E-Báo Bính Thân CPL
Ăn Tết
Bồ Câu Và Thân Thuộc
Buổi Họp Mặt Bất Ngờ
Cá Lia Thia
Câu Đối Ngày Đầu Xuân
Chân Phước Liêm Bỏ Túi
Chuyến Du Lịch Của Tôi
Chuyện T́nh Ngày Mất Nước
Chuyện Về Chúa Jesus
Chuyện Về Hoa Mai
Chuyện Vui Cười 1
Chuyện Vui Cười 2
Chuyện Vui Cười 3
Củ Khoai Từ
Cười Thấm Thía
Ḍng Đời
Đất Nước Ḿnh
Định Nghĩa T́nh Yêu
Đón Thu Tạ Ơn Thầy Cô
Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa
Đừng Viết Sai Lịch Sử
Em C̣n Nhớ Mùa Xuân
Ghi Ơn Chiến Sĩ QLVNCH
Hăy Yêu Mẹ Khi C̣n Có Thể
Không Tên
Khúc Phù Du
Kỷ Niệm Thời Học Tṛ
Lái Thiêu Thập Nhất Xă
Lời Chúc Tết cho tuổi lá thu phai
Lời Cho Bố
Lời Dâng Cho Mẹ
Một Chuyến Đi Thăm Thầy
Một Góc Nh́n Buổi Đ.H.CPL
Mừng Tuổi Thọ Thầy
Năm Thân Nói Chuyện Khỉ
Ngày Đầu Năm Cười Một Phát
Nhớ Ơn Người Làm Vườn
Oan Trái
Phong Tục Ngày Tết Nguyên Đán
Tản Mạn Về Nguyễn Bính
Thần Dược
Thằng Vọng Việt
Thầy Bật Của Tui
Thầy Giáo Của Em Tôi
Thơ Hà Huy Dziệu
Thơ... Kể Chuyện
Thư Ngỏ
Thương Hoài Ngàn Năm
Thương Tiếc
T́m Hiểu Về Chùa,Đ́nh,Đền
Tôi Đi T́m Lại Một Mùa Xuân
Trồng Lan Cattleya
Tuổi Hưu
Vọng Về Cố Quốc

 


 
 
T́m Hiểu Về Chùa, Đ́nh, Đền...

Hôm nay Thập đọc được bài viết này khá hay, cám ơn anh Tuyến Vũ chuyển bài viết này cũng như cám ơn tác giả (mà ḿnh không biết tên). đúng là nhờ bài viết này mà ḿnh hiểu thêm được về nhũng nơi thờ phượng này. Xin chia sẻ cùng các bạn.

Cách phân biệt Chùa, Đ́nh, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am.
(Đăng ngày Thứ hai, 15 Tháng 2 2016 09:22)

Không phải ai cũng hiểu được ư nghĩa của những địa điểm thờ cúng như đ́nh, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am...
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đ́nh, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ư nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ư nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đ́nh mà cũng không hiểu v́ sao cái đ́nh lại “mọc” lên ở đó,…
V́ vậy, chúng tôi đă biên tập bài viết này để giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ư nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó.

Chùa là ǵ? (pagoda)
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo.
Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lợi và chôn cất các vị đại sư.

Đ́nh là ǵ? (communal house)
Đ́nh là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đ́nh được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, v́ hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của ḿnh tại nơi ở mới.


Đ́nh lành Đ́nh Bảng

Đền là ǵ? (temple)
Đền là công tŕnh kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian.
Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc.
Đền Voi Phục, đền Bạch Mă, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian.


Đền Kiếp Bạc

Miếu là ǵ? (joss house)
Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng.
Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ.
Miếu thường được xây trên g̣ cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đ́nh. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị.
Miếu nhỏ c̣n được gọi là Miễu (cách gọi của người miền Nam)

Nghè là ǵ?
Một h́nh thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương).
Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xă nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh.
Hiện ngôi nghè cổ nhất được t́m thấy từ thế kỷ XVII.
(nghè = người đậu tiến sĩ thời phong kiến)

Điện thờ là ǵ? (shrine)
Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một h́nh thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác.
Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác: tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mă…

Phủ là ǵ?
Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật).
Ngôi phủ sớm nhất c̣n lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Phủ là ngôi đền đặc biệt mà nơi đó thờ vị thần đứng đầu trong Tứ Bất Tử đó là THÁNH MẪU LIỄU HẠNH, có thể gọi là trung ương trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Việt Nam chỉ có 3 Phủ: Phủ Chính, Phủ Vân (đều ở Nam Định), Phủ Tây Hồ (ở Hà Nội)

Quán là ǵ?
Quán là một dạng đền gắn với đạo Lăo (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lăo ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh.
Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đă đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lăo giáo, và điện thờ đạo Lăo có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa.
Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lăo Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng).
Có thể kể tới các quán điển h́nh như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). “Thăng Long Tứ quán” bao gồm: Chân Vũ quán (tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh); Huyền Thiên cổ quán (nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai); Đồng Thiên quán (nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành); Đế Thích quán (nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên).


