôi đáp vội, cảm thấy ḿnh trở nên pḥng vệ. Tôi yêu 
				Suzanne, nhưng cảm giác pḥng vệ đó không c̣n là điều bất thường 
				kể từ khi tôi chuyển lên New York c̣n chị vẫn bất di bất dịch ở 
				quê nhà. Chị thường công kích rất tinh vi, c̣n tôi khéo léo 
				pḥng vệ. Gần như thể chị oán giận tôi v́ v́ đă rời xa 
				Pittsburgh măi măi. Hoặc tệ hơn, chị cho rằng tôi thấy ḿnh giỏi 
				giang hơn – điều này là hoàn toàn không có. Xét trên mọi phương 
				diện quan trọng, tôi cảm thấy như ḿnh vẫn
				đích xác là con người 
				của ngày nào. Chỉ là tôi bộc lộ bản thân nhiều hơn. Tôi có thêm 
				sự tinh tế và trải đời nhờ sống ở một thành phố lớn, và nói thật 
				là nhờ sống trong gia đ́nh Graham. “Đe dọa bởi cái ǵ cơ?”
 “Chị không biết. Bằng bộ dạng của cậu ta? Tiền bạc của cậu ta?”
 “Anh ta không hẳn là người xảo trá,” tôi nói, cố nhớ lại một 
				cách chính xác xem trước đây đă nói ǵ về Webb với Suzanne. Chị 
				có một trí nhớ như in như tạc – thứ mà chị vẫn thường dùng để 
				chống lại tôi. “Thật sự th́ anh ta rất có đầu óc thực tế.”
 “Một triệu phú có đầu óc thực tế hả?” chị nói.
 “Phải, đúng thế đấy,” 
				tôi nói, nhớ lại ḿnh đă mất thời gian để nhận ra rằng không thể 
				xếp tất cả những người giàu có vào cùng một giuộc. Người giàu có 
				cũng đa dạng như người nghèo khổ vậy. Có người chăm chỉ lao 
				động, có kẻ lười biếng. Có người tự tay gây dựng, có kẻ sinh ra 
				trong nhung lụa. Có người giản dị khiêm nhường, có kẻ phô trương 
				khoác lác. Nhưng những quan điểm của Suzanne th́ chẳng bao giờ 
				thoát ra khỏi các bộ phim như 
				Dallas hay Dynasty
				hay Love Boat mà 
				chúng tôi vẫn xem suốt ngày (hai chị em tôi xem ti vi
				rất nhiều dạo mới lớn, 
				chẳng giống Andy và Margot chỉ được giới hạn nửa tiếng mỗi 
				ngày.) Đối với Suzanne, mọi kẻ “giàu” (chị dùng từ đó với vẻ 
				nhạo báng) đều cùng một giuộc: yếu đuối, ích kỷ và giống với 
				“phục xà của Đảng Cộng Ḥa”.
 “Okay, rồi,” chị nói. “Vậy có lẽ chỉ là em cảm thấy bị đe dọa 
				bởi thực tế rằng cậu ta thuộc về thế giới của Margot, c̣n em 
				th́… không.”
 Tôi thấy thật quá hẹp ḥi và cay nghiệt khi nói vậy và tôi bảo 
				với chị đúng như thế. Tôi c̣n nói thêm rằng tôi vẫn sống tốt bất 
				chấp những mất mát của thời niên thiếu, và rằng mấy cảm giác bị 
				đe dọa đó đă kết thúc từ thời đại học rồi, đâu đó sau lần đại 
				hội nữ sinh mà Margot tham dự cùng vô khối tiểu thư tóc vàng lái 
				xe BMW và tôi đă lo sợ một cách sai lầm là chuyến viếng thăm Hy 
				Lạp ấy của cô sẽ khiến t́nh bạn chúng tôi phai nhạt. Hơn nữa, 
				tôi nói với Suzanne rằng rơ ràng là tôi
				thực sự thuộc về thế 
				giới của Margot. Cô ấy là bạn cùng pḥng đồng thời là bạn thân 
				nhất của tôi. Và ơn chúa, tôi chắc cũng sắp kết hôn với anh trai 
				cô nữa.
 “Được rồi. Xin lỗi,” Suzanne nói, nghe không thực ḷng hối lỗi 
				chút nào. Chị nhún vai, cắn một miếng bánh. Chị nhai rồi nuốt 
				chầm chậm, nhấp một hơi Coke dài bằng ống hút và nói giọng mỉa 
				mai đến phát bực, “Chỉ là giả thuyết thôi.
				Tha lỗi cho chị đi mà.”
 Tôi tha lỗi cho chị, chẳng bao giờ tôi có thể bực Suzanne lâu – 
				nhưng tôi không quên ngay được. Thật ra th́, trong lần Andy và 
				tôi đi ăn tối với Webb và Margot sau đó, tôi cứ bứt rứt với suy 
				nghĩ Suzanne đă đúng. Có thể tôi là người phụ nữ ngớ ngẩn ngoài 
				cuộc thật . Có thể Margot cũng ư thức được sự khác biệt giữa 
				chúng tôi và Webb hẳn sẽ cướp cô đi vĩnh viễn. Có thể Webb thực 
				sự là một kẻ trưởng giả hợm hĩnh, chẳng qua anh ta giỏi che giấu 
				mà thôi.
 Nhưng cùng với những ǵ diễn ra trong tối đó và sự quan sát kỹ 
				lưỡng con người cùng phong thái của anh ta, tôi quyết định rằng 
				Suzanne thực sự sai rồi. Chẳng có ǵ đáng để không ưa Webb cả. 
				anh ta là người thật thà đáng mến. Đó chỉ là một sự cách biệt 
				với người khác mà ta khó ḷng lư giải được. Webb khiến tôi có 
				cảm giác y như lúc tôi c̣n nhỏ tới nhà bạn ngủ và phát hiện ra 
				thứ mùi kỳ cục trong tầng hầm hay bộ sưu tập toàn những món ngũ 
				cốc lạ lùng trong tủ bếp nhà người ta. Anh ta không đe dọa tôi; 
				anh ta không làm tôi khó chịu; anh ta không làm tôi phải lo lắng 
				về t́nh bạn với Margot. Anh ta chỉ khiến tôi cảm thấy thoáng 
				như… nhớ nhà. Nhớ nhà v́ 
				sao th́ tôi cũng không chắc nữa.
 Nhưng bất kể điều đó, tôi vẫn quyết định giao thiệp với Webb ở 
				một mức độ thân mật nhất định. Hay nói một cách chính xác hơn, 
				đă tiến đến giai đoạn có thể cảm thấy thoải mái đến mức nếu chỉ 
				có mỗi hai chúng tôi trong một căn pḥng th́ tôi cũng không phải 
				loay hoay t́m kiếm, hy vọng người thứ ba sớm quay trở lại.
 Thế nên giờ đây, khi Margot chuyển điện thoại cho Webb và anh ta 
				thoải mái cất giọng sang sảng “Chào, đây rồi!” vào ống nghe, tôi 
				cũng nhiệt t́nh nói lớn cho ḥa hợp với sự hồ hởi của anh ta, 
				“Chúc mừng! Tôi mừng cho hai bạn lắm!”
 “Chúng tôi cũng vô cùng hạnh phúc… xem nào, mất đến bốn mươi lăm 
				giây rồi đấy. Cô gái của chị đang phí phạm thời gian quá phải 
				không ?”
 Tôi bật cười thầm nghĩ không biết anh ta cảm thấy phiền hà hay 
				vui thích với những cuộc điện thoại liên tục suốt ngày và lời 
				hứa thăm nhau ít nhất mỗi lần một tháng của chúng tôi, rồi nói 
				tiếp, “Hẹn gặp hai bạn cuối tuần tới nhé. Chúng ta phải ăn mừng 
				chứ.”
 “Phải rồi, sẽ vui lắm đấy,” anh ta nói. “Chị, anh Andy và tôi, 
				chúng ta sẽ chỉ phải chúc mừng và uống v́ Margot, thế nữa chứ.”
 Tôi bật cười lần nữa và nói, đúng rồi, chúng ta chỉ phải làm như 
				vậy thôi. Sau đó Webb đưa điện thoại lại cho Margot, và cô bảo 
				cô yêu tôi. Tôi nói với cô tôi cũng yêu cô. Andy bảo tôi nói với 
				cô rằng anh cũng yêu cô. Và chúng tôi cùng nói chúng tôi yêu em 
				bé sắp chào đời. Rồi tôi gác máy và nằm xuống lại bên Andy. 
				Chúng tôi áp mặt, chân chạm vào nhau. Tay anh đặt trên hông tôi, 
				ngay dưới chiếc áo phông rộng thùng th́nh. Chúng tôi mỉm cười 
				với nhau nhưng lặng yên không nói, cả hai đều đang nghĩ về thông 
				tin quan trọng đó. Một thông tin quan trọng hơn rất nhiều thứ, 
				ví như t́nh cờ gặp lại người yêu cũ trên đường phố.
