“Chú có bao giờ... ngã chưa?” Cô bé hỏi, nụ cười hóm hỉnh
vắt ngang môi.
“Ngã... cái gì?”
Tôi ngơ ngác mất vài giây, toan hỏi cho ra lẽ thì cô đã
bật cười thành tiếng. Giọng cười trẻ thơ làm rung khẽ đôi vai mỏng manh
như cánh vạc trong lời hát một bản nhạc tình. “Ngã; thì... ngã ấy mà.”
“Ngã?”
“Vâng... chú làm bộ ngớ ngẩn.”
“Từ lúc tập đi cho đến lúc biết chạy ai mà chẳng có lần
ngã.”
“Không phải vậy. Cháu muốn nói ngã là... ngã; Ơ khó nói
quá! Cháu muốn nói ngã là... là... sa ngã kìa.”
“Ô!” Tôi vỗ nhẹ vào trán, bối rối nhìn xuống mặt bàn,
nhăn nhó. “Sao hôm nay mình chậm hiểu thế này!”
Mầu trắng của chất men trên mặt bàn đá nhợt nhạt như mầu
ly cà phê bỏ sữa quá tay. Cái mầu trắng ấy nhếch mép cười với tôi, ngạo
mạn. Hai chiếc ly đã vơi cà phê trơ trọi trên mặt bàn. Hai chiếc ly ấy
cũng hùa theo. Cả những ngón tay cô bé gài vào nhau chặt chẽ trước mặt
cũng lăng xăng như muốn phát biểu điều gì.
Tôi gỡ vội những bối rối thoảng qua trên mặt, ngước nhìn
cô bé với nụ cười mềm, “Ngã thì sao, mà không ngã thì sao?”
“Cháu đang đặt câu hỏi mà!”
“Mai mốt trả lời được không?”
“Chắc chú cần thời gian để đếm?”
Cả hai cùng phá ra cười. Cô bé cười cái cười của kẻ đang
trên đà thắng cuộc, còn tôi; tôi đang thắng hay sắp thua không biết nữa,
chỉ biết rằng lâu lắm mới lại có một người con gái làm tôi bối rối như
thế này.
Chợt cô ngưng cười, “Cũng chả sao chú nhỉ.”
“Ừ,” tôi đưa đẩy. “Đâu phải dễ mà được ngã phải không?”
“Ngã dễ mà chú.”
“Nhưng ngã một cách có nghệ thuật lại là chuyện khác.”
“Ngã có nghệ thuật là ngã có sắp đặt; ngã giả vờ rồi. Chú
thấy không? Mình đang đi, chẳng may vấp cục đá hay trượt chân trên mảng
tuyết đóng băng. Ạch một cái, đau ê người. Đấy mới là ngã thật.”
“Đó là tai nạn. Còn có những cú ngã không phải tai nạn.
Và ngã có nghệ thuật là ngã đau điếng người nhưng không để lại dấu vết.
Không bị bầm tím, không bị tàn phế, không bị handicapped...”
“Ồ, dĩ nhiên rồi chú,” cô bé ngắt lời tôi, ngón tay gõ
nhẹ xuống mặt bàn đá ấm. Rồi cô chồm tới trước. Mắt chớp, môi thì thầm,
“Điều quan trọng nữa là có người ngã với mình.”
“Đúng! Ngã một mình đau hơn ngã hai người.”
Có trời đất chứng giám cho tâm địa ngay thẳng của tôi.
Nhưng trời ơi, sao bỗng dưng tôi muốn rủ cô bé cùng ngã vô cùng. Ngã
đàng hoàng, tử tế; ngã danh chính ngôn thuận. Mùa đông, những con đường
ngập ngụa tuyết trắng. Giằng co, níu kéo, đuổi bắt nhau trong công viên
hay trên lề đường lạnh giá. Gặp chỗ đóng băng, trượt chân ngã dúi vào
lòng nhau. Ấm áp biết chừng nào.
Tôi nhìn cô đăm đắm, lòng xao động khôn cùng và miệng thì
ngậm đầy những câu muốn nói.
“Vậy chừng nào chú cho cháu câu trả lời?”
“Một tháng nữa đi.”
“Lâu quá! Sao không là một tuần?”
