NGƯ TỘC THÁN
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
Ngư tộc đông đảo
hơn bất cứ động vật nào trên địa cầu. Ban tổ chức Hội Nghị Quốc Tế Động Vật rất
bối rối v́ không đủ khả năng để mời đại diện Ngư tộc có tầm cỡ lớn như Cá Mập,
Cá Voi, Cá Heo v́ không đủ phương tiện chuyên chở, không đủ nước cho các đại
biểu ấy sống trong thời gian tham dự hội nghị trong một khu rừng hẻo lánh trong
vùng Phi Châu xích đới. Đó là chưa nói đến việc t́m kiếm thông dịch viên cho các
đại biểu Cá Mập, Cá Voi hay Cá Heo.
Ngư tộc đông đảo đến nỗi không có con số thống kê chính xác về cộng đồng Ngư tộc
quốc tế. Người ta có số thống kê về tổng trọng lượng Cá đánh bắt được mà không
có con số cụ thể về số Cá lớn, nhỏ bắt được là bao nhiêu.
Đến phiên Ngư tộc đọc tham luận th́ ban tổ chức phải nhờ ban nhạc Moule Rouge
(Ṣ Huyết) của Pháp giúp cho Ngư tộc. Tộc này không có ban nhạc như các tộc động
vật khác. Ban nhạc Moule Rouge không biết tŕnh bày bản ǵ. Trưởng ban nhạc
Moule Rouge hỏi ư kiến nhạc sư Thiền tộc (Ve). Nhạc sư Ve yêu cầu ông ấy cho ông
trong 30 phút để ông sáng tác bài Cá Lớn Nuốt Cá Bé dựa vào cách nói của người
Việt Nam. Soạn xong bản nhạc Cá Lớn Nuốt Cá Bé, nhạc sư Ve đưa cho trưởng ban
nhạc Moule Rouge tŕnh tấu. Bản nhạc ghê rợn với cảnh hung bạo của Cá Lớn và sự
hốt hoảng, khủng khiếp của các Cá Bé bị lùa vào miệng Cá Lớn. Đại biểu Khuyển
tộc Đức nói với đại biểu Lang tộc: “ Bọn Ngư tộc vô cảm lắm. Chẳng những Cá Lớn
ăn Cá Bé mà c̣n xảy ra cảnh Cá Mẹ, Cá Cha ăn Cá con nữa. Con của bọn chúng vô
số, không sao đếm hết. Nếu c̣n sống đủ th́ trong một năm sông, hồ, biển cả đều
cạn nước v́ chỉ thấy Cá mà thôi.”
Các đại biểu động vật suy nghĩ mông lung triết lư Cá Lớn nuốt Cá Bé nên không
hay bản nhạc đă hết. Không có một tiếng vỗ tay tán thưởng. Về lời và âm điệu của
bản nhạc được xem là hoàn hảo v́ nó do nhạc sư Thiền tộc Hy Lạp sáng tác. Hội
trường trở nên rộn rịp khác thường khi nghe thông điệp của trưởng lăo Cá Voi Na
Uy- Băng Đảo (Iceland) chào mừng hội nghị qua điện đài của Ngạc tộc sông Nile
chuyển đến.
Đại diện Ngư tộc hoàn vũ là trưởng lăo Cá Ḷng Tong Việt Nam từ sông Mekong vào
sống ẩn dật trong một mương nhỏ trong vùng Tri Tôn, Châu Đốc. Cộng đồng Ngư tộc
thế giới phải nhờ 04 hiệp sĩ Hùm tộc Bengali đưa ông sang Phi Châu dự hội nghị.
* * * *
Thật là một danh dự ngoài sự mong
mỏi của tôi khi đại diện cho Ngư tộc hoàn vũ trong hội nghị quốc tế động vật
này. Sự hiểu biết của tôi về ḍng giống của chúng tôi rất nghèo nàn nên xin quí
vị thứ lỗi cho nếu có điều ǵ sơ suất, thiếu sót trong bài tham luận hôm nay.
Làm sao tôi đại diện cho ngư tộc được.?
Thứ nhất: tôi quá nhỏ bé.
Thứ hai: từ ngày trôi giạt từ sông Mekong vào giang phận Châu Đốc, gia đ́nh tôi
sống quanh quẩn dưới mương ở Tri Tôn. Loài người chê nên không lưới bắt chúng
tôi làm ǵ cho uổng công giữa lúc Cá Biển Hồ nhập nội Nam Bộ một cách tự do sau
mùa nước nổi không cần giấy phép của ai cả. Đại gia đ́nh Cá Ḷng Tong ly tán ở
Thái Lan, Lào, Cambodia, Việt Nam, Bornéo, Mă Lai. v.v
Thứ ba: Cá Ḷng Tong chúng tôi quá bé bỏng so với các anh chị Cá Rô, Cá Trê, Cá
Lóc…đừng nói chi đến Cá Mập, Cá Voi, Cá Nược. Sống trong mương rănh th́ làm sao
kiến thức rộng mở được giống như cảnh Ếch nằm đáy giếng vậy.
Tôi xin tự giới thiệu tôi là trưởng lăo Cá Ḷng Tong Việt Nam. Tên khoa học mà
loài người gán cho tộc Ḷng Tong là Rasbora vaillantii thuộc gia đ́nh
Cyprinidae. Tên gọi thông thường là:
Quốc Gia
|
Tên Gọi Thông Thường
|
Việt Nam
|
Cá Ḷng Tong
|
Anh
|
Rasbora; ray- finned fish
|
Pháp
|
Rasbora
|
Tây Ban Nha
|
Rasbora
|
Nhật Bản
|
Rasubora
|
Ngư tộc chúng tôi có từ 22,000- 33,000 tộc khác nhau. Đó là động vật sống dưới
nước thân có vảy rất nhuyễn không như Cá Lóc, Cá Rô… có vảy to và dày hay ḿnh
láng như Cá Trê, Cá Tra chẳng hạn.