 Và như thế, lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi giao lộ đó, tôi cảm 
				thấy xao xuyến trước một viễn cảnh phủ chụp lấy ḿnh. Viễn cảnh 
				đó không phải được khai mở bởi chuyện ái ân. Hay một buổi tối 
				vui vẻ ở nhà hàng. Hay một đêm ngủ bên người chồng thương yêu và 
				thỉnh thoảng lại thức giấc để được nghe tiếng thở đều đều, yên 
				ấm của anh. Leo không có chỗ trong khoảnh khắc này, tôi nghĩ. 
				Anh ta không có chỗ trong gia đ́nh Andy. Gia đ́nh
				chúng tôi.
 “Em cũng muốn một chứ?” anh hỏi, bàn tay anh âu yếm tôi rồi xoa 
				lên tấm lưng thon nhỏ của tôi.
 “Một ǵ cơ?” tôi hỏi, dù biết rơ anh đề cập đến điều ǵ.
 “Một em bé,” anh nói. “Anh biết em và Margot thích làm mọi 
				chuyện cùng nhau mà.”
 Tôi không chắc anh đang trêu đùa hay khêu gợi tôi hay chỉ nói 
				cho vui thế thôi, nên tôi chỉ ậm ừ, “Ngày nào đó.”
 Bàn tay Andy vuốt ve chầm chậm và dần dừng hẳn. Rồi anh nhắm mắt 
				ngủ thêm một lát trong khi tôi ngắm nh́n đôi mí anh rung rung và 
				tưởng tượng ngày nào đó, mọi 
				ngày, bên Andy.
 
 Chương 7
 
 Những suy nghĩ của Leo gần như hoàn toàn phai mờ suốt 
				tuần sau đó, khoảng thời gian tôi thuộc về cuộc sống đủ đầy bên 
				Andy, tin mừng của Margot, và có lẽ quan trọng hơn hết là công 
				việc của tôi. Một tuần làm việc hiệu quả, măn nguyện có thể đưa 
				đến những điều thật kỳ diệu cho tinh thần, tôi tự thấy thật may 
				mắn (hay như Margot nói th́ – 
				ơn trời – con tạo khéo xoay vần ban cho hảo vận) v́ có 
				được công việc mà tôi có thể hạnh phúc đắm ḿnh trong đó. Có lần 
				tôi đọc thấy rằng khi thời gian trôi qua vô thức trong lúc ta 
				làm việc, ta biết ta đă t́m thấy nghề nghiệp cả đời của ḿnh, và 
				mặc dù với tôi không phải ngày nào cũng như thế nhưng tôi chắc 
				chắn không phải người xa lạ với cảm giác đắm ch́m mê mải đó.
 Bây giờ tôi đă thực sự trở thành một nữ nhiếp ảnh gia hành nghề 
				tự do. Tôi có người đại diện lo việc đặt lịch cho ḿnh – bất cứ 
				vụ chụp h́nh quảng cáo nào kiếm được thù lao đáng kể, có những 
				lần lên tới vài ngh́n đô cho hai ngày làm việc, cũng có lúc ít 
				hơn, khi làm việc cho các tạp chí, tuy nhiên thực t́nh tôi lại 
				thích thú hơn xét trên khía cạnh sáng tạo.
 Tôi say mê ảnh chân dung hơn tất cả - có lẽ v́ tôi không phải 
				người cởi mở lắm. Tôi không dễ dàng nói chuyện với người lạ, tuy 
				nhiên tôi luôn ao ước ḿnh có thể thế, và chụp h́nh chân dung 
				của họ giúp tôi làm được điều đó. Tôi thích gặp gỡ một ai đó 
				trong buổi chiều nhàn nhă, làm quen với nhau qua bữa trưa hoặc 
				tách cà phê, rồi sau đó bắt tay vào việc. Tôi yêu cả thử thách 
				lẫn sai khó của công việc ấy, loay xoay chụp ở nhiều tư thế và 
				góc độ ánh sáng khác nhau cho đến khi bắt h́nh thật chuẩn. Chẳng 
				có ǵ có thể măn nguyện hơn khi chụp được tấm ảnh đó, bức h́nh 
				hoàn hảo. Sự giăi bày của tôi về một tâm hồn khác. Tôi c̣n thích 
				công việc này ở tính đa dạng. ví như việc bấm h́nh một doanh 
				nhân cho tờ Business Week 
				th́ dường như khác hẳn việ chụp một bức cho bộ sưu tập Phong 
				cách của The New York Time
				hay một tấm thật lộng lẫy bao trọn hai mặt trang b́a cho 
				tờ Town & Country, và 
				những người tôi chụp ảnh cũng đa dạng như những ấn bản tôi cộng 
				tác vậy. Chỉ trong vài tuần vừa qua mà tôi đă chụp h́nh một tác 
				giả ăn khách, một chuyên gia tuyển diễn viên cho phim nghệ 
				thuật, một ngôi sao bóng rỗ của trường đại học cùng vị huấn 
				luyện viên huyền thoại của anh ta, và một đầu bếp làm bánh tài 
				giỏi.
 Nói tóm lại, tôi đă đi được xa, rất
				xa kể từ cái thời tráng 
				phim trên đại lộ Hai, và lúc này chút tiếc nuối duy nhất của tôi 
				về lần hội ngộ Leo – ngoài cái thực tế rằng nó đă xảy ra – là 
				tôi đă không nói được với anh ta về nghề nghiệp của ḿnh. Dĩ 
				nhiên tôi muốn anh ta biết chuyện Andy c̣n hơn chuyện công việc 
				của tôi; nhưng lư tưởng mà nói th́ tôi ước ǵ anh ta biết được
				cả hai. Mặt khác, biết 
				đâu anh ta c̣n biết nhiều hơn so với vẻ bề ngoài. Có lẽ lư do 
				khiến anh ta không hỏi về nghề nghiệp của tôi đó là anh ta đă 
				đọc được website của tôi hoặc t́nh cờ thấy tên tôi xuất hiện 
				trong danh sách đoàn làm phim. Xét cho cùng, tôi cũng từng e dè 
				ṃ t́m những tờ báo của Leo, lướt qua các chuyên đề anh ta viết 
				với một sự kết hợp kỳ quái giữa thờ ơ và thú vị, tự hào lẫn coi 
				thường. Tất cả là do ṭ ṃ – và bất kỳ ai nói rằng họ chẳng mảy 
				may bận tâm đến những mối t́nh cũ quan trọng của ḿnh đang sống 
				ra sao th́ theo ư tôi, hoặc là nói dối hoặc là t́nh cảm chưa sâu 
				sắc. Tôi không nói hồi cố, truy tầm mọi chuyện về tất cả những 
				người yêu cũ là chuyện hay ho. Nhưng đơn giản bản chất con người 
				là thỉnh thoảng cũng có đôi chút quan tâm đến người, mà ta từng 
				thật ḷng yêu.
 Thế là ước chừng Leo đă 
				t́nh cờ biết đến website hoặc công việc của ḿnh, tôi hy vọng 
				anh ta sẽ nghĩ xa ra mà đoán được rằng cuộc chia tay của chúng 
				tôi đă là một cú huưch trong cuộc đời tôi – một điểm khởi đầu 
				cho những điều lớn lao và tốt đẹp hơn. Trên một số phương diện 
				th́ quả thực đúng là như vậy đấy, mặc dù tôi không tin rằng ta 
				có thể hoàn toàn đổ lỗi cho bất kỳ một ai về sự thiếu khát vọng 
				của chính ta – đó thưc sự đă là hướng sống trong suốt một thời 
				gian chúng tôi bên nhau.
 Nói về điều này, tôi se ḷng khi nhớ lại thời c̣n ḥ hẹn với 
				Leo, tôi đă thỏa măn đến thế nào trong công việc của ḿnh. T́nh 
				yêu với nghề nhiếp ảnh chưa bao giờ chết trong tôi, nhưng chắc 
				chắn t́nh yêu đó c̣n xa mới đạt tới đam mê khẩn thiết – mà chỉ 
				cùng mọi thứ khác trong cuộc sống tôi trở nên thứ phụ trước mối 
				t́nh cùng với Leo. Leo lúc đó là mọi điều tôi có thể nghĩ, mọi 
				thứ tôi muốn làm. Anh ta đong đầy tôi quá dư dăi đến nỗi tôi 
				chẳng c̣n năng lượng để mà dành cho nhiếp ảnh. Không c̣n thời 
				gian hay động lực dù chỉ để suy ngẫm một nấc thang mới cho nghề 
				nghiệp của ḿnh. Tôi nhớ ḿnh bắt xe buưt đến hiệu ảnh ngày qua 
				ngày, trở nên thành thạo sau tất cả những ǵ có thể học được từ 
				Quỳnh, và tự nhủ với ḿnh kiểu như, “Ḿnh chẳng cần kiếm việc ǵ 
				khác làm ǵ. Tiền chẳng quan trọng tí nào với ḿnh hết. Ḿnh 
				hạnh phúc với một cuộc đời b́nh dị .”