Tôi xuống giọng, cải lương như anh kép độc lên vọng cổ
trước mặt cô đào thương mặn mà son phấn, “Một tháng có đủ thời gian để
biết đâu lại có thêm vài lần ngã nhiệm mầu khác.”
Tiếng cười lại được dịp vang lên rộn ràng trong góc quán.
Xế chiều, quán vắng, nhưng cô bé làm không gian linh động như khung cảnh
buổi chợ sớm. Và thời gian đọng lại trên đôi môi mỏng mềm.
“Thôi bây giờ mình đổi đề tài nhé.” Cô đề nghị.
Tôi khoan khoái thở phào.
Nhưng trước khi tôi kịp thơ thới vẽ vời trong trí tưởng
một ý thơ, thì cô đã buông ra một câu hỏi gai góc, “Chú có ghen không?”
“Ghen?”
Cô gật đầu hai ba cái làm rũ xuống vầng trán một lọn tóc
đen nâu.
“Ai mà không ghen.”
“Thường thì ai ghen nhiều hơn. Đàn ông hay đàn bà?”
“Bằng nhau.” Vốn là người tôn thờ chân lý bình đẳng, tôi
trả lời không suy nghĩ.
“Cháu nghĩ đàn bà ghen nhiều hơn chứ.” Cô bé gợi ý một
cách khéo léo.
Cảm thấy mình đang bị dẫn vào một khoảnh vườn gai góc,
tôi trả lời một cách liều lĩnh. “Có thể. Tuỳ mức độ và cách biểu lộ.”
“Thế chú có thích đàn bà ghen không?”
Tôi cười thay cho câu trả lời.
Cô bé tiếp, “Không ghen cũng kỳ phải không chú?”
“Đúng vậy!”
“Mà ghen quá cũng kỳ nữa. Nhất là đàn ông mà ghen thì coi
không được.”
Vừa mới nâng ly cà phê lên, toan hớp một ngụm cho đỡ nhạt
miệng, tôi bỏ ngay xuống bàn, ngơ ngác, “Sao vậy?”
“Đàn ông thì phải rộng lượng...” Cô bé điềm đạm giải
thích.
Thì ra vậy. Đàn ông thì phải bao dung; đàn ông phải cao
cả; đàn ông phải có tâm hồn; đàn ông phải có công ăn việc làm; và quan
trọng nhất là đàn ông thì không được ghen vặt.
“Phải không chú?” Cô bé hỏi dồn.
“Đồng ý.” Tôi trả lời với chút nghi ngại.
“Vậy chú có ghen không?”
Trái bom đã rớt ngay nắp hầm trú ẩn, nhưng tôi chỉ hoảng
có một giây rồi gồng mình lên thật dũng cảm, “Sao không!”
“Nhiều hay ít?”
“Tùy...”
“Chú khôn quá! Cụng ly cái đi!”
Cô bé nâng ly cà phê của mình lên, đưa về phía tôi. Tôi
cụng ly với cô, lòng rộn ràng như đứa bé đang mở dần những gói quà sinh
nhật. Tiếng cạch khô và lạnh của hai chiếc tách chạm nhau, nghe khôi hài
như một niềm vui đóng băng, vừa mới lấy ra từ một ngăn ướp lạnh của trí
nhớ.
“Lẽ ra mình phải uống rượu để mừng...” Giọng cô hăm hở.
“Mừng gì?”
Cô bé uống một ngụm cà phê. Rồi khẽ đặt chiếc ly sứ xuống
bàn. Cà phê sữa để lại một vệt ướt trên đôi môi mỏng. Nụ cười lại nở ra,
rạng rỡ cả một góc quán.
“Mừng cháu gặp được một người mà nói chuyện không thấy
buồn ngủ.”
“Thật không?”
“Thật chú à. Từ bé đến giờ, cháu chả gặp ai nói chuyện
vui được như chú.”
“Me too!” Tôi dùng tiếng Anh cho cái điều khó nói trở nên
đơn giản.
“Cháu chỉ được cái nói nhiều chứ đâu có được như chú.”
“Không hẳn là như vậy.”
“Chú cho điểm... nhân đạo.”
“Ai dám!”
Cô bé gõ móng tay xuống mặt bàn lạch cạch. “Cháu hỏi chú
câu này nhá.” Cô thì thào, bằng cả những lời đăm đắm trong đáy mắt.