Ngư tộc chúng tôi đa số có bộ xương tua tủa như h́nh lông chim. Chúng tôi thở
bằng mang, có kỳ, vi và đuôi để giữ thăng bằng khi lội. Ngư tộc có có hai mắt
rất sáng. Các anh chị Cá Ngộ chỉ có một mắt mà thôi (Cá Ngộ mùa đông .<.Winter
flounder.>.: Pseudopleuronectes americanus, gia đ́nh Pleuronectidae. Cá Ngộ bông
.<.Flowery flounder.>. Bothus mancus, gia đ́nh Bothidae). Tùy theo vóc dáng Ngư
tộc có miệng khá rộng với hàm răng lởm chởm.
H́nh dáng và trọng lượng Ngư tộc khác nhau. Có những loại cá nhỏ li ti như Cá
Ḷng Tong, Cá Cơm, Cá Ĺm Ḱm, Cá Lia Thia, Cá Bảy Màu cân lối 5- 10 grams và
dài 3- 5 cm. Cá Trê, Cá Lóc, Cá Tra có thể cân nặng 04 hay 05 ki-lô. Trái lại
các anh chị Cá Voi có thể cân nặng hàng chục tấn và dài đến 15 m!
Cá sống nhờ nước. Có tộc Cá sống trong mương, rạch, sông, hồ nước ngọt như Cá
Tra, Cá Lóc, Cá Rô, Cá Đuối v.v. Có tộc Cá sống ngoài biển nước mặn như Cá Ngừ
vi xanh .<.bluefin tuna.>., Cá Ngừ Vi vàng .<.yellowfin tuna.>., Cá Cờ
.<.sailfish.>., Cá Cháo .<.tarpon.>. v.v.. Cá Heo vừa sống ngoài biển nước mặn
vừa sống trong sông lớn nước ngọt. Có chi tộc Ngư sống trong biển ấm. Có chi tộc
sống trong biển lạnh. Ngư tộc sống khắp các vùng khí hậu xích đới, nhiệt đới,
bán nhiệt đới, ôn đới, bán hàn đới và hàn đới ở Bắc Bán Cầu lẫn Nam Bán Cầu,
trong nước mặn, nước ngọt và nước lợ.
Hầu hết các gia đ́nh Ngư tộc đều đẻ trứng. Các anh chị Cá Heo, Cá Voi được liệt
vào động vật có vú, sinh con, thở bằng phổi. Đôi khi hội đồng Ngư tộc không muốn
xem các vị ấy là Ngư tộc nhưng các trưởng lăo nghiêm khắc nhắc nhở rằng Cá Voi
và Cá Heo là niềm tự hào của Ngư tộc đối với các động vật khác cũng như đối với
loài người. Động vật nào bơi lội, sống dưới nước đẻ trứng hay đẻ con đều thuộc
cộng đồng Ngư tộc. Các trưởng lăo nói như thế mặc cho các nhà động vật học của
loài người nói như thế nào mặc kệ họ.
Cá là nguồn thức ăn thiên nhiên của loài người. Ngư tộc sinh sản rất nhiều nhưng
Cá con sống sót chiếm một tỷ lệ nhỏ v́ Cá cha, Cá mẹ và các loại Cá lớn khác ăn
Cá con. Trong các động vật Ngư tộc được xem như động vật sống dưới nước không có
t́nh phụ tử hay t́nh mẫu tử rơ rệt ngoại trừ các tộc Ngư to lớn. Sự đối xử giữa
Cá Lớn và Cá Bé với nhau dựa theo phương châm Cá lớn nuốt Cá bé như người Việt
Nam thường nói.
Cá Heo (dolphin; porpoise) sống trong các ḍng sông lớn như sông Ganges (Ấn Độ),
sông Yang Tse kiang (Dương Tử Giang ở Trung Hoa, hồ Dongding (Động Đ́nh ở Hunan,
Trung Hoa) và ngoài biển. Có lối 50 loài Cá Heo. Đó là động vật có vú, máu nóng,
thở bằng phổi, nuôi con bằng sữa. Tùy theo giống, Cá Heo dài từ 1.50 m đến 9 m.
Trọng lượng xê dịch từ 34 ki- lô đến 5,500 ki- lô. Các anh Cá Heo to lớn và nặng
cân hơn các chị. Cá Heo khổng lồ là Cá Heo Orca dolphin mang tên khoa học
Orcinus orca , gia đ́nh: Delphinidae. Cá Heo nhỏ nhất là cá tucuxi ở Nam Mỹ dài
lối 1.50 m và cân nặng 34 ki- lô (Stalia fluviatilis, gia đ́nh:
Dephinidae). Cá
Heo ăn tôm, cá, mực, chim và các động vật có vú khác. Cá Heo mang thai từ 10 đến
16 tháng (tùy theo giống) và chỉ sinh một con mà thôi.
Cá Heo rất thông minh. Óc của loài người nặng lối 1.9% trọng lượng của thân thể.