 Sau giờ làm việc, tôi sẽ thẳng đường tới chỗ ở mới của Leo, trở 
				lại vùng Queens, lúc nào cũng sẵn sàng v́ anh ta, chỉ về nhà 
				ḿnh khi anh ta có kế hoạch khác hoặc khi tôi cần thay quần áo. 
				Trong những đêm hiếm hoi chúng tôi không ở chung, tôi thường đi 
				ra ngoài với Margot và nhóm bạn của chúng tôi, nhưng tôi vẫn 
				thích ở nhà hơn, nơi tôi có thể mơ mộng về Leo hay lên lịch cho 
				chuyến phiêu lưu cùng nhau tiếp tới của chúng tôi hay soạn băng 
				cassette tập hợp những bài hát dường như tuyệt vời nhất, thông 
				minh nhất, sâu lắng nhất cho người t́nh tuyệt vời, thông minh, 
				sâu lắng của ḿnh. Tôi luôn tha thiết muốn làm vừa ḷng Leo, 
				muốn gây ấn tượng với anh ta, muốn chắc bằng được rằng anh ta 
				cần và yêu tôi cũng nhiều như tôi cần và yêu anh vậy.
 Thuở ban đầu mọi chuyện dường như tốt đẹp. Leo say mê tôi không 
				kém ǵ t́nh cảm tôi dành cho anh ta, chỉ có điều theo lối ít dại 
				khờ hơn của đàn ông. Anh ta không bao giờ hoàn toàn xa rời công 
				việc của ḿnh, nhưng cũng bởi aanh lớn tuổi hơn và đă tiến được 
				xa hơn trong công việc, với những nhiệm vụ quan trọng trong hạn 
				thực hiện rất gấp. Tuy nhiên, anh đă đưa tôi cùng dự vào đời 
				sống sự nghiệp của anh, cho tôi bám càng khi đi phỏng vấn, dẫn 
				tôi tới ṭa soạn vào cuối tuần để tôi sắp xếp tài liệu giúp anh 
				hoặc đơn giản chỉ là ngắm nh́n anh trong khi anh viết báo (hoặc 
				quyến rũ tôi trên bàn làm việc của anh). Và anh cũng như tôi 
				luôn sẵn ḷng bỏ qua bạn bè và gia đ́nh, yêu thích thời gian 
				chúng tôi được ở riêng cùng nhau hơn, chỉ hai chúng tôi thôi.
 Mọi việc cứ êm trôi như thế trong nhiều tháng, và cảm giác thật 
				diệu kỳ, hạnh phúc. Chúng tôi không bao giờ chán chuyện tṛ. Mỗi 
				lần tạm biệt, dù trong điện thoại hay khi trực diện, đều lưu 
				luyến măi, như thể đây hẳn là phút cuối chúng tôi được tṛ 
				chuyện cùng nhau. Chúng tôi sẵn ḷng bỏ ngủ để chuyện tṛ, hỏi 
				han vô vàn chuyện về con người và quá khứ của nhau. Không có chi 
				tiết nào thời thơ ấu là nhỏ nhặt, một dấu hiệu chắc chắn chứng 
				tỏ rằng ai đó đang yêu – hoặc chí ít là cảm thấy hết sức ám ảnh. 
				Leo thậm chí c̣n lấy một bức ảnh chụp tôi dạo lên sáu tuổi bị 
				sún chiếc răng cửa từ cuốn album trong pḥng ngủ của tôi, tuyên 
				bố đó là “thứ dễ thương nhất trần đời” trước khi dán nó lên 
				chiếc bản nhớ trong pḥng bếp nhà anh.
 Tôi đă phơi bày toàn bộ con người ḿnh với anh ta, không giấu 
				giếm một điều ǵ, không có cơ chế tự vệ nào cả. Tôi bộc bạch hết 
				mọi chuyện thiếu tự tin của ḿnh, từ những điều vớ vẩn đáng xấu 
				hổ như tôi luôn ghét đầu gối của ḿnh như thế nào, đến những vấn 
				đề sâu sắc hơn như thỉnh thoảng tôi cảm thấy không tương xứng ra 
				sao với Margot và những người bạn quảng giao giàu có của chúng 
				tôi ở đây. Quan trọng nhất là, tôi đă kể hết với anh ta về mẹ, 
				gồm cả những chi tiết không gọt giũa về sự ra đi của bà mà tôi 
				chưa một lần kể cùng ai. Mẹ trông hết sức bạc nhược, và điều đó 
				gợi nhắc đến h́nh ảnh của vụ Holocaust (Holocaust: 
				Cuộc tàn sát người Do Thái trong Chiến tranh Thế Giới II) 
				ra sao. Một đêm tôi đă đứng nh́n bố móc họng cho mẹ như thế nào 
				khi mẹ thực sự không thở nỗi nữa – một h́nh ảnh măi c̣n thắt lấy 
				tôi tới tận bây giờ. Rồi chuyện một lần tôi thực t́nh đă cầu 
				khấn rằng cái chết hăy mau đến đi – không chỉ v́ như thế mẹ sẽ 
				cất được gánh nặng thống khổ mà c̣n v́ những người thăm bệnh và 
				cả cái không khí ốm đau cũng sẽ bị xóa sạch khỏi nhà chúng tôi, 
				và bố tôi có thể ngừng lo lắng hậu sự cho mẹ, khỏi phải giấu 
				giấu giếm giếm cuốn sổ tang chế mỗi khi chúng tôi bước vào 
				pḥng. Và rồi cả chuyện tôi đă cảm thấy tội lỗi khủng khiếp đếm 
				mức nào khi khoảnh khắc đó cuối cùng cũng đến, thật cứ như thể 
				tôi đă khiến mẹ ra đi sớm hơn thiên định. Tôi kể với Leo thỉnh 
				thoảng tôi thấy xấu hổ ra sao khi không có mẹ, cứ như thể cho dù 
				đời này tôi có làm ǵ đi chăng nữa th́ cũng sẽ vậy thôi, tôi hẳn 
				sẽ luôn luôn bị đánh dấu, phân loại rồi bị thương hại v́ chuyện 
				đó.
 Mỗi lần như vậy, Leo lại lắng nghe và an ủi tôi với biết bao lời 
				hay ho đúng đắn – rằng mặc dù tôi mất mẹ khi c̣n nhỏ, bà vẫn ảnh 
				hưởng tới sự h́nh thành con người tôi ngày nay. Rằng kư ức của 
				tôi về mẹ sẽ không bao giờ phai nhạt và những câu chuyện vui rồi 
				sẽ từ từ thay thế h́nh ảnh cái chết. Rằng những mô tả và câu 
				chuyện của tôi quá sức sống động, khiến anh ước ǵ anh được biết 
				bà.
 Đồng thời, lời giăi bày tâm sự không chỉ từ một phía. Leo cũng 
				chia sẻ bí mật của bản thân, những câu chuyện về gia đ́nh đầy 
				mâu thuẫn của anh, về người mẹ làm nội trợ, sống thờ ơ và chẳng 
				biết coi trọng bản thân, về người cha nhỏ nhen, độc đoán, chuyên 
				áp chế những điều anh không bao giờ căi lại nổi. Anh nói với tôi 
				rằng anh ước ǵ anh có tiền để vào học một trường đại học tốt 
				hơn, danh giá hơn rồi lấy cho được tấm bằng, và anh, cũng như 
				tôi vậy, đôi khi cảm thấy bị đe dọa bởi những cô cậu nhà giàu ở 
				Manhattan với những bộ hồ sơ hào nhoáng từ trường báo của họ. 
				Tôi thấy thật khó tin là một người đặc sắc như Leo mà cũng có sự 
				thiếu tự tin nào đó, nhưng cảm giác có thể bị tổn thương nơi anh 
				chỉ khiến tôi yêu anh nhiều hơn nữa.
 Và rồi, bên cạnh mọi điều khác, và có lẽ c̣n quan trọng hơn mọi 
				điều khác, có một từ trường giữa chúng tôi. Mối quan hệ thể xác. 
				Thứ t́nh dục say sưa đến dại khờ bao hàm cả thi vị lẫn mê dâm – 
				hoàn toàn chẳng giống với bất cứ thứ ǵ tôi từng trải nghiệm 
				trước đó. Ngay từ lần đầu tiên, tôi đă thật sự không hề ngượng 
				ngùng e ngại khi cuộc ân ái đến. Chẳng một điều ǵ mang lại cảm 
				giác vượt qúa giới hạn cho phép cà. Chẳng một điều ǵ tôi không 
				làm với anh, cho anh, cùng anh. Chúng tôi cứ nói rằng chắc chắn 
				chuyện này không thể mỹ măn hơn được nữa. Nhưng bằng cách nào đó 
				nó vẫn thật sự tuyệt lên, hết lần này đến lần khác.