Tôi loay hoay sửa lại thế ngồi cho thoải mái. Những câu
hỏi gian nan; những câu hỏi không có nổi câu trả lời, làm sao tôi đáp
được. Nhưng chả sao. Tôi hơn cô bé tới gần hai mươi năm kinh nghiệm
sống. Không thấy cô gọi tôi bằng “chú” đó sao!
“Được không, chú?”
“Sao không?” Tôi ngồi thẳng người, ưỡn ngực ra trước như
người lính khoe những miếng huy chương lấp lánh cài đầy ngực áo. “Miễn
là đừng khó quá.”
“Cháu tin là chú trả lời được.”
“Cũng mong là như thế.”
Cô rụt hai vai lại, như con mèo sắp vươn vai. Đôi môi
vạch một nét ngang trên khuôn mặt đang cố làm vẻ đăm chiêu nhưng vẫn
không dấu được nét nghịch ngợm trẻ thơ. Rồi cô gục gặc cái đầu cho những
sợi tóc rũ lòa xòa xuống vừng trán rộng. Những sợi tóc buông mành khép
hờ đôi mắt một mí lim dim, như nét chấm phá trên bức tranh truyền thần
của người họa sĩ Phù Tang. Những sợi tóc óng vàng trong cái nắng phản
chiếu từ cửa kính của những dinh thự cao chấp chới trong thành phố. Vài
giây đăm chiêu, rồi cô đưa tay vuốt ngược mái tóc ra sau theo thói quen,
và ngước lên nhìn tôi, bằng cái nhìn táy máy của đứa học trò hay thắc
mắc.
“Chú có tin là có tình yêu không?”
“Tin chứ.” Tôi trả lời chắc như thể đang nắm bắt trong
lòng bàn tay, một mối tình thơm mùi mực và giấy mới của những trang thư.
“Làm sao biết được mối tình mình đang có là thật hay giả
hở chú?”
“Ơ... Giác quan thứ sáu... Con gái thông minh và nhạy cảm
hơn con trai. Con gái dễ khám phá ra mối tình ai đó dành cho mình là
thật hay giả.”
“Nếu mình không có giác quan thứ sáu thì sao?”
“Hên xui may rủi không biết chừng...” Tôi trả lời quấy
quá để câu giờ.
Cô bé tần ngần một chút rồi tiếp, “Cháu cũng chẳng biết
mình có giác quan thứ sáu không nữa.”
“Có chứ.”
“Làm sao biết được hở chú?”
Cô bé hỏi, hai mắt nhìn tôi đăm đắm. Trong khoảnh khắc,
tôi mở rộng cõi lòng, ôm hình ảnh nhỏ bé ấy vào lòng. Trìu mến, chân
thành và hạnh phúc như cánh diều no gió.
“Cháu đang đặt câu hỏi đấy nhá.” Cô nhắc nhở bằng cái gật
đầu thú vị. Những sợi tóc buông rèm trên đôi vai gầy cánh hạc.
“Biết mà...”
Cô cúi đầu ra phía trước, ngước mặt, ngóng câu trả lời,
“Cách nào?”
“Sự linh cảm.” Tôi tẩn mẩn xăm xoi trí nhớ, cố tìm một
câu trả lời hợp lý. “Khi đối tượng làm điều gì đó mà mình cảm thấy... ơ
như không được thực lòng cho lắm... Đó là dấu hiệu của giác quan thứ
sáu. Nó giúp mình... đọc ra được sự chân thành trong những lời nói,
trong từng cử chỉ của đối phương.”
“Chú cho cháu test thử nhá.”
“Cái gì?”
“Chú cho cháu thử xem mình có giác quan thứ sáu không
nhá.”
Tôi luống cuống, “Cách nào?” Đầu óc vạch ra hình ảnh
những ống chích có mũi kim nhọn, những ống nghiệm pha mầu xanh đỏ.
“Thì chú nói điều gì đó, rồi cháu thử linh cảm xem thật
hay giả ấy mà.”
Câu hỏi nhảy nhót trên cánh môi mỏng mềm của người con
gái. Gay go lắm đây. Tôi thầm nghĩ. Khi không lại trở thành vật thí
nghiệm cho con bé lí lắc, thua mình tới gần (trời ạ!) hai chục tuổi.
Thiệt tình! Lỡ thắng thì không sao. Mà thua thì còn gì là vinh dự của
một người được cô bé gọi bằng chú với đầy sự kính trọng và quý mến.