Óc của Cá Heo chiếm 0.95% trọng lượng của các anh chị ấy. V́ vậy Cá Heo rất dễ
huấn luyện v́ các anh chị ấy thông minh hơn các động vật khác. Cá Heo dùng sự
định âm (echolocation) khi đi kiếm thức ăn và tránh tàu ngầm, băng sơn (iceberg)
v.v. Các anh chị ấy sống tập đoàn, giúp đỡ lẫn nhau. Khi các chị Cá Heo sinh con
những chị Cá Heo khác hỗ trợ cho chị Cá Heo trong thời kỳ hộ sản. Người Trung
Hoa ở Hunan cho rằng Cá Heo hồ Dongding (Động Đ́nh Hồ) là hồn ma của một công
chúa chết ch́m. Người Brazil không dám giết Cá Heo trên sông Amazon mà họ gọi là
boutu.
Các tộc Cá Heo nổi tiếng là:
Địa Phương
|
Tên khoa học Gia đ́nh
|
Sông Ganges
|
Platanista gangetica Platanistidae
|
Sông Yang Tse
|
Lipotes vexillifer Lipotidae
|
Sông Amazon
|
Inia geoffrensis Iniidae
|
Vào thế kỷ XV thịt Cá Heo được người Anh ưa thích. Hiện nay người Âu Mỹ không ăn
thịt Cá Heo nhưng người Nhật và các dân tộc trên các hải đảo Thái B́nh Dương rất
thích thịt Cá Heo. Người Brazil tin rằng dùng mỡ của Cá Heo bị xui xẻo. Nh́n
chung trong ngôn ngữ của loài người không có cụm từ nào biếm nhẽ tộc Cá Heo cả.
Ngày nay trên thế giới c̣n lối 3.2 triệu tộc Cá Heo tập trung ở bắc Thái B́nh
Dương.
Trong Hy Lạp ngữ Delphin là Cá Heo. Nhiều thiếu nữ Hy Lạp có tên Delphine (Cá
Heo). Tiếng La Tinh là Delphinus.
Trong Thiên Văn Học có cḥm bắc tinh Delphinus tức sao Cá Heo. Cḥm sao này nằm
giữa sao Aquila (Đại Bàng) và Pegasus (Phi Mă; ngựa có cánh trong huyền thoại Hy
Lạp).
Delphinium là tên ḍng hoa phi yến (larkspur) thuộc gia đ́nh Ranunculaceae với
hoa màu xanh dương sẫm, màu trắng, màu hồng. Ḍng thảo mộc Delphinium có chất
delphinine C33 H46 NO9 rất độc. Ta có:
- Delphimium denudatum (Cây Nirbisi cai á phiện)
- Delphimium staphisagria (cây trị chí)
Cá Mập (sharks) là loại Cá to lớn rất dữ. Cá Mập có hàm răng bén nhọn gồm 50
chiếc răng dài và bén nhọn. Cá Mập sống ngoài biển hay trong các sông lớn như
sông Ganges, sông Euphrates, Tigris, hồ Nicaragua v.v. Xương sống Cá Mập được
cấu tạo bằng chất sụn.
Cá Mập nhỏ nhất là Cá Mập tí hon có xương sống (Spined Pygmy shark) mang tên
khoa học Squaliolus laticaudus thuộc gia đ́nh Dalatiidae, dài lối 28 cm tức lớn
hơn Cá Ḷng Tong chúng tôi đôi chút. Cá Mập lớn nhất là Cá Mập Hổ (Tiger Shark-
Galeocerdo cuvier, gia đ́nh: Carcharhinidae) dài từ 3 đến 4 m; cân nặng đến 635
ki- lô.
Cá mập ăn tôm, cá, mực và những con Cá Mập nhỏ. Cá Mập trắng
Carcharodon
carcharias thuộc gia đ́nh Lamidae rất hung dữ và ăn thịt người. Dù hung dữ như
vậy Cá Mập lại sợ Cá Heo.
Địa bàn sống của Cá Mập là các đại dương (Thái B́nh Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ
Dương, Bắc Băng Dương) trên thế giới, các ḍng sông lớn và hồ nước ngọt. Bờ biển
Florida, Úc Đại Lợi và Hồng Hải thường xảy ra những cuộc tấn công của Cá Mập
nhắm vào những người tắm biển hay trượt nước. Cá Mập có thị giác, thính giác và
khứu giác rất tốt để t́m kiếm mồi.
Dù các anh chị Cá Mập hung dữ như vậy, loài người vẫn không hề nao núng, khiếp
sợ. Người ta săn Cá Mập để lấy thịt, da, bào Ngư, vi Cá, và gan. Cá Mập c̣n được
người Việt Nam gọi là Cá Nhám nấu canh chua rất ngon. Gan cá nhám rất béo. Bào
ngư, vi cá là những món ăn ngon và đắt tiền ở các cao lâu Trung Hoa. Ở Anh người
ta ăn Cá Mập chiên với khoai tây chiên. Đó là món Fish and Chip. Thịt Cá Mập
được các nhà nấu nướng Nhật chế biến thành nhiều món ăn ngon như các đầu bếp
Trung Hoa.
Dầu gan Cá Mập có nhiều sinh tố A. Gan Cá Mập chiếm 25% trọng lượng của Cá Mập.
Dầu gan Cá Mập dùng để chữa bịnh ung thư, bịnh bạch cầu (leukemia), ngừa cảm
cúm, cúm Heo (swine flu), gia tăng hệ thống miễn dịch.
Theo Thánh Kinh Cá Mập được xem là động vật không thanh sạch.
Trong thực vật học có Bí Vi Cá (Shark fin melon; Malabar gourd) mang tên khoa
học Cucurbita ficifolia (lá giống lá sung). Bí Vi Cá có D- Chiro- Inositol có
tác dụng làm giảm đường trong máu.