 Tóm lại là chúng tôi đă hoàn toàn ḥa hợp, luôn luôn thèm khát 
				và cuồng si mê đắm trong cả dục lẫn t́nh. Cái ngưỡng đó dường 
				như quá sức tuyệt vời để thành sự thực. Thế nên lẽ ra chẳng có 
				ǵ phải ngạc nhiên với tôi khi nhận ra rằng nó
				đă quá tuyệt vời để có 
				thể thành sự thật.
 Tôi không thể nói chính xác thời điểm chuyện xảy ra, nhưng có lẽ 
				khoảng một năm kể từ khi chúng tôi yêu đương, mọi chuyện bắt đầu 
				thay đổi. Không có ǵ kịch tính xảy ra cả - không có rạn nứt nào 
				từ những vấn đề quan trọng trong đời sống, không có căi vă ầm ĩ 
				với những lời lẽ tục tằn khôn cứu văn. Không ai ngoại t́nh hay 
				gian dối hay chuyển cư tới nơi khác hay nhận được một tối hậu 
				thư về điều sắp sửa xảy tới. Thay vào đó, chỉ có một thay đổi 
				tôi không thể nhận thấy được rơ ràng, một bước chuyển quyền lực 
				thật lặng lẽ. Nó quá sức vi tế, thực sự th́ trong giây phút tôi 
				đă nghĩ chỉ là ḿnh mắc chứng hoang tưởng thôi – kiểu phụ nữ đeo 
				bám điển h́nh là thứ tôi luôn tự hào rằng ḿnh
				không mắc phải, và là 
				thứ tôi chẳng bao giờ cần phải thế với Leo. Nhưng sau đó, tôi 
				biết không phải thế. Leo vẫn yêu tôi; anh nói với tôi điều đó, 
				mà anh vốn chẳng bao giờ 
				nói những lời không thật ḷng với ḿnh. Nhưng t́nh cảm của chúng 
				tôi rơ ràng đă trở nên thiên lệch. Chỉ hơi có vẻ thế thôi, nhưng 
				đó là chuyện của t́nh yêu – ngay cả những khác biệt mơ hồ nhất 
				cũng trở nên hiện hữu một cách lộ liễu, đánh dấu bởi những thay 
				đổi nhỏ nhưng không thể chối căi được trong cư xử. Những thứ vụn 
				vặt, ví như thay v́ gọi lại cho tôi ngay lập tức, mấy tiếng sau 
				anh ta mới gọi, đôi khi thậm chí phải cả ngày. Anh ta lại bắt 
				đầu đi chơi đều đặn với nhóm bạn trai và tham gia đội hockey 
				trên băng của cơ quan vào các đêm thứ Bảy. Chúng tôi bắt đầu xem 
				ti vi vào buổi tối thay v́ chỉ chuyện tṛ bên nhau, và thỉnh 
				thoảng anh ta quá mệt mỏi với sex, chuyện không bao giờ có trong 
				những ngày đầu ḥ hẹn của chúng tôi khi anh thường xuyên đánh 
				thức tôi dậy lúc giữa đêm, âu yếm tôi khắp mọi nơi. Và ngay cả 
				khi chúng tôi làm t́nh, lúc nào cũng có một cảm giác xa ngái đến 
				ngay sau đó. Một sự chia tách khi anh lăn ḿnh khỏi tôi hay nh́n 
				sâu vào khoảng không, lẫn vào chính ḿnh, những suy nghĩ riêng, 
				một nơi ẩn mật nào đó khác.
 “Anh đang nghĩ ǵ thế?” tôi hỏi, một câu hỏi mà cả hai chúng tôi 
				từng rất coi thường, một cách trả lời khác đi với chi tiết chính 
				xác. Một câu hỏi mà giờ đây dường như đang khiến anh bực ḿnh.
 “Không ǵ cả,” anh cắn cảu.
 “Không ǵ cả?” tôi hỏi, nghĩ rằng như thế chỉ có một khả năng. 
				Luôn nghĩ một điều ǵ đó.
 “Phải, Ellen. Không ǵ cả,” 
				anh nói trong khi tôi phát rồ nhận ra rằng anh không gọi tôi 
				bằng cái tên cưng anh thường vẫn gọi, Ellie. “Đôi khi chỉ là anh
				không nghĩ ǵ cả.”
 “Được rồi,” tôi nói, quyết định để cho anh có không gian riêng 
				cho ḿnh b́nh tĩnh trở lại đă, trong khi không ngừng thầm phân 
				tích mọi hành động của anh, suy xét kỹ những điều sai quấy. Phải 
				chăng tôi đă khiến anh căng thẳng? Có phải tôi c̣n thua kém quá 
				nhiều so với mẫu h́nh lư tưởng của anh? Có phải anh vẫn c̣n t́nh 
				cảm với bạn gái cũ, một nghệ sĩ người Do Thái hơn anh sáu tuổi 
				(nghĩa là cô ta hơn tôi tận 
				mười hai năm kinh nghiệm)? Tôi có giỏi bằng cô ta khi 
				trên giường không? Anh có yêu tôi nhiều như anh từng yêu cô 
				không – và một điều quan trọng hơn nữa, anh có yêu tôi nhiều như 
				anh đă từng yêu tôi 
				không?
 Ban đầu, những câu hỏi đó chỉ mơ hồ trong tâm trí, nhưng dần dần 
				chúng lộ rơ, có khi giữa một trận căi vă tóe lửa, cũng có khi 
				trong lúc tôi vỡ ̣a nước mắt vô vọng. Tôi đ̣i hỏi những lời đoan 
				chắc, liên tục đặt ra bao nhiêu câu hỏi, dồn anh vào chân tường, 
				bắt đầu tranh luận về mọi điều mà cũng chẳng hẳn về ǵ cả. Một 
				đêm, khi ngồi một ḿnh trong căn hộ của anh, tôi thậm chí đă lục 
				lọi các ngăn kéo rồi đọc mấy trang trong cuốn nhật kư của anh – 
				một quyển sổ bí mật đầy ắp các mẫu tin và trang báo cắt dán, cả 
				tranh ảnh và bưu thiếp. Một quyển sổ mà anh mang theo khắp mọi 
				nơi và luôn khiến tôi cảm thấy một nguồn yêu dạt dào dâng lên 
				mỗi lần anh mở nó ra. Đây là một sai lầm khủng khiếp – không 
				phải bởi v́ tôi t́m thấy hay không t́m thấy điều ǵ, mà bởi v́ 
				sau đó c̣n lại trong tôi là nỗi đau thăm thẳm khôn cùng, một cảm 
				giác cơ hồ không phai nổi. Giờ th́ tôi đích xác là kiểu phụ nữ 
				kia rồi; chúng tôi đích xác là kiểu cặp đôi
				đó. Tôi cố gắng gạt bỏ 
				suy nghĩ ấy ra khỏi tâm trí ḿnh để sống tiếp, nhưng chẳng thể 
				nào vượt qua nổi điều tôi đă làm – điều anh đă
				khiến tôi phải làm. Thế 
				nên mấy ngày sau, tôi đă tuyệt vọng thú thật, chuyện đó dẫn đến 
				cuộc căi vă long trời lỡ đất và anh đă thừa nhận rằng anh không 
				tin khi nào đấy anh có thể tạo được một mối quan hệ bền vững. 
				Với tôi. Với bất kỳ ai.
 “Tại sao không?” tôi hỏi, cảm thấy tan nát cơi ḷng.
 “Hôn nhân đơn giản là không dành cho anh,” anh nói, nhún vai ơ 
				hờ.
 “Tại sao không?” tôi nói, dồn ép anh thêm nữa. Lúc nào cũng thêm 
				nữa.
 Anh thở dài bảo rằng hôn nhân thực chất là hợp đồng giữa hai con 
				người – mà hợp đồng chỉ được kư khi ta không hoàn toàn tin tưởng 
				một ai đó. “Như thế rơ ràng là em không tin,” anh nói, quẳng mọi 
				trách nhiệm vào tôi.
 Tôi xin lỗi và khóc nấc lên mà nói với anh rằng tất nhiên là tôi 
				tin anh chứ và rằng tôi cũng không biết chuyện ǵ đă xảy ra với 
				ḿnh nữa và rằng tôi không quan tâm chuyện cưới xin đâu, tôi chỉ 
				muốn ở bên anh thôi, măi măi.
 Thái độ của anh sắt đá khi nói, “Anh hai mươi chín tuổi. Anh 
				không muốn nói tới chuyện măi măi.”
 “Được rồi,” tôi nói, nhận thấy một cảm giác quỵ lụy. “Em xin 
				lỗi.”
 Anh gật đầu nói, “Được rồi. Chúng ta quên chuyện này đi, được 
				chứ?”
