E-Báo Bính Thân CPL
Ăn Tết
Bồ Câu Và Thân Thuộc
Buổi Họp Mặt Bất Ngờ
Cá Lia Thia
Câu Đối Ngày Đầu Xuân
Chân Phước Liêm Bỏ Túi
Chuyến Du Lịch Của Tôi
Chuyện Tình Ngày Mất Nước
Chuyện Về Chúa Jesus
Chuyện Về Hoa Mai
Chuyện Vui Cười 1
Chuyện Vui Cười 2
Chuyện Vui Cười 3
Củ Khoai Từ
Cười Thấm Thía
Dòng Đời
Đất Nước Mình
Định Nghĩa Tình Yêu
Đón Thu Tạ Ơn Thầy Cô
Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa
Đừng Viết Sai Lịch Sử
Em Còn Nhớ Mùa Xuân
Ghi Ơn Chiến Sĩ QLVNCH
Hãy Yêu Mẹ Khi Còn Có Thể
Không Tên
Khúc Phù Du
Kỷ Niệm Thời Học Trò
Lái Thiêu Thập Nhất Xã
Lời Chúc Tết cho tuổi lá thu phai
Lời Cho Bố
Lời Dâng Cho Mẹ
Một Chuyến Đi Thăm Thầy
Một Góc Nhìn Buổi Đ.H.CPL
Mừng Tuổi Thọ Thầy
Năm Thân Nói Chuyện Khỉ
Ngày Đầu Năm Cười Một Phát
Nhớ Ơn Người Làm Vườn
Oan Trái
Phong Tục Ngày Tết Nguyên Đán
Tản Mạn Về Nguyễn Bính
Thần Dược
Thằng Vọng Việt
Thầy Bật Của Tui
Thầy Giáo Của Em Tôi
Thơ Hà Huy Dziệu
Thơ... Kể Chuyện
Thư Ngỏ
Thương Hoài Ngàn Năm
Thương Tiếc
Tìm Hiểu Về Chùa,Đình,Đền
Tôi Đi Tìm Lại Một Mùa Xuân
Trồng Lan Cattleya
Tuổi Hưu
Vọng Về Cố Quốc

 


 
 

Củ khoai từ

Củ khoai từ mộc mạc đơn sơ
Như mẹ tôi và chị của tôi
Thơm nồng chắc bột ươm mơ
Ấm lòng thơ trẻ ngày nào chiến chinh.


Mấy bữa trước tôi được một người bạn biếu vài củ khoai, nhìn giống như củ khoai mì có điều vỏ màu nâu đậm hơn, gần như màu đất. Người bạn nói: “Nghe nói anh thích khoai từ, tôi mới được người ta giới thiệu loại khoai này, anh coi có đúng khoai từ anh vẫn thường nhắc đến không?”

Nhân nha tôi luộc củ khoai người bạn cho, trong lòng vẫn còn hoài nghi lắm vì khoai từ quê tôi củ nho nhỏ màu hơi vàng nâu làn lạt và có nhiều rễ chung quanh. Khi cắt c khoai vừa mới luộc mùi hương thơm cũ ùa về, và chất bột của nó tôi phải thốt lên: “Đây đúng là ông cố nội của KHOAI TỪ rồi!”

Tôi ăn từ từ, lòng sảng khoái như vừa tìm được một chút hương thơm quê nhà, mơ màng trong bài hát Hương Xưa của Cung Tiến “Hồn có mơ xa…” Ngày cũ tuôn tràn về trong ký ức và tôi “Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa….”

Tâm trí tôi lần về lối xưa, tôi nhớ đến quê hương tôi một vùng đất hẹp người khôn của khó, tôi nhớ ba tôi là một nhà giáo, vì yêu nước ông đi theo kháng chiến, đã để lại một người vợ thục nữ đài các với đàn con còn nhỏ dại ở lại thành phố. Chiến tranh càng ngày càng gia tăng mẹ tôi cũng phải đem chục đứa con nheo nhóc đi tản cư vào vùng xa vùng sâu hầu tránh bom đạn vô tình.