Ở Úc Đại Lợi có một vịnh được gọi là Shark Bay (Vịnh Cá Mập).
Có một loại vải may quần tây trơn láng giống như da Cá Mập được gọi là
Sharkskin.
Cá Voi (Whale- Baleine .<.Pháp.>.- Jing .<.Trung Hoa.>., Kujira .<.Nhật.>.) là
loại thủy động vật to lớn có vú, máu nóng, sinh con thường sống ở những vùng
biển lạnh. Tôi sống lẩn quẩn trong mương nên không biết nhiều về các anh chị Cá
Voi. Qua sự mô tả của tiền nhân Cá Ḷng Tong Borneo, Cá Voi nhỏ nhất đo được
1.50 m. Cá Voi lớn nhất là Cá Voi Xanh Balaenoptera musculus thuộc gia đ́nh
Balaenopteridae đo được 34 m và cân nặng 170 tấn tức 170,000 ki- lô) Trọng lượng
cao nhất của Tượng tộc (Voi) là 06 tấn (6,000 ki- lô) nghĩa là chỉ bằng 3.5%
trọng lượng của anh Cá Voi to lớn nhất thế giới.
Cá Voi có thể lặn sâu dưới biển 1,500 m trong ṿng một tiếng đồng hồ mới trồi
lên mặt nước để thở.
Thời gian thụ thai của Cá Voi kéo dài từ 10- 12 tháng. Cá Nhà Táng (sperm whale-
Cachalot) Physeter macrocephalous, gia đ́nh: Physeteridae. mang thai đến 17
tháng mới sinh. Cá Voi xanh mới sinh cân nặng 02 tấn và dài 7.60 m. Cá Voi
thường sinh một con, hiếm khi sinh đôi. Cá Voi con bú sữa mẹ. Mỗi ngày Ḱnh tử
(Cá Voi con) cần đến 50 lít sữa ! Cá Voi có cặp mắt nhỏ. Thị giác của các anh
chị ấy rất kém. Cá Voi dùng sự định âm và thính giác để đi t́m kiếm thức ăn và
tránh những chướng ngại vật. Vấn đề lương thực rất quan trọng đối với Cá Voi.
Một thành viên họ K̀NH nặng 200 tấn phải ăn 8 tấn phiêu sinh vật (krills) mỗi
ngày!
Cá Voi sống tập đoàn và biết tương trợ nhau. Cá mẹ bảo vệ con chu đáo. Khi Cá
Voi mẹ đi kiếm ăn, Cá Voi con được một chị Cá Voi khác chăm sóc và bảo vệ. Nếu
Cá mẹ chết chị Cá Voi xem Cá Voi con là dưỡng tử của ḿnh. Đó là tŕnh độ văn
minh của tập đoàn Ḱnh tộc so với các chi tộc Ngư tộc khác. Loài người dùng từ
ngữ rất nghiêm chỉnh để phân biệt phẩm hạng của các ḍng động vật..
Giống
|
Động Vật
|
Nam, Nữ
|
Loài người
|
Đực, Cái
|
Động vật có vú và sinh con
|
Trống, Mái
|
Động vật đẻ trứng
|
Như vậy Cá Ḷng Tong chúng tôi thuộc Đệ Tam Giai Cấp như
Tiers Etats ở Pháp vào
thế kỷ XVIII vậy.
Ḱnh tộc được dùng Đực, Cái trong khi bọn Cá Ḷng Tong chúng tôi c̣n mang hai
chữ Trống, Mái. Loài người có óc kỳ thị kín đáo nhưng tàn độc trong ngôn từ của
họ.
Cá Voi cũng bị bịnh lao, ung thư, bướu và bịnh về kư sinh trùng. Những chứng
bịnh này rút ngắn cuộc đời của ḍng họ Ḱnh. Dù to lớn và bạo tợn như vậy Cá Voi
luôn luôn bị loài người đe dọa. Người Nga, Na Uy và Nhật Bản nổi tiếng về việc
săn Cá Voi. Người Nhật rất thích ăn thịt Cá Voi. V́ việc săn Cá Voi ở Nam Băng
Châu mà thỉnh thoảng có sự đụng chạm ngoại giao giữa Nhật Bản và Úc Đại Lợi.
Thịt, dầu, xương, long diên hương (ambergris) trong ruột Cá Voi đều quí giá.
Chính v́ vậy mà Ḱnh tộc giảm dân số do những cuộc săn bắt Cá Voi mà ra. Vào đầu
thế kỷ XX trên thế giới có 3 triệu thành viên họ Ḱnh. Hiện nay con số nầy giảm
dưới 2 triệu. Thịt Cá Voi được bán ở các nhà hàng sang trọng ở Nhật và các nước
Âu Mỹ. Chất long diên hương (Ambergris) dùng để làm dầu thơm. Mỡ Cá Voi
(blubber) dùng để làm xà bông và một loại sáp đắt tiền dùng để làm đèn cầy. Loại
sáp này gọi là spermaceti do tên của Cá Nhà Táng (Sperm Whales). Dầu Cá Voi có
nhiều sinh tố A hữu ích cho mắt và tóc. Nó cũng được dùng trong việc nhuộm len
và vải vóc. Một Cá Voi có thể cho 12 tấn dầu lấy từ cái đầu khổng lồ của anh chị
Cá Voi.
Người sáng lập đạo Tin Lành, Martin Luther (1483- 1546) có một ghế để chân làm
bằng xương Cá Voi.