 Tôi gật đầu, vờ như đă được xoa dịu, rồi lát sau chúng tôi làm 
				t́nh và tôi cố thuyết phục ḿnh là mọi chuyện sẽ ổn thôi. Chúng 
				tôi chỉ đang trải qua giai đoạn khó khăn, một vài nỗi đau đang 
				nhen nhóm, và tôi cần phải kiên nhẫn, vượt qua thử thách, thay 
				điều tồi tệ bằng chuyện tốt đẹp. Tôi tự nhủ t́nh yêu đôi khi là 
				một cuộc chiến lao tâm khổ tứ, và rằng với sức mạnh tuyệt đối 
				của ư chí, tôi sẽ giải quyết được mọi vấn đề giữa chúng tôi, yêu 
				anh đủ nhiều cho cả hai.
 Nhưng mấy ngày sau, chúng tôi đă đi đến cuộc tranh căi cuối 
				cùng, thật kỳ cục là theo lịch, hôm đó vừa đúng đêm giao thừa 
				chào đón thiên niên kỷ mới.
 “Giao thừa là một đêm vớ vẩn,” Leo khăng khăng suốt tuần như vậy 
				mỗi lần tôi van vỉ anh tới bữa tiệc mà tôi đă hứa với Margot là 
				sẽ tham dự. “Em biết là anh ghét mấy cái cảnh đó mà. Và chuyện 
				rêu rao về hiện tượng Y2K này thật không chịu nổi. Đơn giản chỉ 
				là một năm khác thôi.”
 “Đến đi anh,” tôi nói. “Nó quan trọng với Margot mà.”
 “Thế th́ để Margot dự đi.”
 “Nó quan trọng với em.”
 “Ờ, quan trọng với anh 
				là ở nhà,” anh nói.
 Tôi mặc cà, nài nỉ. “Chỉ đến chút thôi, một hoặc hai tiếng. Rồi 
				chúng ta sẽ về nhà.”
 “Để xem đă,” cuối cùng anh cũng thoái lui – một câu trả lời hầu 
				như luôn hàm nghĩa là không.
 Nhưng đêm đó, tôi cứ khư khư tin rằng anh sẽ đến và làm cho tôi 
				bất ngờ kinh ngạc. Tôi tưởng tượng ra khung cảnh mờ ảo, mong 
				manh. Mắt chúng tôi nhắm lại và đám đông ră ra khi anh t́m thấy 
				môi tôi, ngay lúc giao thừa. Hệt như trong phim
				Khi Harry gặp Sally. 
				Suốt cả đêm tôi nh́n đồng hồ và ngóng cửa, một cảm giác hầu như 
				thất vọng, nhưng lại hy vọng hơn bao giờ hết. Cho đến lúc mười 
				một giờ năm chín phút điểm, tôi đứng trong một góc cô đơn, lắng 
				nghe bản nhạc “1999” du dương của Prince, và rồi cuối cùng đúng 
				lúc c̣n mười giây đếm ngược, tôi lên cơn đau quặn thắt bụng, 
				Margot trong cơn chếnh choáng đă t́m thấy tôi mấy phút sau, ôm 
				chặt lấy tôi, tuôn ra một tràng rằng cô yêu tôi nhiều lắm và 
				rằng chúng tôi phải nh́n về phía trước. Nhưng rồi cô trở lại với 
				bạn trai của cô, và tôi đi về nhà một ḿnh, ngủ thiếp đi với 
				chiếc điện thoại ngay bên gối, chờ đợi, thậm chí nguyện cầu.
 Nhưng Leo không hề gọi suốt đêm đó. Sáng hôm sau cũng không. 
				Khoảng trưa, khi không thể chịu nổi nữa thêm một giây nào, tôi 
				bắt xe điện ngầm đến nhà anh. Anh ở nhà, đọc báo và xem MTV.
 “Anh không hề đến,” tôi khổ sở nói, đi thẳng vào vấn đề.
 “Xin lỗi,” anh nói, nghe chẳng có vẻ ǵ hối lỗi. “Anh cũng định 
				đến. Anh ngủ mất lúc tầm mười rưỡi.”
 “Em bơ vơ một ḿnh lúc giao thừa,” tôi nói một cách đáng thương, 
				tự thấy ḿnh có lư.
 “Anh cũng thế,” anh cười.
 “Không phải chuyện đùa đâu,” tôi nói, giờ th́ thấy tức giận hơn 
				là tổn thương.
 “Nghe này. Anh không hề hứa với em anh sẽ tới,” anh nói, vẻ 
				khích động.
 Tôi lập tức chùn lại, ngả đầu lên vai anh khi chúng tôi xem bóng 
				đá trên ti vi, rồi làm món ốp lết Hy Lạp – món sở trường của Leo 
				– sau đó là làm t́nh trên trường kỷ. Nhưng một lúc sau đấy, khi 
				anh đứng bật dậy và nói rằng anh phải viết một bài báo, tôi lại 
				ch́m trong nỗi buồn.
 “Hôm nay là Tết mà,” tôi rên rỉ, ghét cay ghét đắng giọng nói 
				của chính ḿnh.
 “Anh vẫn có hạn nộp bài,” anh nói thẳng thừng.
 Tôi nh́n anh, đầu tôi quay ṃng ṃng với nỗi oán giận cay đắng 
				cùng khổ đau tuyệt vọng, và rồi tôi mở miệng thốt ra những lời 
				đáng xấu hổ đó.
 “Chuyện này chẳng đi đến đâu hết,” tôi nói, thật tâm tin rằng 
				ḿnh chỉ đang thăm ḍ, đẩy mọi chuyện lên tới hạn, thử một chiến 
				thuật khác để lôi anh trở lại. “Em nghĩ ḿnh nên chia tay.”
 Tôi mong chờ sự kháng cự, một trận chiến, chí ít cũng là một 
				cuộc thảo luận thẳng thắn. Nhưng thay v́ thế, Leo đồng ư ngay 
				rằng tôi đúng. Anh nói vô cùng nhẹ nhàng, hầu như yêu thương, 
				điều đó khiến tôi cảm thấy c̣n tệ hơn một sự đáp trả gay gắt. 
				Anh ṿng tay qua người tôi, sự giải thoát ở nơi anh hầu như có 
				thể cảm nhận rơ.
 Tôi không c̣n lựa chọn nào hơn là làm như thế. Rốt cuộc, tôi là 
				người đề nghị trước cơ mà.
 “Chào, Leo,” tôi nói, nghe dũng cảm hơn những ǵ tôi cảm thấy.
 “Tạm biệt, Ellen” anh nói, chí ít cũng có nỗi buồn giả cách.
 Tôi lưỡng lự, nhưng biết rằng chẳng có đường nào quay lại. Thế 
				nên tôi rời khỏi nhà anh trong bàng hoàng và chối bỏ, nhảy lên 
				taxi về nhà thay v́ đi tàu điện.
 Khi tôi về đến nhà, Margot đang đọc tạp chí trong pḥng chung. 
				“Cậu ổn chứ?” cô hỏi.
 Tôi nói với cô tôi cũng không biết nữa.
 “Chuyện ǵ xảy ra vậy?”
 “Bọn tớ tan rồi.”
 Tôi những định nói tiếp, kể hết mọi chuyện đớn đau, nhưng lại 
				thấy ḷng ḿnh đóng lại, trở nên tự vệ và im ỉm.
 “Tớ rất tiếc,” cô nói. “Cậu muốn kể về chuyện đó không ?”
 Tôi lắc đầu nói, “Tớ không biết nữa… Nó thật sự… phức tạp.”
 Và thật t́nh tôi thấy nó phức 
				tạp đúng như sự phức tạp của mọi cuộc chia tay mà ta là 
				người trong cuộc. C̣n trong thực tế phũ phàng th́, hầu như tất 
				cả thật ra đều rất đơn giản. Chuyện đó dường như giống như thế 
				này: một người không c̣n t́nh yêu, và ước rằng anh ta có thể rút 
				lại những lời đó, lời hứa từ tim đó. Nh́n lại th́, tôi có thể 
				thấy rằng điều ấy giống với trường hợp của Leo và tôi – lời giải 
				thích đơn giản nhất thường bao giờ cũng đúng, mẹ vẫn nói với tôi 
				như thế. Nhưng thời điểm đó, tôi không tin nổi chúng tôi có thể 
				là trường hợp ấy.
 Thay vào đó, tôi vẫn hy vọng điều mọi cô gái trong hoàn cảnh của 
				tôi đều hy vọng: rằng anh ta sẽ thay đổi suy nghĩ, lấy lại cảm 
				xúc, nhận ra những ǵ anh ta nhận được từ tôi, thấy được rằng 
				tôi là người không thể thay thế. Tôi không nguôi nghĩ, thậm chí 
				nói to lên với Margot và Suzanne, “Không ai yêu anh ấy như tôi 
				cả,” điều mà giờ đây tôi nhận ra rằng chẳng phải thứ ǵ ghê gớm 
				đối với một người đàn ông. Đối với bất kỳ ai.