“Chú đồng ý nhá.”
“Khoan đã nào...” Tôi cố trì hoãn cuộc trắc nghiệm tâm lý
không có trong chương trình. “Bây giờ test cách nào?”
“Chú nói một câu, cháu đoán xem chú nói thật hay nói
chơi.”
“Rồi sao nữa?”
“Không được ăn gian.”
“Đồng ý.”
“Test xong trả công như thế nào?”
“Tùy.”
Câu trả lời của cô ngắn, gọn và đầy chất tự tin. Nhưng mà
tùy... cái gì mới được chứ. Tùy thời tiết, tùy bố mẹ, tùy cháu, hay tùy
chú. Có bao nhiêu thứ để tùy. Chờ cho những ý nghĩ lắng xuống trong đầu,
tôi đặt thành câu hỏi và chờ câu trả lời minh bạch, “Tùy... cái gì?”
“Tùy chú.” Nụ cười vạch ngang môi cô sau câu nói vắn tắt.
Ừ thì tùy chú cũng được. Nhưng như vậy có nghĩa là tùy một mình chú thôi
đấy nhé. Một là một, hai là hai. Quân tử nhất ngôn.
“Nhớ không được ăn gian.” Cô nhắc và đưa ngón tay trỏ ra
như một giao ước không lời.
Tôi hân hoan móc tay với cô và sẵn sàng như người thí
sinh chuẩn bị bước vào lớp dự kỳ thi tốt nghiệp.
“Rồi, chú nói đi.”
Tôi liếc nhìn khoảng trời vuông vắn rực nắng bên ngoài
khung cửa sổ.
“Hôm nay trời đẹp quá!”
“Thật!”
“Đúng rồi. Vậy là có giác quan thứ sáu thật rồi.”
“Nữa đi chú. Chưa đủ để kết luận.”
“Cà phê ở đây ngon ghê!”
“Giả.”
“Đúng luôn!”
“Nữa đi chú.”
“Hai câu đủ rồi.”
“Nhận xét về cháu thử xem.”
Có trời đất chứng giám là tôi không hề có ý định tán cô
bé chút nào hết. Trời ạ! Nhưng sao giữa ô vuông hẹn hò của đất trời buổi
sang mùa thế này, làm sao mà lòng khỏi đong đưa cho được.
Tôi ngập ngừng, “Lâu lắm mới gặp một cô bé giống hệt cô
gái trong nhạc Phạm Duy.”
“Sao hở chú?”
Tôi đưa đẩy, “Nhớ bài Tình Ca không?”
“Câu gì hở chú?”
“Và yêu cô gái bên nhà, miệng xinh ăn nói mặn mà, có
duyền.”
Cô ngập ngừng, mắt lấp lánh những tia nhìn hoan hỉ, “Câu
này có hai phần mà chú.”
“Ừ thì hai phần. Phần nào đúng? A hay B. Hay cả hai đều
đúng?”
Cái đầu lúc lắc. Một lọn tóc phủ xuống trán, như cố che
đi cái ngượng ngùng. Rồi cô ngước lên, lắc đầu, “Không được. Câu này quá
phức tạp. Tìm câu nào của riêng chú kìa. Cái đó ông Phạm Duy tưởng tượng
thôi. Làm gì có ai được như vậy. Có những người miệng xinh mà nói ra thì
cứ toàn những dùi đục chấm mắm tôm, còn có người sứt môi mà nói năng
ngọt ngào không chịu được. Câu khác đi chú. Câu của chú mới linh
nghiệm.”
“Làm như cầu cơ.”
“Không. Cái này phải nghiêm túc mới chính xác. Nữa đi
chú.”
Lại nữa đi chú. Nữa đi chú. Tôi thương cái câu nữa đi chú
biết chừng nào! Nữa thì nữa.
“Cái áo đầm của Như thật đẹp.”
“Thật!”
“Vậy đúng rồi.”
“Tóc thả ngang lưng coi dễ thương.”
“Thật!”
“Đúng luôn.”
Trò chơi sẽ thành nhàm chán nếu cứ dằng dai đối thoại như
thế này. Tôi thầm nghĩ, và như đứa bé sợ ma mà vẫn tò mò muốn biết có gì
lạ trong tòa lâu đài huyền bí, tôi liều lĩnh bước một bước thật xa vào
vùng cấm địa. Nhưng trong tiếng nước tôi, có những câu nói ra thấy
ngượng miệng, nhất là trong cách xưng hô, thành ra tôi mượn tiếng của xứ
sở tạm dung.