Ngư phủ Việt Nam ở miền duyên hải gọi Cá Voi là Nam Hải Tướng Quân. Khi bị băo
tố người ta van vái Cá Voi đưa thuyền đánh cá của họ vào bờ. Khi Cá Ông chết ngư
phủ vớt Cá lên. Tất cả mặc đồ tang và làm lễ chôn cất Cá Voi linh đ́nh.
Trong Cựu Ước Kinh, sách Jonah 1: 17 có chuyện ông Jonah bị một lăo Cá Voi nuốt
ba ngày, ba đêm nhưng ông không chết.
Trong Thiên Văn Học có cḥm sao Cetus (Cetus: Cá Voi- La Tinh. Ketos: Cá Voi- Hy
Lạp ngữ).
Trong ngành động vật học có môn học về Cá Voi và Cá Heo. Đó là môn
Cetology
(Cetus: Cá Voi- La Tinh); Logos: nghiên cứu; học hỏi- Hy Lạp ngữ).
Ở Nam Cực có một ḥn đảo nhỏ thuộc Hoa Kỳ gọi là Bay of Whales trong biển Ross
Sea.
Cá Nược (dugong) là động vật dưới nước có vú, sinh con, ăn thực vật hơn là tôm,
ṣ, mực dưới biển. Cá Nược sống ở những vùng biển ấm và cạn như Hồng Hải, bờ
biển đông bộ Phi Châu, Vịnh Thái Lan, bờ biển Indonesia, Mă Lai, bắc Úc Đại Lợi.
Tên khoa học của tộc Cá Nược là Dugong dugon thuộc gia đ́nh
Dugongidae. Cá Nược
dài từ 2.50 đến 3 m, cân nặng lối 250- 270 ki lô. Tộc này càng ngày càng hiếm
dần. Loài người đánh bắt các anh chị Cá Nược để lấy thịt, xương và da. Mỡ dùng
để nấu dầu. Tộc Cá Nược được t́m thấy nhiều ở Hồng Hải nên Thánh Kinh thường đề
cập đến da Cá Heo (dolphin, porpoise) và da Cá Nược. Các chuyện về người Cá
(Mermaids), Siren, phụ nữ người Cá đẹp và hấp dẫn trong huyền thoại Hy Lạp đă
được người Đan Mạch dựng thành tượng nổi tiếng ở Copenhagen. Tượng bằng đồng
dựng lên năm 1913. Tượng cao 1.25 m và nặng 175 ki- lô. Tộc Cá Nược gặp cảnh
hồng nhan bạc phận.
Hải Ngưu (Sea Cow; Manatee) là thân thuộc gần với Cá Nược. Việt Nam gọi Manatee
là Lợn Biển nhưng các dân tộc khác gọi như sau:
Quốc Gia
|
Tên Gọi cá Manatee
|
Việt Nam
|
Lợn Biển (v́ có mỏ giống con Heo)
|
Anh
|
Sea Cow (hải ngưu); Manatee
|
Pháp
|
Lamantin; Vache de Mer
|
Trung Hoa
|
Hainiu (Hải Ngưu)
|
Nhật Bản
|
Umiushi
|
Người ta thường gọi Cá Manatee và Cá Nược là Sea Cows (Hải Ngưu). Cá Manatee và
Cá Nược đều là thủy tộc có vú, sinh con, ăn thực vật nhiều hơn ăn thịt. Các anh
chị ấy đều hiền ḥa, không sát hại nhau, không có kẻ thù nhưng có nhiều kẻ hà
hiếp. Sấu và Cá Mập hà hiếp Cá Manatee. Cả hai tộc Cá Nược và Hải Ngưu Manatee
đều sống ở vùng biển cạn và ấm, hay ở các các hạ khẩu nước lợ.
Tên khoa học của Hải Ngưu Manatee là Trichechus mananus thuộc gia đ́nh
Trichechidae. Mỏ Hải Ngưu Manatee giống mỏ Heo. Hải ngưu Manatee chậm chạp hơn
Cá Nược. Đuôi của Hải Ngưu Manatee tṛn. Đuôi các anh chị Cá Nước chẻ thành h́nh
chữ V. Da của Hải ngưu Manatee dày và nhăn nheo hơn da Cá Nược.
Địa bàn sống của Hải Ngưu Manatee là biển Florida, bờ biển Đại Tây Dương phía
Nam Mỹ, Biển Caribbean, các sông lớn trong các vùng nói trên, bờ biển tây Phi
Châu và các sông lớn trong vùng. Hải Ngưu Manatee dài lối 4 m, cân nặng 600 ki-
lô. Hải Ngưu mới sinh cân nặng từ 11 đến 36 ki-lô. Sau khi sinh một giờ đồng hồ
Hải Ngưu tự lội được. Sau một tháng Hải ngưu tự vừa bú sữa mẹ vừa tập ăn thực
vật dưới biển hay dưới các ḍng sông lớn.
Hải Ngưu Manatee hiện nay chỉ c̣n 6,620 anh chị ở Florida và 6,131 ở vùng biên
biển Antilles. Hải Ngưu bị săn bắt để lấy thịt, da, xương và mỡ.
Trên đảo Puerto Rico có một thành phố nhỏ tên Manati.
Cá Đao (Sawfish- Cá Lưỡi Cưa) là tộc khá to lớn sống dọc theo bờ biển vùng khí
hậu nhiệt đới hay trong các sông lớn. Tên khoa học là
Pristis pectinatus thuộc
gia đ́nh Pristidae. Chiều dài trung b́nh của Cá Đao xê dịch từ 3- 6 m (mơm dài
lỗi 1 m) răng lởm chởm như lưỡi cưa. Trọng lượng trung b́nh lối 300 ki- lô. Cá
Đao thường lội kề bên Cá Ông (Cá Voi).