 Thậm chí tệ hơn, tôi không ngừng lặp đi lặp lại trong óc câu 
				châm ngôn khủng khiếp với những lời mở đầu, “Nếu ta yêu thứ ǵ, 
				hăy để cho nó được tự do.” Tôi h́nh dung lại tấm poster cán bóng 
				có in câu châm ngôn đó mà chị gái tôi dán trong pḥng ngủ sau 
				lần chia tay vật vă của chị hồi học trung học. Câu này được viết 
				bằng kiểu chữ hoa văn màu tím đầy cảm xúc, kèm theo một con đại 
				bàng vút bay trên núi non trùng điệp. Tôi nhớ ḿnh đă nghĩ rằng 
				không con đại bàng nào trên đời này sẵn ḷng bay trở lại vào 
				trong chốn giam cầm.
 “Rơ chết tiệt, anh ta chưa bao giờ là của chị cả,” tôi luôn muốn 
				nói thế với Suzanne.
 Nhưng giờ đây. Giờ đây Leo 
				là con đại bàng ấy. Vậy mà tôi cứ tin chắc rằng anh ta sẽ là 
				ngoại lệ với quy tắc đó. Một con chim có lúc quy hồi.
 Thế nên tôi vẫn chờ đợi một cách vô lư, tuyệt vọng bám vào niềm 
				tin rằng cuộc chia tay của chúng tôi chỉ là tạm thời mà thôi. Và 
				thật chẳng hiểu nổi, t́nh cảm của tôi càng
				dâng lên sau khi đôi 
				ngả. Nếu lúc tôi ở bên Leo tôi bị ám ảnh bởi anh ta, th́ khi xa 
				rồi thành ra ngập ngụa trong con người ấy. Anh ta chiếm đoạt đến 
				từng giây phút trong ngày của tôi khiến tôi trở thành phiên bản 
				của kiểu phụ nữ thất t́nh. Tôi đày đọa ḿnh với những ḍng tin 
				nhắn cũ, với những bài hát tủi buồn như “The Last Day of Our 
				Acquaintance” của Snead O’Connor. Tôi giam ḿnh trong giường, 
				khóc nức lên hầu như bất cứ lúc nào. Tôi viết viết sửa sửa bao 
				lá thư dài ngoằn cho anh ta mà biết rằng ḿnh sẽ chẳng khi nào 
				gửi. Tôi hoàn toàn bỏ bê ngoại h́nh bản thân (trừ khi tính đến 
				những lần ngồi gặm nhấm niềm riêng trong bồn tắm bên ánh nến) và 
				luôn do dự giữa nhịn đói hay lại nhồi bừa que kem Doritos cùng 
				thứ bánh bông lan Twinkies trở đi trở lại đến
				bất tận.
 Tôi không thể xua đuổi Leo ngay cả trong giấc ngủ. Lần đầu tiên 
				trong đời, tôi nhớ được rơ tới từng chi tiết các giấc mơ như 
				thế, giấc mơ nào cũng về anh ta, về chúng tôi. Đôi khi là những 
				giấc mơ tồi tệ về cuộc chia tay tàn nhẫn và sự rút lui từ từ, 
				lạnh lẽo của anh ta. Nhưng thỉnh thoảng đó là những giấc mơ thú 
				vị - Leo và tôi giết th́ giờ trong những quán cà phê mịt mù khói 
				thuốc hoặc làm t́nh cuồng nhiệt, đẫm mồ hôi trên giường anh ta – 
				và thường th́ những giấc mơ hạnh phúc giằng xé cơi ḷng hơn là 
				những giấc mơ buồn. Tôi thức dậy, và trong vài giậy thoáng qua, 
				tôi thực sự tin rằng chúng tôi đă lại trở về bên nhau. Rằng cuộc 
				chia tay chỉ là một giấc chiêm bao và rằng tôi chỉ phải mở mắt 
				t́m anh ngay bên cạnh ḿnh thôi. Thay vào đó, sự thật muộn phiền 
				lại hiện hữu. Leo đă đến với cuộc đời mới không có tôi, và tôi 
				đơn độc.
 Sau nhiều tuần, có lẽ là nhiều 
				tháng trong t́nh trạng thái quá đó, Margot đă can thiệp. 
				Hôm đó là chập chiều một ngày thứ Bảy, và cô lại vừa thất bại 
				trong khoảng sáu lần cuối tuần liên tiếp rủ tôi ra ngoài cùng 
				cô. Cô xuất hiện từ pḥng ngủ, trông cực kỳ quyến rũ trong chiếc 
				áo len màu chàm kiểu cách quần jean trễ ôm hông, và đôi bốt mũi 
				nhọn màu đen. Cô đă cuốn lọn mái tóc vốn thẳng ro và phủ một lớp 
				phấn thơm lóng lánh dọc theo xương đ̣n của ḿnh.
 “Cậu trông tuyệt quá,” tôi bảo cô. “Cậu đi đâu vậy?”
 “Đi chơi với đám bạn gái,” cô nói. “Chắc chắn cậu không muốn đi 
				cùng chứ?”
 “Ừ, chắc,” tôi nói. “Tối nay có phim
				Pretty in Pink.”
 Cô khoanh tay trước ngực và bĩu môi. “Tớ không biết cậu buồn rầu 
				đến thế v́ cái ǵ. Cậu chưa bao giờ thực sự yêu anh ta cả,” cuối 
				cùng cô lên tiếng, giọng thẳng thừng bằng cả quyết như thể cô 
				đang tuyên bố rằng thủ phủ của Pennsylavenia là Harrisburg vậy.
 Tôi nh́n cô bằng ánh mắt giống như cô là kẻ điên. Đương nhiên là 
				tôi yêu Leo chứ. Không phải nỗi buồn khủng khiếp của tôi
				minh chứng cho một t́nh 
				yêu lớn sao?
 Cô tiếp tục, “Cậu chỉ ham dục thôi. Hai thứ đó thường lẫn lộn.”
 “Đó là t́nh yêu,” tôi 
				nói, thầm nghĩ t́nh dục chỉ là một phần trong t́nh yêu của chúng 
				tôi thôi. “Tớ vẫn yêu 
				anh ấy. Tớ sẽ măi yêu 
				anh ấy.”
 “Không,” cô nói. “Cậu chỉ yêu cái
				ư niệm về t́nh yêu thôi. 
				Và giờ th́ cậu yêu cái ư niệm 
				về một kẻ trái tim tan vỡ… Cậu đang diễn giống như đứa chíp hôi 
				đau khổ.”
 Đó là lời đả kích nặng nề quá sức với một phụ nữ đang độ tuổi 
				hai mươi.
 Cô thở dài và chằm chằm nh́n tôi bằng ánh mắt của người mẹ. 
				“Chưa bao giờ cậu nghe rằng t́nh yêu đích thực phải là thứ khiến 
				ta tốt đẹp hơn sao? Là thứ nâng đỡ cậu?”
 “Tớ đă là người tốt đẹp 
				hơn bên Leo,” tôi nói, cắn một hạt dẻ. “Anh ấy
				đă nâng đỡ tớ.”
 Cô lắc đầu và tuôn ra một tràng thuyết giáo, ngữ điệu miền Nam 
				trở nên nặng hơn, đúng kiểu nó luôn thế mỗi khi cô tỏ ra gay gắt 
				về cái ǵ. “Thực sự cậu rất tồi
				khi ở bên Leo… Anh ta biến cậu thành kẻ tầm thường, nhu 
				nhược, dễ dao động, hời hợt. Giống như thể tớ chưa từng
				biết tí ǵ về cậu vậy. 
				Bên anh ta cậu không c̣n là cậu. Tớ nghĩ toàn bộ mối quan hệ đó 
				là… thiếu lành mạnh.”
 “Cậu chỉ ghen thôi,” tôi nói yếu ớt, tự nghĩ tôi không chắc là 
				ḿnh có ư nói cô ấy ghen v́ cô không có được một người t́nh như 
				Leo – hay ghen v́ anh ta thế vào vị trí người quan trọng nhất 
				đời tôi của cô. Cả hai giả thuyết đều có vẻ hợp lư mặc dù thực 
				tế th́ cô, như bất cứ lúc nào, khi đó cũng có bạn trai.
 “Ghen. Tớ không
				nghĩ vậy đâu, Ellen.” 
				Giọng cô hết sức thuyết phục, nhấp nhỉnh thú vị trước cái ư 
				tưởng ghen tị với những ǵ tôi có cùng Leo, đến mức khiến tôi đỏ 
				bừng mặt khi đành từ bỏ luận điệu đó mà chỉ nhắc lại rằng, “Anh 
				ấy thực sự rất rất khiến 
				tớ tốt đẹp lên.”
 Đậy là lần tiến gần nhất đến cái ǵ đó tương tự với cuộc căi vă 
				giữa chúng tôi, thế nên mặc dù cơn giận đang bùng lên, tôi vẫn 
				cảm thấy vô cùng căng thẳng, không thể nh́n vào mắt cô.