“I think I love you.”
“What?”
Cô bé sựng lại mất vài giây. Như người bệnh tim lịm vào
cơn đau trộn lẫn với cái say ngất ngây của liều thuốc giảm đau cực mạnh.
Một thoáng thôi, rồi cô lấy lại cái hồn nhiên của một cô gái vừa mới qua
tuổi dậy thì. “Chú chọc quê Như hoài!”
Đó là lần đầu tiên cô bé nói chuyện xưng tên.
“Trả lời đi chứ. Thật hay giả?”
“Cháu...”
“Hãy tin vào sự linh cảm của mình. Tiếng Anh gọi là gut
feeling đấy.”
Cả hai cùng lặng thinh. Rồi bỗng dưng cô đổi đề tài, “Thứ
bẩy tuần trước cháu thấy chú ngoài chợ Farmers.”
Tôi nghiêng đầu suy nghĩ. Thỉnh thoảng tôi ghé chợ nhưng
không phải để mua thức ăn mà để nhìn thiên hạ ngược xuôi, và để nghe ông
già người Đức chơi đàn tây ban cầm.
“Chợ Farmers, rồi sao nữa?”
Con mắt liếc ngọt, trước khi đôi môi mím lại, “Cháu thấy
chú xách giỏ cho người ta.”
Tôi ngơ ngác, “Người ta nào?”
“Còn ai vào đây nữa. Cái chị đó kỳ cục quá đi!”
“Ai vậy ta?”
Cô nhìn ra ngoài khung kính, cánh môi trễ xuống, như đang
giận hờn, “Có ba bọc mà để chú xách hết. Gì mà coi người ta như phu
khuôn vác!”
Tôi lặng thinh, mỉm cười nhìn Như. Cô hất cho mái tóc
chảy qua một bên vai, nhìn lướt qua vai tôi, làm như đang đuổi theo một
ý nghĩ nào đó. Rồi bỗng dưng nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Chú đừng nghĩ là cháu ghen. Không có đâu. Cháu chỉ thấy
kỳ cục. Thôi về chú ơi. Chiều rồi đấy. Chừng nào gặp, nhớ cho cháu câu
trả lời.”
Tôi ngơ ngẩn, “Câu trả lời gì?”
“Cái vụ ngã ấy mà.”
“Ừ, à, nhớ rồi. Ngã.”
Thấy tôi ngó vu vơ bên ngoài khung kính, cô bé ngạc
nhiên, “Chú nhìn gì ngoài đó vậy?”
“Nhìn trời.”
Cô bé quay mặt nhìn khung trời chữ nhật, “Xanh biếc hả
chú?”
“Ừ, xanh như biển.”
“Chú biết bài thơ Thuyền Và Biển không?”
Tôi ngơ ngác lắc đầu.
Cô bé nhún vai, “Chú dở. Làm thơ mà không biết biết bài
thơ Thuyền Và Biển.”
Thấy tôi mỉm cười, cô nghiêng đầu, “Hay là chú biết mà
làm bộ không biết để nhạo cháu.”
Tôi gật gù không nói. Những ngày tôi mới lớn, đầu óc đựng
đầy thơ văn tiền chiến. Chúng tôi theo Huy Cận đứng ngẩn trông vời áo
tiểu thơ, kỳ kèo theo Nguyễn Bính nếu đừng có giậu mùng tơi thế nào tôi
cũng sang chơi thăm nàng, thở than với gió Hàn Mặc Tử rằng người đi một
nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Thời chiến tranh, chúng
tôi say đắm Nguyên Sa áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, thao thức với
Đinh Hùng chưa tội lỗi đã thấy lòng hối hận, thở than cùng Vũ Hoàng
Chương lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ và Trần Dạ Từ lần đầu ta ghé môi
hôn, trăm con ve nhỏ hết hồn kêu vang; đầu óc thời mới lớn còn chỗ nào
cho thuyền, cho biển.
Thành ra tôi thật thà, “Không biết thật mà.”