Cá Lưỡi Kiếm (swordfish) dài lối 5 m, cân nặng từ 500- 600 ki- lô, mơm dài và
nhọn như Cá Đao. Trọng lượng trung b́nh từ 500- 600 ki-lô. Tên khoa học của Cá
Lưỡi kiếm là Xiphia gladius thuộc gia đ́nh Xiphiidae. Thịt Cá Lưỡi Kiếm được xem
là thịt ngon theo khẩu vị của loài người.
Cá Tầm (Sturgeon) sống ở vùng nước mặn hay nước ngọt từ vùng bán nhiệt đới đến
bán hàn đới. Cá Tầm nổi tiếng là Cá Tầm trong Biển Caspian, Hắc Hải, Biển Azov.
Tên khoa học của Cá Tầm là Acipenser oxyrinchus oxyrinchus, gia đ́nh:
Acipenseridae. Các anh chị Cá Tầm có mỏ dài như Cá Ĺm Ḱm khổng lồ. Trung b́nh
Cá Tầm dài từ 2- 3 m. Năm 1827 một chị Cá Tầm bị bắt ngoài hà khẩu sông Volga
(Nga) dài 7.20 m và cân nặng trên 1,500 ki-lô. Đó là chị Cá Tầm nặng cân nhất từ
trước đến nay. Cá Tầm nổi tiếng về thịt, bong bóng có nhiều
collagen dùng để làm
trong rượu bia và rượu nho hay nấu làm keo. Trứng Cá Caviar của Cá Tầm biển
Caspian, Hắc Hải hay biển Azov nổi tiếng nhất thế giới. Đó là món ăn được Stalin
thết đăi tổng thống Roosevelt và thủ tướng Churchill trong hội nghị Yalta năm
1945 (sau đó không lâu tổng thống Franklin Delano Roosevelt của Hoa Kỳ mất).
Cá là nguồn thực phẩm bao la của loài người và của cả Ngư tộc nữa. Loài người
bất luận theo tôn giáo nào cũng ăn Cá. Tín đồ Ấn Giáo không ăn thịt Ḅ. Tín đồ
Do Thái Giáo và Hồi Giáo không ăn thịt Heo. Ở Việt Nam những người thờ Guan Gong
(Quan Công) hay học bùa không ăn thịt Trâu, thịt Chó, thịt Ếch, rau ng̣ om v́ sợ
ông hành hay bùa hết linh.
Như đă nói dân tộc nào trên thế giới cũng ăn Cá. Người Việt Nam, Nhật Bản, Trung
Hoa và các dân tộc ở Nam Á và Đông Nam Á ăn nhiều cá hơn người Âu- Mỹ. Người
Việt Nam ăn cá nhỏ hay những con cá có trọng lượng dưới 10 ki- lô. Họ không ăn
Cá lớn như người Nhật hay người Trung Hoa.
Loài người đánh bắt Ngư tộc chúng tôi bằng vợt, lưới, lưỡi câu có mồi (Trùn, Dế,
Ốc, Mối, Cá nhỏ, Nhái v.v.), dây thuốc cá, thuốc nổ v.v. Đối với các anh chị Cá
to lớn họ dùng tàu lớn và đại bác bắn tên (harpoon cannon) h́nh mũi tên nặng
trên 45 ki- lô để giết Cá to như Cá Voi chẳng hạn. Dù lớn hay nhỏ Ngư tộc đều
chết thê thảm như nhau.
Các loại Cá nhỏ như Cá Ḷng Tong
Rasbora vaillantii, gia đ́nh Cyprinidae, Cá
Chốt Bagrichthys macropterus, gia đ́nh Bagridae bị giết tập thể trong nồi đất
kho Cá với nước mắm và hồ tiêu cay nồng.
Cá Cơm (long- jawed anchovy) Engraulis japonicus, gia đ́nh:
Engraulidae cũng
chết tập thể thê thảm như bọn Cá Ḷng Tong chúng tôi. Các anh chị Cá Cơm chết
hàng loạt trong các xưởng sản xuất nước mắm và mắm nêm. Họ
chết ngạt dưới những
lớp muối mặn trước sự đùa giỡn của bọn Ruồi dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt
trời.
Cá Chép Cyprinus carpio, gia đ́nh Cyprinidae là cá nước ngọt, được người Việt
Nam ở miền Bắc ưa thích và dùng làm gỏi Cá ăn với lá đinh lăng.
Cá Rô Anabas testudineus, gia đ́nh Anabantidae có vảy cứng, kỳ vi cứng và nhọn
như gai. Người Việt Nam ăn Cá Rô kho, Cá Rô chiên, Cá Rô nấu canh mít với dầu
phọng v.v.
Cá Lóc (snakehead fish) Channa striata, gia đ́nh Channidae và thân thuộc nhỏ bé
là Cá Tràu được người Việt Nam trân quí. Cá Tràu kho hay nấu canh chua lá dang.