Tại vùng sâu này có một ông bác là phú hộ ruộng đất nhiều, đã cho mẹ con chúng tôi trú ngụ trong túp lều tranh đã mục nát của người mục đồng, ở ngoài bìa rừng bên cạnh những nương khoai. Cái chòi lá này có lẽ đã bỏ hoang từ lâu nên khi đẩy liếp che lên một cảnh sắc thật hãi hùng hiện ra trước mắt, hàng trăm con rắn đang treo ngược chờ lột da chen chúc bên cạnh là những bộ da rắn khô đã lột giăng mắc như màn cửa, khi gió lùa phất phơ bay bộ da khô nhìn rất sợ hãi. Các anh lớn của tôi phải dùng đòn xiên, đòn sóc loại dài để gánh lúa và gậy gộc thật to múa võ phạt ngang lũ rắn treo mong có thể đâm, đập chém chết và đuổi rắn. Có lẽ nhờ sự kết hợp của đám cỏ tranh cao lút đầu họ hàng nhà rắn đã kéo về làm ổ khổng lồ trong lều tranh vách lá này. Nhà tôi tuy đông người nhưng so ra rắn đông hơn gấp bội, phải mất hơn ba ngày mới đuổi được chúng ra bờ ra bụi ở.
Sau đó mẹ dặn mấy anh lớn dọn quang đãng quanh nhà để rắn không còn chỗ ẩn núp. Những ngày đầu bọn trẻ con chúng tôi phải ngủ tạm trên những vồng khoai xa xa, tạm tránh xa cái túp lều “lý tưởng” của thời loạn lạc vài ba bữa. Tôi còn nhớ người ta thường hát: “Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu ăn…” nên những ruộng trồng khoai là nguồn lương thực chính trong thời chiến.

Tôi độ chừng sáu tuổi khi đi theo mẹ và các anh chị em về vùng tản cư, một bà mẹ người thành phố và mười đứa con nhỏ ăn chưa no, lo chưa tới, bỏ tất cả những tiện nghi tối thiểu chạy tránh loạn lạc, bây giờ phải tự lực cánh sinh. Lòng thương con đã giúp mẹ tôi phấn đấu, mẹ tôi trở thành một người chỉ huy can trường có tài, bà chia việc cho từng đứa con, những thằng con trai lớn, chung nhau phát cỏ tranh để làm sạch sẽ gọn gàng khuôn viên quanh nhà, hầu rắn không còn đường để ẩn nấp. Tiếp theo các anh lên rừng kiếm củi để đổi thực phẩm qua ngày, những trẻ nhỏ như tôi thì tìm hái trái bứt rau về thêm phần ăn cho bữa cơm đạm bạc khi no khi đói, hoặc kiếm nấm mèo để chị lớn giao cho những người mua sỉ về thành phố bán. Mẹ tôi làm thêm rượu để đổi cho kháng chiến quân lấy gạo, muối, đường nuôi sống gia đình.
Dẫu trong cảnh khó nghèo mẹ tôi vẫn dạy: “Giấy rách phải giữ lấy lề.” Nhà ta danh giá và là người mô phạm nên mình phải giữ liêm sỉ không được tham lam thèm muốn của người khác. Thuở đó căn chòi tranh sát những nương khoai, tôi cảm tưởng có thể nghe những củ khoai dậy lớn từng ngày, đôi lúc đói tôi đã nghĩ “Đêm về ta ra móc lên một vài củ khoai có ai biết được?” Nhưng lời mẹ dạy vẫn văng vẳng bên tai nên tôi dành kiềm lòng lại, dù nương khoai trăn trở mỗi ngày trong giấc ngủ thiếu ăn của chúng tôi.
Rồi mùa thu hoạch đã đến, chị kế tôi lớn hơn tôi hai tuổi và thằng em kế được mẹ cho phép đi mót khoai khi chủ ruộng thu hoạch. Sáng sớm hôm đó chủ ruộng hợp đồng với người thu mua họ đem đôi trâu cày đến cầy xới tung cánh đồng khoai lên, lưỡi cày sáng loáng bới tung thoăn thoắt trên cánh đồng, kìa những củ KHOAI TỪ bung lên rơi rải rắc tứ phía. Bọn trẻ chăn trâu và những đứa trẻ làng bên cạnh được tập hợp thành từng nhóm, tất cả theo lệnh của những người thua mua đi hàng ngang theo sau cái cày để lượm nhưng củ khoai còn nguyên vẹn cho vào bao bố. Họ bỏ thí các củ khoai bị chém nát đôi cho lũ trẻ lượm đem về cho gia đình ăn, họ hiểu thời loạn lạc bao người chung quanh đều lâm cảnh nghèo khổ. Những đứa trẻ chăn trâu cùng bọn chuyên chụp dựt nhanh tay như cắt, dành dựt đấm đạp lẫn nhau để dành những củ khoai bố thí đó “nhanh như quạ bẻ bắp”.
Ba chị em tôi cứ đứng thộn ra trên bờ đất cao nhìn hoạt cảnh tranh dành của lũ trẻ nghèo đói không được đến trường, chúng tôi khoái chí cười khúc khích. Ngó lại chung quanh ba đứa chúng tôi khác hẳn bọn trẻ con trong vùng tản cư nhà quê này, chúng tôi có nước da trắng trẻo, chị tôi còn mặc áo hoa, quần áo chúng tôi nhìn tươm tất khác biệt hẳn với những màu áo quần cũ kỹ nhàu nát của những đứa trẻ kia, cả ba chị em cứ trố mắt nhìn như đang đi xem hội, chợt lúc đó người cày khoai quay trở lại đi ngang chỗ chị em tôi đứng quát to lên: “Ê! Con bà Đốc lượm lẹ đi!” (anh biết mẹ tôi là vợ của Quan Đốc Học) vừa nói anh ta vừa đạp sang một bên luống khoai mới đào nguyên cho một về khoai từ nguyên củ và dục ba chị em “Lượm đi, lượm nhanh đi kẻo người ta thấy thì chết…”
Như được phép màu của ông trời phù hộ cả ba chúng tôi nhẩy bổ xuống nhặt cho vào bao cho nhanh. Niềm vui của chúng tôi chưa lắng đọng, anh thợ cày quẩy trâu trở lại thêm một lần nữa qua ngang chỗ chúng tôi đứng miệng hô lớn ra lệnh cho cặp trâu "tắc... tắc ...rì…” “tắc... tắc …” là dấu hiệu cho trâu đi nhanh nhanh để khoai đừng bị chém phạt và còn nguyên củ, “rì” có nghĩa là chầm chậm. Khi trâu bước chậm anh thợ cày có đủ thì giờ đạp những cũ khoai chưa kịp bung ra, sang một bên, anh ra dấu và hối thúc chúng tôi: “Lượm đi…lượm nhanh đi...”Chị em tôi vui mừng kéo đầy bao mang về khoe với mẹ. Mẹ nhìn trầm ngâm nói: “Có chắc là họ cho không?” Ba chị em đồng thanh nhịp nhàng lên cao giọng thưa “Dá”. Mẹ hiểu, bà để tay lên ngực mặt mày sáng rỡ và nói: "Thôi được rồi... Tối nay mẹ sẽ nấu cho cả nhà món canh khoai từ với tép đất khô.”
Trong những ngày chạy loạn được nấu canh với tép khô là một món xa xỉ phẩm quí hiếm, chị em chúng tôi hoan hỉ, vui cười được mẹ đáp lại bữa ăn ngon, vì bình thường canh chỉ nấu có muối và chút nước mắm.