 “Ồ thế ư?” cô nói. “Được rồi, nếu điều đó là sự thật, Ellen, vậy 
				cho tớ xem một bức ảnh 
				tử tế cậu chụp được hồi cậu cặp với anh ta coi nào. Chỉ tớ xem 
				anh ta tác động tới cậu ra sao nào. Chứng minh tớ sai đi.”
 Tôi đặt cái kem xuống, ngay trên tờ
				Town & Country số tháng 
				Tư của cô, rồi đi về phía chiếc bàn có nắp cuộn của tôi ở trong 
				góc pḥng khách. Tôi lôi bật ngăn kéo, mở một tập phong b́ giấy 
				xi măng đựng đầy h́nh ảnh ra, rồi liệng xoẹt đống ảnh lên bàn 
				trước.
 Cô cầm chúng lên, liếc qua một lượt với vẻ mặt hững hờ y như 
				thái độ của một người di chuyển bừa phứa những con bài trong tṛ 
				đánh bài một ḿnh trên máy tính.
 “Ellen,” cuối cùng cô nói. “Những tấm h́nh này… Chúng chỉ là 
				không tốt như thế.”
 “Cậu có ư ǵ khi nói chúng không tốt như thế?” tôi nói, nh́n qua 
				vai cô khi cô xem xét những bức ảnh cảu Leo. Leo cười rạng rỡ. 
				Leo trầm mặc suy tư. Leo ngủ một sáng ngày Chủ Nhật, cuộn tṛn 
				bên con chó Jasper của anh. Tôi cảm thấy một cơn đau buốt nhớ 
				nhung con chó bốc xơ không chút thân thiện mà tôi chưa từng thật 
				sự muốn chơi cùng.
 Được rồi,” măi rồi cô mới lại lên tiếng, dừng mắt ở một bức ảnh 
				Leo mà tôi đă chụp mùa hè năm ngoái. Anh đang mặt quần sóoc và 
				áo phông in chữ “Arita”, dựa lưng trên chiếc ghế dài trong công 
				viên trung tâm, nh́n thẳng vào máy ảnh, nh́n thẳng vào
				tôi. Chỉ có đôi mắt anh 
				mỉm cười.
 “Xem bức này, ví dụ nhé,” cô nói. “Ánh sáng tốt. Bố cục đẹp, tớ 
				cho là thế, nhưng nó… chỉ là một thứ buồn tẻ. Anh ta bảnh trai 
				và ổn hết, nhưng thế th́ sao? Ở đây chẳng có ǵ khác ngoài một 
				gă khá ưa nh́n ngồi trên băng ghế… Xem ra…
				anh ta đang nỗ lực
				thế quá lố.”
 Tôi thở hổn hển, ít nhất là ở trong ḷng. Sự xúc phạm này có lẽ 
				thậm chí c̣n tệ hơn ví 
				tôi với đứa tuổi teen thất t́nh. “Nỗ 
				lực quá lố?” tôi nói, giờ đă thực sự tức giận.
 “Tớ đâu có nói cậu nỗ 
				lực quá lố,” cô bảo. “Nhưng anh 
				ta th́ rơ ràng là thế. Chỉ cần nh́n biểu lộ của anh ta… 
				Anh ta thiếu tự nhiên, bảnh chọe, tự thức. Anh ta biết ḿnh đang 
				được chụp ảnh. Anh ta biết ḿnh đang được tôn thờ. Tất cả ở anh 
				ta là thế, kiểu ‘Hăy nh́n vào ánh mắt đầy nhục cảm của tôi.’ 
				Nghiêm túc đấy Ellen. Tớ ghét 
				tấm ảnh này. Tất tần tật h́nh cậu chụp trong năm trước khi quen 
				Leo đều thú vị hơn bức ảnh này.”
 Cô quẳng bức h́nh trở lại trên bàn, và nó úp sấp xuống. tôi nh́n 
				vào nó, và có thể hầu như, hầu 
				như hiểu được điều cô đang nói. Tôi cảm thấy vết cứa của 
				điều ǵ đó gần như xấu hổ, giống với cảm giác khi tôi lật giở 
				đọc lại những vần thơ haiku mà tôi đă nghĩ thật đáng ngưỡng mộ 
				tôi viết về mùa hè đi lướt sóng ở bờ biển Jersey từ hồi cấp hai. 
				Những bài haiku tôi từng tự hào gởi cho một tờ tạp chí văn học, 
				để rồi cảm thấy thật sự choáng váng khi lời từ chối đến trong 
				hộp thư.
 Margot và tôi nh́n chằm chằm trong một lúc tưởng như rất lâu. Đó 
				có lẽ là khoảnh khắc chân thực, đầy sức mạnh nhất trong mối quan 
				hệ của chúng tôi, và trong giây phút ấy, tôi vừa yêu vừa giận 
				cô. Cuối cùng cô phá vỡ im lặng trước.
 “Tớ biết nó đau lắm, Ellen… Nhưng đă đến lúc tiến lên,” cô nói, 
				mạnh mẽ sắp chồng ảnh lại cho vào chiếc phong b́. Rơ ràng Leo 
				không c̣n đáng để cô xé khuôn mặt anh ra làm đôi như trước nữa.
 “Tớ phải làm thế bằng cách nào kia chứ?” tôi đáp lại yếu ớt. Đó 
				không phải câu hỏi tu từ - tôi thực sự
				muốn biết chính xác 
				những việc tôi phải làm tiếp tới.
 Cô suy nghĩ một giây và rồi cho tôi một lời chỉ dẫn. “Tối nay cứ 
				tiếp tục ngồi ́ ra mà xem Molly Ringwald. Rồi sáng mai tỉnh dậy 
				hăy tắm cho thật kỹ. Sấy tóc, trang điểm một chút. Rồi cầm lấy 
				máy ảnh của cậu và trở lại với công việc ấy… Anh ta sẽ không 
				quay trở lại nữa… Vậy hăy làm việc
				cậu yêu thích… Đến lúc 
				rồi.”
 Tôi nh́n cô, biết rằng cô đúng. Biết rằng lại một lần nữa, tôi 
				đứng trước ngă ba đời ḿnh, và một lần nữa, tôi cần phải làm 
				theo lời khuyên của Margot mà đến với nhiếp ảnh.
 Thế là ngày hôm sau tôi mua một chiếc máy ảnh mới – chiếc tốt 
				nhất tôi có thể chi trả bằng chiếc thẻ tín dụng c̣m cơi của ḿnh 
				– và đăng kư vào một khóa đào tạo tổng hợp tại Viện Nhiếp Ảnh 
				New York. Hơn một năm sau, tôi đă nắm được những chi tiết phức 
				tạp về thiết bị, mọi thứ về ống kính, và làm chủ được ánh sáng 
				flash, ánh sáng đèn tungsten và đèn chớp. Tôi nghiên cứu cặn kẽ 
				đặc điểm lỗ ống kính máy ảnh, tốc độ màn trập, và hiểu những thứ 
				đó cũng thấu đáo như hiểu về phim và giới hạn ISO, cân bằng 
				trắng và biểu đồ. Tôi học các lư thuyết về bố cục, màu sắc, hoa 
				văn và khung h́nh, cũng như về “đinh luật một phần ba” (một thứ 
				mà tôi nghĩ ḿnh biết nó từ trong bản năng) và cách dùng các 
				đường thẳng làm cho h́nh ảnh có sức hút hơn. Tôi đă học được vô 
				khối thứ về việc in ảnh, tuy vậy tôi có thể thực hành kỹ thuật 
				của ḿnh trên những máy móc phức tạp hơn nhiều. Tôi học thêm một 
				khóa về chụp chân dung, nghiên cứu ánh sáng và vị trí. Tôi 
				nghiên cứu về nhiếp ảnh đồ vật, nhiếp ảnh đồ ăn, nhiếp ảnh kiến 
				trúc, nhiếp ảnh phong cảnh, thậm chí nhiếp ảnh thể thao. Tôi t́m 
				ṭi sâu hơn về chụp ảnh kỹ thuật số, thành thạo Adobe Photoshop, 
				ngôn ngữ của các pixel và cỡ con chíp (khái niệm hiện đại bậc 
				nhất lúc bấy giờ). Tôi thậm chí c̣n học một lớp về khía cạnh 
				kinh doanh và marketing của nhiếp ảnh.
 Với mỗi tuần mới mẻ, mỗi kỹ thuật tân kỳ tôi học được, tôi lại 
				cảm thấy vết thương ḷng khép miệng thêm một chút. Phần nào chỉ 
				là bởi sự trôi chảy của thời gian, một thành phần thiết yếu của 
				bất cứ cuộc phục hồi tổn thương t́nh cảm nào. Tuy nhiên, phần 
				nào chuyện này là bởi một đam mê này đă từ từ thay thế đam mê 
				kia. Và mặc dù một lần trái tim tan vỡ không khiến tôi trở thành 
				chuyên gia trong lĩnh vực này, tôi vẫn tin ta cần
				cả hai thứ - thời gian
				và một t́nh cảm thay thế 
				- để trọn vẹn hồi phục một con người.