Cá lóc dùng để kho, nấu cháo cá, bánh canh cá & gị Heo, nướng, chiên, ăn cá
nướng trui với bánh tráng, rau sống, trái điều với mắm nêm. Người ta dùng cây
nhọn xỏ từ miệng đến đuôi các anh chị Cá Lóc rồi đắp rơm lên nướng. Khi lột da
thịt Cá Lóc màu trắng rất hấp dẫn. Nhiều nơi ở Nam Bộ người ta không cạo vảy cá
mà dùng đất sét đắp vào thân anh chị Cá Lóc rồi đem nung đất sét đến khi nào lớp
đất sét khô cứng và chuyển sang màu đỏ hồng th́ cá chín. Đập bể lớp đất sét
nung, vảy cá dính vào lớp đất sét. Cá Lóc to có thể cân nặng 4- 5 ki-lô. Miệng
Cá Lóc rất rộng v́ vậy Cá Lóc ăn sạch các loại Cá nhỏ trong ao, hồ. Người Pháp
gọi Cá Lóc là Requin d’eau douce (Cá Mập Nước Ngọt).
Cá Trê Clarias fuscus, gia đ́nh Clariidae
không có vảy tựa như cá catfish ở Hoa
Kỳ v́ mặt có râu ria như ria Miêu tộc trông đầy vẻ gây hấn. Cá Trê thường ăn
thức ăn śnh thối. V́ vậy trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất nhiều
người bị giết chết thả xuống sông bị Cá Trê rỉa. Đó là lúc người ta sợ không ăn
Cá Trê. Cá Trê được nướng để ăn bánh tráng hay kho, nướng, chiên ăn với nước mắm
gừng hay mắm nêm.
Cá Tra (Basa) Pangasius bocourti, gia đ́nh
Pangasiidae gốc ở sông MeKong và Chao
Phraya (Thái Lan), Biển Hồ (Tonle Sap). Cách nuôi Cá Tra cổ truyền hoàn toàn
không hợp và không đúng tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế. Cá Tra hay Basa được dùng để
nấu canh măng tre ủ chua hay để xé khô. Khô Tra được xem là khô ngon và đắt
tiền.
Cá Ṃi (herring) Dorosoma cepedianum, gia đ́nh:
Clupeidae, Cá Trích (sardine)
Clupea harangus harangus, gia đ́nh: Clupeidae là Ngư tộc nước mặn, thân h́nh nhỏ
bé, thịt ngon được dùng làm đồ hộp. Người Việt Nam thường kho với măng tre hay
cà chua.
Nh́n chung người Việt Nam dùng nhiều Cá trong các bữa cơm của họ. Cá kho tiêu,
Cá nướng, Cá làm nước mắm, mắm nêm; Cá làm mắm, Cá làm khô. Nước mắm, mắm nêm là
nước chấm đặc thù của người Việt Nam. Phải có bao nhiêu đơn vị Cá nhỏ li ti đủ
loại để sản xuất đủ nước mắm nuôi một đại tộc gần 100 triệu người? Nghĩ đến phải
rùng ḿnh. Đó là con số không đếm được. Hèn ǵ chữ FISH của Anh không có số
nhiều!
Người Nhật dùng Cá trong món Sushi. Họ dùng Cá nước mặn nhiều hơn Cá nước ngọt
v́ sông ng̣i ở Nhật rất ngắn và ít cá. Trái lại Nhật Bản có bờ biển dài có nhiều
Cá nước mặn vùng biển lạnh và vùng biển ấm.
Người Hoa Kỳ ăn thịt Ḅ, thịt Heo, thịt Gà hơn là Cá. Hải sản như Tôm Hùm, Cua
Nhện, Ṣ được ưa thích và có giá cao. Ngư tộc thường thấy ở các cửa hàng thực
phẩm là Cá Hồi (trout) Salmon trutta, gia đ́nh: Salmonidae, Cá Catfish (tựa như
Cá Trê) Pylodictis olivaris, gia đ́nh: Ictaluridae, Cá Trâu (Buffalo)
Catostomus
bubalus, gia đ́nh: Castomidae, Cá Tuna (Cá Ngừ) Thunnus orientalis, gia đ́nh:
Scombridae v.v.
V́ ăn nhiều Cá, trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều chuyện về Cá nói tốt th́ ít mà
biếm nhẽ, nói xấu th́ nhiều. Nào là:
Ngư chất Long vân: Bề ngoài có vẻ đẹp; bên trong rất tồi.
Ngư mục hỗn châu: vàng thau lẫn lộn (mắt Cá lẫn với ḥn trân châu)
Ngư phục tàng thơ: Thơ giấu trong bụng Cá
Ngư ông đắc lợi
Ngư tử tham nhị, nhân tử tham quí (Cá chết v́ tham mồi; người ta chết v́ tham
sang)
Duyên Cá nước
Cá đắm Nhạn sa (Ngư trầm Nhạn lạc)
Cá không ăn muối Cá ươn / Con căi cha mẹ trăm đường con hư.
Cá Lớn nuốt Cá Bé.
Cá Mập: ám chỉ người tham nhưng có tầm vóc lớn.
Má ơi, con vịt chết ch́m / Tḥ tay vớt nó Cá Ĺm Ḱm (1) cắn con.
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ / Dưới sông Cá Chốt, trên bờ Triều Châu.
Ḷng Tong, Cá Chốt: ám chỉ kẻ nhỏ bé, thấp hèn, không có ǵ quan trọng.
Dưa leo chấm với Cá Kèo (2) / Học tṛ nghèo đi học normale (3).
Lấy chồng làm lẽ chẳng lo / Cơm nguội đầy rá Cá kho đầy nồi.
T́nh quân dân Cá nước.
Cá lớn là Cá sẩy!
Bỗng không Cá nước, chim Trời lờ nhau (DTTT).
Cá Đối (4) bằng đầu / Cá Mè (5) một lứa.
Mồ côi cha ăn cơm với Cá / Mồ côi mẹ liếm lá ngoài đường.