Cô gái khoanh tay trên mặt bàn, thì thầm đọc, bằng môi
hồng mịn ướt và ánh mắt long lanh. Trong thoáng chốc, tôi thành con
thuyền bập bềnh trên sóng mắt người con gái. Tâm hồn củi mục bỗng dưng
nặng trĩu mùi dân ca, mùi cải lương Hồ Quảng. Trong đời, ai mà không có
lúc cải lương. Không tin hãy thử ngồi trước một người con gái mặn mà
trên môi mắt, duyên dáng trong ngôn từ. Hãy bốn mắt đăm đắm nhìn nhau,
hãy chăm chú nghe những câu thơ tình ai viết hộ. Hãy uống cho ngoan từng
câu, từng chữ đọng trên cánh môi mềm, sẽ thấy lòng mình mê đắm. Vì tình
yêu muôn thuở có bao giờ đứng yên. Giọng con gái ngọt ngào. Tay sẽ run
và ngôn từ sẽ không còn suông sẻ. Như tôi đang bị một người con gái bỏ
bùa bằng những câu thơ mà phút giây này bỗng dưng thành thần chú. Nếu
phải cách xa em, anh chỉ còn bão tố. Lúc cô bé ngừng đọc, cánh môi trên
còn hé mở, khoe mờ chiếc răng cửa xinh xắn.
“Xuân Quỳnh đó chú. Tụi bạn cháu ai cũng mê thơ Xuân
Quỳnh. Ngoài chỗ cháu thơ thì có Thuyền Và Biển, văn thì có Sông Đông Êm
Đềm.”
Tôi chưa có dịp đọc Sông Đông Êm Đềm, nhưng nghe cô bé ca
ngợi hoài (bao nhiêu lần rồi!) tôi đâm ra không muốn đọc. Cô nhỏ làm như
trên thế gian này chỉ có mỗi một cuốn Sông Đông Êm Đềm là đáng đọc.
Toan nói cho cô bé nghe ý nghĩ của mình, tôi lại lặng
thinh ừ hử cho xong. Bởi buổi chiều quá rực rỡ ngoài kia ai dại gì trong
này tranh luận những chuyện không cần thiết.
Cho đến lúc ấy vẫn không có chuyện gì xảy ra. Lần hẹn thứ
bao nhiêu rồi tôi không nhớ rõ. Nhưng cũng như mọi lần, không có chuyện
gì xảy ra giữa Như và tôi ngoài cái chuyện thang máy bị kẹt.
Uống cạn ly cà phê nguội, Như với tôi ra về, sánh vai
nhau, như tình nhân, như vợ chồng. Chỉ còn thiếu dựa vai nhau, chỉ còn
thiếu ôm nhau mà hôn mê mải như cặp tình nhân đứng ngoài hành lang,
trước những bậc cầu thang xoắn ốc. Hai đứa ra về, như không có chuyện gì
xảy ra, như chưa hề nói cho nhau nghe chuyện vấp ngã, u đầu, sứt trán,
bầm tím châu thân, trầy da tróc vẩy. Cũng như thể chưa hề liều lĩnh nói
cho nhau nghe cái câu tỏ tình quá ư là cổ điển I think I love you ai
cũng có thể nói ra mà không cần bỏ công minh chứng cho điều mình nói.
Tôi nhường cho Như bước vào thang máy trước. Ngón tay
thon vừa đặt lên cái nút có chữ P thì đèn trên trần thang máy tắt ngúm
và chiếc quạt dấu trên trần cũng ngưng quay. Chúng tôi lọt hẳn vào vũng
tối keo đặc, im ắng rợn người.
“Thôi chết rồi chú ơi!” Như kêu lên thảng thốt.
Tôi gồng mình đứng như thân cây khô héo trong bóng tối.
Hai cánh tay thận trọng ép sát thân mình.
“Cúp điện rồi chú ơi!” Tiếng kêu than não lòng.
“Đừng sợ, Như ơi.” Tôi trấn an, “Chắc cúp điện chút xíu
thôi.”
“Tối quá!” Tiếng Như rên rỉ. “Sao lại cúp điện giờ này
không biết nữa! Mình ở tầng mấy vậy chú?”
“Mười hai.”
“Trời ơi, lỡ thang máy rơi xuống thì chú cháu mình chết
hết.”