 Khoảng chín tháng sau chuyện với Leo, cuối cùng tôi đă cảm thấy 
				sẵn sàng – cả về kỹ thuật lẫn 
				cảm xúc- để cho ra đời bộ ảnh của ḿnh và nộp hồ sơ xin một công 
				việc trợ lư thực thụ. Thông qua bạn của một người bạn, tôi hay 
				tin một nhà nhiếp ảnh thương mại tên là Frank Brightman đang 
				kiếm một trợ lư thứ hai. Frank chủ yếu chụp ảnh thời trang và 
				quảng cáo, nhưng thỉnh thoảng cũng làm việc với các tạp chí. Anh 
				ta có một phong cách nghệ sĩ rất đặc biệt gợi nhắc đến chủ nghĩa 
				siêu thực – một dáng vẻ khiến tôi vừa ngưỡng mộ vừa tưởng tượng 
				ra được một ngày nào đó ắt có đua tranh, tất nhiên là bằng phong 
				thái của chính tôi.
 Trước khi có thể bàn căi với chính ḿnh về chuyện đó, tôi gọi 
				cho Frank hỏi về vị trí c̣n trống này, và anh ta mời tôi tới 
				phỏng vấn tại studio nhỏ ở Chelsea của anh ta. Ngay lập tức, 
				Frank vừa gây ấn tượng với tôi vừa tạo cảm giác rất dễ chịu. Anh 
				ta có mái tóc màu bạc tuyệt đẹp, trang phục hoàn hảo, và sự ân 
				cần dịu dàng. Cũng có cả cái ǵ đó phảng phất thiếu nam tính 
				trong phong thái của anh ta khiến tôi nghĩ anh ta gay – điều mà 
				trong thời điểm đó, với người có nguồn gốc từ một thị trấn toàn 
				dân lao động, và từ một trường học miền Nam thủ cựu như tôi, vẫn 
				gây cảm giác giống như một món mới lạ đầy phức tạp.
 Tôi quan sát Frank vừ nhấm nháp cốc cappuccino vừa săm soi bộ 
				ảnh nghiệp dư của tôi sắp đặt trong một cuốn album giả da. Anh 
				ta vừa lật giở các trang ảnh vừa lầm bầm tán thưởng. Rồi anh ta 
				đóng tập ảnh lại, nh́n vào mắt tôi, và nói mặc dù có thể thấy 
				tôi rất có triển vọng, anh ta sẽ không tô vẽ về công việc – anh 
				ta đă có trợ lư thứ nhất, và gần như chỉ cần một người giúp việc 
				thôi. Một người để thanh toán các hóa đơn, chạy cà phê, và phải 
				đứng rất nhiều. “Công việc rơ là không tuyệt mỹ đâu,” anh ta kết 
				thúc.
 “Tôi có thể làm được,” tôi trả lời sốt sắng. “Tôi từng làm phục 
				vụ bàn. Tôi giỏi đứng lắm. Tôi giỏi cả việc nhận yêu cầu của 
				khách nữa.”
 Frank vẫn giữ khuôn mặt lạnh lùng khi nói với tôi rằng anh ta 
				vừa cho thôi việc lần thứ tư vị trí trợ lư thứ hai. Anh ta nói 
				tất cả bọn họ đều có hồ sơ tốt hơn tôi, nhưng đều rất lười và 
				không đáng tin. Rồi anh ta dừng lại và nói anh ta có thể thấy 
				rằng tôi khác thế.
 “Cô có vẻ thật thà về bản thân,” anh ta nói. “Và tôi thích 
				chuyện cô đến từ Pittsburgh. Miền đất chân thực, tốt đẹp ấy, 
				Pittsburgh.”
 Tôi cảm ơn anh ta, hé một nụ cười luôn-háo-hức-được-làm-việc.
 Frank mỉm cười lại và nói, “Công việc này dành cho cô. Chỉ cần 
				chuyên cần đi làm hàng ngày, đúng giờ, chúng ta sẽ tiến triển 
				tốt thôi.”
 Vậy là tôi chỉ cần làm đúng thế. Đến chỗ làm hằng ngày trong 
				suốt hai năm sau đó. Tôi vui vẻ hài ḷng làm theo các yêu cầu 
				của Frank và trợ lư thứ nhất của anh ta, một phụ nữ lớn tuổi 
				thông minh tên là Marguerite. Frank và Marguerite là những người 
				tài giỏi, giàu sức sáng tạo nên tôi nhanh chóng nắm bắt được mọi 
				chi tiết công việc. Tôi đảm bảo chứng nhận bảo hiểm cho những 
				bức ảnh lớn – đôi khi thậm chí c̣n thuê đến cảnh sát. Tôi xử lư 
				việc thuê mướn thiết bị, lắp đặt đèn chiếu sáng và đèn chớp dưới 
				con mắt quan sát tỉ mẩn của Frank, nhiều khi bắt đầu ngày làm 
				việc từ lúc trời c̣n tờ mờ đất. Tôi tua phim (vào ngày tôi thôi 
				làm, Frank nói anh ta chưa bao giờ thấy ai tua phim nhanh đến 
				thế, đó dường như là lời khen ngợi tột bậc) và phải đọc máy đo 
				ánh sáng thực sự đến mấy ngàn lần. Tóm lại, tôi học tỉ mỉ vô 
				khối thứ về nhiếp ảnh thương mại, trong khi đó mỗi lúc một tự 
				tin hơn rằng ngày nào đấy tôi sẽ sải bước trên đôi chân của 
				chính ḿnh.
 Và cuộc sống của tôi đang diễn ra như vậy ngày Andy đến với tôi.
 Người ta vẫn nói rằng thời gian là tất cả, và khi nh́n lại, tôi 
				thấy ḿnh thật sự là tín đồ cuồng tín của lư thuyết này. Nếu 
				Andy ngỏ lời ḥ hẹn với tôi sớm hơn thời điểm đó một chút, tôi 
				có thể đă xem lời mời ấy như một thủ đoạn tội nghiệp, một tṛ 
				Margot đă nhờ anh thực hiện. Tôi hẳn sẽ nói không một cách thẳng 
				thừng, và v́ Andy không hoàn toàn là một anh chàng năng nổ, 
				chuyện có lẽ sẽ dừng lại ở đó. Và, quan trọng hơn, tôi hẳn sẽ 
				không có thời gian để chen thêm người vào giữa những anh chàng 
				linh tinh, vớ vẩn nhưng vẫn vô cùng quan trọng để giúp tôi phục 
				hồi, những gă hầu như chỉ kéo dài được một đôi buổi hẹn.
 Nhưng nếu anh ra tay muộn hơn chút nữa, tôi có thể đă trở thành 
				một người hoài nghi – một điều thực sự khó khăn đối với phụ nữ 
				sắp sang tuổi ba mươi, nhưng là điều tôi cảm thấy dứt khoát có 
				thể xảy ra. Hoặc tôi có thể đă bắt đầu một mối quan hệ nghiêm 
				túc với ai đó khác – có thể lại một ai đó giống Leo v́ người ta 
				vẫn nói ta thường hẹn ḥ với cùng một típ người, hết lần này 
				sang lần khác. Hoặc tôi có thể đă trở nên
				quá đắm ch́m trong công 
				việc.
 Thay vào đó, tôi vẫn lạc quan, bằng ḷng với những ǵ ḿnh có, 
				sống tự lập, và ổn định hết mức so với khả năng khi ta c̣n trẻ, 
				độc thân và sống trong một thành phố lốn. Tôi vẫn day dứt chuyện 
				Leo (và “đổ vỡ đến từ đâu”) nhiều hơn nhiều so với những ǵ tôi 
				có thể thừa nhận với bất kỳ ai - thậm chí với chính ḿnh, và ư 
				nghĩ về Leo vẫn có thể dừng chân tôi trên lối đời ḿnh, xé nát 
				trái tim tôi, siết chặt lồng ngực của tôi. Nhưng tôi đă học được 
				cách điều khiển các cảm xúc, chia ngăn cho chúng. Phần tồi tệ 
				nhất của nỗi đau này đă xuôi ḍng theo thời gian, như vẫn luôn 
				thế, với tất cả mọi người. Tôi hầu như đă nghĩ về Leo đúng với 
				vai tṛ của anh ta – một người t́nh cũ không bao giờ trở lại, và 
				tôi nghĩ về tôi như một ngừơi phụ nữ đă lớn khôn hơn, hoàn thiện 
				hơn từ khi mất anh ta. Nói cách khác, tôi đă chín muồi cho một 
				mối quan hệ mới, một người đàn ông tốt hơn.
 Tôi đă sẵn sàng với Andy.
 
 
 o0o
 
 
 |