Được Chim bẻ ná / Được Cá quên nơm.
Cá chậu, Chim lồng.
Cá ăn kiến / Kiến ăn Cá.
Chim sa, Cá Lụy.
Lia Thia quen chậu / Vợ chồng quen hơi.
Cá gặp nước
Cá vào tay ai nấy bắt
Trong thực vật học có: Rau Giáp Cá (Ngư Tinh Thảo)
Houttynia cordata; Fish
poison Cây Thuốc Cá Tephrosa purpurea; Fish poison plant Dây Thuốc Cá
Derris
elliptica; Fish poison wood Cây Lộc Vừng Barringtonia racemosa; Fish tail palm
Cây Đùng Đ́nh Caryota mitis.
Loài người cho rằng người để râu ngạnh Trê hay râu Cá Chốt là người có quyền thế
và có tính gây hấn ít nhiều. Họ cũng cho rằng người có đầu Cá Trê là người ương
ngạnh, lỳ lợm.
Trong truyện Con Tấm, Con Cám có nói đến Cá Bống nuôi dưới giếng. Nghệ nhân Trung Hoa và Nhật Bản thường vẽ tranh Cá Lư Ngư, một thân thuộc gần
của Cá Chép nhưng có màu sắc đỏ, vàng, trắng, đen rất đẹp. Đó là Cá Koi. Nhật
Bản, Do Thái và Trung Hoa nổi tiếng về việc nuôi loài Cá cảnh này để xuất cảng.
Người Anh gọi là Amur Carp (Cá Chép sông Amur ở Măn Châu tức Hei Longjiang )
mang tên khoa học Cyprinus rubrofuscus, gia đ́nh: Cyprinidae.
Trong Thiên Văn Học có sao Cretus (Cá Voi), sao Cá Lưỡi Kiếm (Xiphias) tức
Dorado; sao Cá Chuồn (Volans).
Qua h́nh ảnh Ngư tộc người ta làm ghe, tàu để chạy trên mặt nước sông, hồ, biển
cả. Các anh chị Cá lớn ngoài biển cả tạo nguồn cảm hứng cho loài người đóng tàu
lặn, hàng không mẫu hạm. Nhiều chiếc phi có có h́nh dáng của Cá Mập hay Cá Voi.* * * *
Thân phận Ngư tộc rất hẩm hiu. Nhỏ th́ chết tập thể trong nồi cá kho tiêu, trong
các hăng nước mắm hay mắm nêm.
Cá Trê, Cá Lóc, Cá Rô, Cá Sặc…bị đập đầu, đánh vảy, chia cắt từng mảnh nhỏ để
nấu nướng, làm mắm, xé khô. Họ đau đớn trước khi chết v́ bị ngạt do cảnh Cá cách
ly khỏi nước!
Cá Lớn như Cá Mập, Cá Voi…th́ bị bắt bằng lưới hay bị bắn bằng đại bác bắn tên
(harpoon cannon). Mũi tên sắt nặng trên 45 ki- lô cột trên một sợi dây dài và
vững chắc rồi nhắm vào đầu Cá Voi mà bắn. Cá Voi bị thương sẽ kéo chiếc tàu săn
bắn họ đi hàng chục cây số cho đến khi kiệt sức hoàn toàn đành phải chịu bị loại
người bắt đem về xẻ thịt, nấu dầu. Chỉ có các nước có kỹ thuật tân tiến mới săn
Cá Voi mà thôi. Thuyền nhỏ chẳng những không săn được mà c̣n bị Cá Voi nuốt vào
bụng dễ dàng!
Cá Ḷng Tong chúng tôi chỉ cần chút rong rêu và chút ít nước để bơi lội là đủ
sống. Các anh chị Cá Voi bị thiếu ăn (thiếu 08 tấn đồ ăn mỗi ngày), thiếu nước
th́ dễ hội ngộ với Tử Thần. Đôi khi kẻ to lớn mănh lực lại chết trước kẻ nhỏ bé
và yếu đuối.
Tôi xin chấm dứt bài tham luận về Ngư tộc tại đây và kính chúc toàn thể quí vị
hiện diện một ngày vui trọn vẹn, vất bỏ mọi suy nghĩ về loài người đối với động
vật chúng ta.
Dưới hội trường có tiếng vỗ tay lẻ tẻ. Đại biểu Ngạc tộc, Hùng tộc ngồi bất động
như tâm hồn bị bị dằn vật bởi một loại mặc cảm nào đó không thể thổ lộ được.
Trưởng Lăo Cá Ḷng Tong Tri Tôn, Việt Nam,
biệt danh Ḷng Tong Kho Tiêu
__________
Chú Thích (1) Con Vịt không bao giờ chết ch́m. Con Cá Ĺm Ḱm bé nhỏ như cây kim, mỏ dài
và nhọn không cắn ai cả. Người Anh gọi anh chị Cá Ĺm Ḱm là wrestling halfbeak.
Tên khoa học là Demogenys pusilla, gia đ́nh Hemiramphidae.
(2) Cá Kèo hay Cá Bống Kèo (Goby) mang tên khoa học Pseudapocryptes elongates,
gia đ́nh: Gobidae.
(3) Trường Sư phạm đào tạo giáo viên dạy lớp Nh́ và lớp Nhất.
(4) Cá Đối: mullet. Tên khoa học Mugil cephalus, gia đ́nh:
Mugilidae
(5) Cá Mè: Large scale silver carp. Tên khoa học Hypophthalmichthys harmandi,
gia đ́nh Cyprinidae
__________
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
Trang Phạm Đ́nh Lân
art2all.net |