Bích Câu Đạo Quán

Am là ǵ?
Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tṛn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia.
Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở băi tha ma cũng gọi là Am.

TỔNG KẾT LẠI

Hầu hết các địa điểm thờ cúng đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Có thể tóm gọn lại như sau:
1. Chùa và Am đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và thường hoạt động riêng lẻ. Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni (mang tính chất tập thể)
– Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện.
– Chùa có hệ phái khất sĩ gọi là Tịnh Xá (ở trong miền Nam).
– Những nơi tu tập có khu tăng, khu ni, có nhiều khu, nhiều chùa gọi là Đại Ṭng Lâm.
2. Đ́nh, Đền, Miếu, Điện đều là nơi linh thiêng thờ Thánh, Thần. Đ́nh thường thoáng, cao, rộng, phù hợp với hội họp làng xă. C̣n Đền, Miếu, Điện thường tối hơn, tạo cảm giác thiêng liêng, huyền bí cho người tới cầu cúng lễ băi. Nh́n chung, Miếu có cấu trúc nhỏ hơn Điện, Điện nhỏ hơn Đền và Đền nhỏ hơn Đ́nh (Miễu < Miếu < Điện < Đền < Đ́nh). Thông thường mỗi làng chỉ có 1 Đ́nh nhưng có thể có nhiều Đền, Miếu.
3. Phủ là nơi thờ Mẫu và truyền bá đạo Mẫu. Tuy nhiên cũng có nhiều phủ thờ cả Phật, đây được coi như sự giao thoa ḥa nhập giữa các tôn giáo, tín ngưỡng.
4. Quán là nơi tu luyện và thờ cúng của Đạo giáo.
Tại Việt Nam các nền văn hoá tín ngưỡng thường giao thoa hoà nhập với nhau rất sâu (đây cũng là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng tại Việt Nam). Có khi Chùa thờ cả Thần (kiến trúc: Tiền Phật hậu Thánh), Chùa thờ cả Mẫu (Tiền Phật hậu Mẫu)… V́ thế sự phân biệt ở đây là không rơ ràng trong đối tượng thờ cúng. Các bạn nên đặc biệt lưu ư đặc điểm này để tránh việc cầu xin không đúng ban, đúng chỗ, cũng như đặt lễ và hành lễ sai nghi thức (ví dụ để đồ mặn, đồ vàng mă ở Ban thờ Phật hoặc để đồ sống ở ban thờ Mẫu chẳng hạn. .
Ngay bản thân Đền, nếu đi sâu t́m hiểu sẽ rất phức tạp, khó phân loại. Có nơi thờ Nam thần, có nơi thờ Nữ thần. Thông thường đền thờ Nam thần th́ to hơn Nữ thần nhưng đền thờ Nữ thần th́ lại nhiều ban thờ hơn như ban Tứ phủ công đồng, ban Cô, ban Cậu. Tuy nhiên, hiện lại có 1 số đền thờ Nam thần lại cũng có ban thờ Mẫu, rồi thờ Cô, thờ Cậu… thành ra rất khó phân loại.

GHI CHÚ THÊM:
Đ́nh khởi đầu của nó là Trạm, nơi dừng chân cho các quan đi tuần du và người bộ hành, từ Trạm phát thiển thành Quán v́ các quan tuần du ngày càng đi xa cần có nơi nghỉ ngơi, cần có người phục dịch nên cắt cử người ra trông coi đến khi quan quân đi qua dừng chân ăn uống, nghỉ ngơi dể rồi ngày hôm sau đi tiếp. Nhưng quan về mỗi năm chỉ một vài lần nên Quán thường vắng vẻ nên người coi Quán phục vụ ăn uống, nghỉ ngơi luôn cho lữ khách nếu có nhu cầu. Nhưng ngày xưa ngoài quan quân đi tuần du th́ khách bộ hành cũng không phải là nhiều; trái lại việc làng, việc xă ngày xưa rất quan trọng (Phép vua thua lện làng) nên các cụ cao niên thường tổ chức họp bàn công việc một cách công khai và họ thấy Quán là nơi hợp lư nhất nên các cụ cao niên lấy Quán làm nơi hội họp cho làng cho xă (kêu kiện, nộp cheo, phạt vạ) đều ở Quán.
Đến đây Quán được gọi là Đ́nh; và Đ́nh trở thành nơi sinh hoạt chung cho cả cộng đồng làng xă. Đến khi có tục thờ Thành Hoàng, Những làng xă có điều kiện th́ họ xây Đền để thời Thành Hoàng, nhiều nơi cho rằng Đ́nh là nơi tổ chức mọi sự kiện của làng th́ rước Thành Hoàng thờ luôn trong Đ́nh cũng là hợp lẽ. Và Đ́nh được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân bản địa là vậy. Quá tŕnh phát triển này kéo dài nhiều thế kỷ, qua nhiều triều đại phong kiến cùng với sự phát triển làng xă trong xă hội Việt Nam xưa nói riêng (c̣n có cả Trung Quốc).

Sưu Tầm (CPL ntt)