Chan Phuoc Liem High School
Other Links
Xem Phim Online Miễn Phí
Phim Sưu Tầm:
Phim Cổ Trang
   
Software Download

Adobe Reader 7.0

VPSKeys 4.3
Click on the icon to download
 News
Lottery
Weather
Sports
Horoscope
Stocks
World Clocks
Choose a
Search Engine



Phương Thuốc Quư của người Việt Nam
Bài Thuốc "Ngự Tửu Minh Mạng Thang"

Đám cưới vua Hàm Nghi

Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế (1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:

I. Nhất dạ ngũ giao

Thành phần:

1 - Nhục thung dung 12g
2 - Táo nhân 8g
3 - Xuyên Qui 20g
4 - Cốt toái bổ 8g
5 - Cam cúc hoa 12g
6 - Xuyên ngưu tất 8g
7 - Nhị Hồng sâm 20g
8 - Chích kỳ 8g
9 - Sanh địa 12g
10 - Thạch hộc 12g
11 - Xuyên khung 12g
12 - Xuyên tục đoạn 8g
13 - Xuyên Đỗ trọng 8g
14 - Quảng b́ 8g
15 - Cam Kỷ tử 20g
16 - Đảng sâm 10g
17 - Thục địa 20g
18 - Đan sâm 12 g
19 - Đại táo 10 quả
20 - Đường phèn 300 g

(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!)

Cách ngâm:

Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 th́ đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục.

II. Nhất dạ lục giao

Thành phần:

1-Thục địa 40g
2- Đào nhân 20g
3-Sa sâm 20g
4- Bạch truật 12g
5 Vân qui 12g
6- Pḥng phong 12g
7- Bạch thược 12g
8- Trần b́ 12g
9-Xuyên khung 12g
10- Cam thảo 12g
11- Thục linh 12g
12- Nhục thung dung 12g
13- Tần giao 8g
14-Tục đoạn 8g
15- Mộc qua 8g
16- Kỷ tử 20g
17-Thường truật 8g
18-Độc hoạt 8g
19- Đỗ trọng 8g
20- Đại hồi 4g
21- Nhục quế 4g
22- Cát tâm sâm 20g
23- Cúc hoa 12g
24- Đại táo 10 quả

Cách ngâm:

24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong ṿng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bă thuốc c̣n lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.

Chủ trị:

Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ.

Vài nhận xét của người viết

Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:

a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng (liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng.

Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đă làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đă chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay v́ là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán:

1 lượng = 30 g (hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)
1 tiền = 3g
1 phân = 0.3g

Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rơ lương y Việt Nam đă dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.

b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, v́ các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đ̣i hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung.

Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, th́ chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, c̣n những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử th́ không nói rơ từ ở đâu

c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên t́nh trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh t́nh mới hay lâu.

Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ư thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân ḿnh mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lư hiểm nghèo khác.

Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường.

d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu.

Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại chăng?

Ta hăy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn Chín đời chúa là:
 
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái
Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1601-1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái.
Chúa Ngăi Nguyễn Phúc Thái (1650-1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái
Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu* (1675-1725)
         có 42 con: 38 trai và 4 gái
Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái
Chúa Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) có 30 con:
         18 trai và 12 gái
Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1753-1777) có một gái

[* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con!]

Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn(1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả (1995) th́ ghi là 42 con

Mười ba đời vua là:

Gia long (1762-1819) có 31 con :13 trai và 18 gái
Minh Mạng (1791-1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái
Thiệu trị (1807-1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái
Tự Đức (1829-1883) không có con tuy nhiều vợ
Dục Đức (1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết v́ bị giam đói
Hiệp Ḥa (1847-1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết v́ bị ép uống
         thuốc độc
Kiến Phúc (1869-1884) chưa có vợ con , chết bí mật
Hàm Nghi (1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái
Đồng Khánh (1864-1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái
Thành Thái (1878-1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái**
Duy Tân (1900-1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái
Khải Định (1885-1925) có 1 trai
Bảo Đại (1913-1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái

[** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông c̣n rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được.

Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà c̣n muốn vi hành ra ngoài nên mới có câu: Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm đi!]

Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con:

- Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa.

- Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa.

Chính ư niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống cung tần mỹ nữ.

Đời Vơ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt (nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ.

Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua Bảo Đại sau này) v́ sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lư, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết.

Cửu giai là:

Nhất giai Phi
Nhị giai Phi
Tam giai Tân
Tứ giai Tân
Ngũ giai Tiếp Dư
Lục giai Tiếp Dư
Thất giai Quư Nhân
Bát giai Mỹ Nhân
Cửu giai Tài Nhân
và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai (nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội)

Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai!

Chính v́ hệ thống phi tần mỹ nữ đă là cho những ông ngự y phải t́m những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các vợ vua khi mang bầu, như thế làm ǵ không đông con.

Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến.Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi v́ nghe đâu chết v́ té ngựa, thế mà đă có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ c̣n đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nh́ chánh (hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 pḥng và phái nam đươc 1800 người.

Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi nào được vua vời tới long sàng th́ tên tuổi và ngày tháng ấy đều được ghi chép cẩn thận để sau này c̣n chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ. Những chuyện về:

Cái đêm hôm ấy đêm ǵ.
Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng

là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rơ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử c̣n lưu lại những y án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng” qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai?

Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần ... 50 cô gái đă làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng th́ hậu thế phải công nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân.

Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải dưới 20 %.

Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính giao thường không phải sinh con mà sinh ra .... bắn súng nước hay bắn khói!

Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên trấn gửi về đến canh ba (11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh cường tráng.

Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lư chứ không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con.

Nh́n vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và hiệu lực của chúng theo y lư được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lư.

Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát, chứ không giống như những viên thuốc hứng dục (aphrodisiac) như viên Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc hành.

Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức ḿnh, mỏi gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo th́ quả là tai hại!

Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang.

Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu dựa trên những dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ư kiến có thẩm quyền nhất là ư kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đă cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex.

Cuốn sách này rất hay v́ dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lư Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương diện.

Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích tinh để thí nghiệm trên chuột th́ thấy chuột tăng cường về sinh lư rơ ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này c̣n rất ẩn áo hầu như có tính chất huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh nhân đă đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này th́ tốt mà dùng cho kẻ khác th́ không. Vấn đề tâm lư của người dùng thuốc(linh tại ngă, bất linh tại ngă) cũng là một yếu tố quyết định.

Tôi tự xét, không học ǵ về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh.

Tôi c̣n nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài g̣n. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ:

Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi là Tam chí (Can chí, Tâm chí, Thận chí). Can tức là gan. Can chủ về mộc cân tức là gân. Gân khỏe (Can chí) th́ gân mới đủ sức cương cử mà hành sự; Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt (Tâm chí) th́ trí năo quân b́nh, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược gịng tử cung để thụ thai:

Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe (Thận chí) th́ tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.

Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lư tưởng là một độ cương dương vật đầy đủ, một trí óc quân b́nh, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loăng, cợ thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất roi thúc con ngựa c̣m ṛm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh.

Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y:

*Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính

*C̣n Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính.

Nh́n chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân Việt ta đă chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa trương „ ngũ giao“, „ lục giao“... Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh công năng trị liệu, c̣n có thể có nhiều "phó tác dung".

Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong (gout) th́ không nên dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng.

BS Lê Văn Lân

Nguồn: batkhuat.net
 

  


                                                       [Trở Về Đầu Trang]



 

Chan Phuoc Liem High School

Welcome to chanphuocliem.com
Google Search:

 

CHÂN PHƯỚC LIÊM Vị Thánh Tổ Của Trường Chúng ta
Nhắn Tin
T́m Bạn
 
 Thành Kính Phân Ưu

Ông Nguyễn Văn Liêm
Bà Phạm Minh Hằng
Bà Nguyễn Thị Yến
Ông Trần Đình Thư
Cụ bà Nguyễn Thị Giỏi
Ông Nguyễn Văn Kim
 
Chúc Mừng Hạnh Phúc
Chú rể Dương Minh Nguyễn
Cô dâu Grace Trang Đỗ


Chúc Mừng Sinh Nhật
Thầy Phạm Đình Lân, Cha Đinh Văn Nghị, Nguyễn Thị Sượi, Đào Văn Tiến, Lương Thị Thúy, Vũ Ngọc Bội, Nguyễn Thị Bảy, Nguyễn Văn Nhuận, Nguyễn Thế Nhân, Nguyễn Hữu Phương, Nguyễn Thị Lộc, Trần Quang Minh, Lê Thị Huỳnh Dung, Nguyễn Thị Ngoan (Tường), Chu Quang Tuyên, Nguyễn Thị Ngọc Vân, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Ngọc Châu Pḥng, Vơ Phương, Nguyễn Văn Sum, Vơ Như Tố, Dương Thị Phương Khanh, Nguyễn Tấn Phong
và tất cả các bạn có ngày sinh nhật tháng này
 
E-Báo CPL
E-Báo Đinh Dậu 2017
E-Báo Bính Thân 2016
E-Báo Ất Mùi 2015
E-Báo Giáp Ngọ 2014
Đặc San CPL 2011
Đặc San CPL 2009
Đặc San CPL 2008
Sàig̣n Năm Xưa
Sàig̣n 40 Năm Về Trước
1.  Thư Ngỏ Gửi Bạn
2.  Thông Báo Thứ 1
3.  Thông Báo Thứ 2
4.  Trang DONATION 
5.  Nhớ Về Trường Xưa
6.  Niềm Tâm Sự
7.  Trang Thơ Sưu Tầm
8.  Vườn Thơ CPL
9.  H́nh Ảnh Họp Mặt Ái Hữu
      CPL Việt Nam, 19/05/2002

10. H́nh Ảnh Họp Mặt Ái Hữu
      CPL Hải Ngoại, 25/05/2002

11.
"TỔNG KẾT BUỔI HỌP MẶT"
       Việt Nam 19/5/2002

12. "TỔNG KẾT BUỔI HỌP MẶT"
      Hải Ngoại 25/5/2002

13. H́nh Ảnh Buổi Đại Hội Cựu
      HSCPL Hải Ngoại, 02/03/2007

14. Tường tŕnh buổi họp mặt Cựu
      HSCPL - Feb 03, 2007

15. Tường tŕnh buổi họp mặt Cựu
      HSCPL - April 15, 2007

16. Tường tŕnh buổi họp mặt Cựu
      HSCPL - July 21, 2007
17. Cảm tạ CHSCPL Nhân Ngày
      Đại Hội - July 22, 2008
18. Nhật Kư Mỹ Du - Aug. 10, 2008

Adjust your speaker volumn to
listen to our music with
... pure relaxation