Ừ thì cúp điện như thế cũng hay. Tôi cười thầm và cố mở
lớn hai mắt tìm hình ảnh quen thuộc của người con gái, nhưng trong bóng
đen đậm đặc, tôi chỉ thấy dội ngược từ trí tưởng mình, hình ảnh khuôn
mặt trái xoan ca dao, con mắt một mí và cặp môi mỏng mịn màng những lời
lý lắc.
“Chú nói gì thế?”
“Đâu có.”
“Cháu nghe rõ ràng mà! Gì mà chết... chóc gì đó.”
“Ừ, thì lỡ thang máy rớt xuống thì mình được chết chung.
Thiếu gì người ước mơ như thế.”
“Trời ơi!”
Tiếng kêu rên khe khẽ. Hơi thở thoảng mùi cà phê. Bàn tay
mát lạnh nào đó bất chợt chạm vào má tôi. Mò mẫm qua cánh mũi, rồi tuột
xuống miệng, bàn tay mềm ấy bịt hờ hai môi tôi.
“Chú nói bậy quá à!”
“Chứ không à. Điện cúp, thang máy tự động rơi xuống...”
Tôi nói giữa những kẽ ngón tay.
“Trời ơi, đừng nói nhảm nữa được không.”
Mùi hương dịu dàng tỏa trong khoảng chữ nhật đáy ly cà
phê đậm đặc. Mùi hương nào đó thật gần mà cũng thật xa quấn quyện lấy
không gian đen thẫm. Hương của tóc; hương của thịt da. Gây gây, dịu
dàng. Thân thể nào đó mềm mại chạm khẽ vào người tôi. Có có, không
không. Như mép vải đan thưa, như tấm khăn voan gió lùa phất phơ chạm vào
cành lá. Thời gian ngừng trôi. Hào quang rực rỡ trong vũng tối mê muội.
Rồi thêm một bàn tay nữa gắn môi tôi lại.
Tôi tỉnh tỉnh, mê mê. Như tay bợm nhậu miền quê bước lên
chiếc cầu khỉ chênh vênh.
“Thật mà, không có điện, nó sẽ rơi xuống, mình sẽ phải
chết chung. Không muốn cũng phải chịu...”
“Trời ơi, chú đừng nói nữa.” Tiếng thở hổn hển lùa lên
tóc, lên cổ tôi. “Như sợ quá. Đừng nói, Như thương. Như thương chú suốt
đời.”
Tôi quơ nhẹ hai tay trước mặt, cầm lấy cổ tay Như, thì
thào, “Hứa nghe!”
Nhưng cô gái chưa kịp nói gì thì đèn bật sáng. Quạt trần
lại rì rào quay. Chúng tôi rời nhau ra. Cô gái xoay người bấm vội vào
chữ P đỏ trên cái bảng chữ nhật có đầy con số.
“Mình về thôi chú ơi.”
Chiều hôm ấy đài truyền hình loan tin điện bị cúp vì hai
con sóc đùa giỡn trên cành cây gần trạm biến điện ở ngoại ô thành phố.
Một con hụt chân sao đó rớt ngay vào ổ điện cao thế.
Nhớ người con gái, tôi nhớ luôn cái lồng thang máy và mấy
con sóc lanh chanh trên những nhánh cây rậm lá của bao nhiêu mùa màng
lặng lẽ qua đi trong đời.
2
Có đến bẩy tám năm sau tôi mới gặp lại người thiếu phụ
năm xưa. Cô cháu nhỏ. Con bé em lý lắc. Người tình học trò. Tất cả. Gầy
gò, tiều tụy. Chiều mùa đông. Khăn quàng kín cổ. Áo lông xù như con gấu
miền địa cực. Môi vẫn mỏng nhưng đã hằn thêm những vết nứt khô. Con mắt
đeo nặng những quầng thâm.
Chỉ có nụ cười là vẫn như thuở nào.
“Đi đâu thế này?” Cô hỏi, không còn chú cháu như dạo nào.
“Ghé sở thuế có chút việc. Như, phải không?”
Tôi nheo mắt ngỡ ngàng nhìn vào khuôn mặt đã có thêm
những đường gẫy sắc cạnh.
“Còn ai vào đây nữa!”
“Như đi đâu vậy? Trời ơi, tự dưng mất biệt. Có rảnh, mình
ghé quán cà phê ngày xưa...” Tôi cuống quýt, hụt hơi như người đuổi theo
lá thư tình bị gió cuốn đi.