Củ khoai từ tôi được ăn trên đất khách hôm nay hương vị không đủ thơm như củ khoai nơi quê nhà, vị ngọt thua kém củ khoai ngày cũ có lẽ vì không được trồng bằng mồ hôi của những nhà nông phải lao động chân tay sớm tối với đàn trâu nương rẫy nóng cháy. Tôi ăn củ khoai từ lòng tôi nhớ tới mẹ và chị. Nhớ mẹ những lời khuyên dạy sống cho xứng người trong liêm sỉ, nhớ chị trong những ngày đói ngày khổ có nhau, một củ khoai thơm bùi đặc bột như lòng chị bùi ngùi khi mẹ nói: “Có chắc họ cho không?”

Rồi đổi đời năm 1975, chồng chị tôi phải đi học tập cải tạo ở Hà Nam Ninh. Gia đình chị bị đưa đi vùng kinh tế mới ở Bù Đập, Long Khánh, Đất Đỏ, các con của chị lúc đó cũng cỡ bằng tuổi của mẹ chúng và tôi ngày đi tản cư thuở trước. Nơi rừng thiêng nước độc, người thiếu phụ khuê các chân yếu tay mềm, không còn có người thành tâm đạp cho củ khoai nát để mót, vì ai ai cũng đói như chị tôi. Chị đã phải ăn đọt sắn non luộc, chị kiệt sức và đã từ giã cõi đời khi các con còn nhỏ dại.
Nhận được tin chị giã từ kiếp phù du biển khổ lòng tôi quặn đau mấy bữa, tôi thương chị và nhớ chị thật nhiều: “Thời trẻ con chị cũng ở trong cảnh nghèo nhưng vui, đến khi từ giã cõi đời chị lại rơi vào trong cảnh khó nghèo khổ đau!” Tôi thương chị rất nhiều.
“Chị có còn nhớ thuở xưa chúng mình cùng đi mót KHOAI TỪ đắp bù cho bữa no bữa đói, mà tuổi thơ của chúng mình vui quá phải không chị?” Lòng tôi nghẹn ngào nhớ chị tôi:

Bên trời miên viễn chiêm bao đó
Chị còn nhớ đến những ngày thơ
Ngây ngô đứng ngó như xem hội
Hạnh phúc nhặt nhanh những củ khoai…

Chiều nay…
Em nhớ chị nghẹn ngào đong trên mắt
Biết nói…
Cùng ai em thương chị lắm, chị ơi!


CỦ KHOAI TỪ đã đóng dấu tình chị em tôi trong những ngày gian lao nghèo khó.

Quế Giang (5/2016)