THẢO MỘC TRỊ VIÊM KHỚP
XƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
Viêm khớp xương là chứng bịnh thường thấy trên thế giới. Đa số người bị chứng
này là nữ phái. Tên chứng viêm khớp xương trong Tây Y là Rheumatoid arthritis.
Hệ thống miễn nhiễm rối loạn
tấn công nhầm các mô trong cơ thể ảnh hưởng đến các khớp xương chân, tay, bàn
tay, bàn chân, vai, gây sưng phù và đau nhức khó chịu. Xương bị rỗng, các khớp
xương bị biến dạng. Các tế bào bạch huyết cầu len vào các khớp xương tạo ra
proteins TNF- alpha (Tumor necrosis factor alpha) và interleukin-1. Theo thời
gian những proteins nầy tấn công các mô lành mạnh gây viêm phương hại đến sụn,
xương và các mô liên hệ đến các khớp xương.
Các loại thảo mộc được dùng
để trị viêm khớp xương đại để gồm có: nha đam, gừng, nghệ, vỏ cây liễu, dây lôi
công, quế, cam thảo v.v. Cùng một loại thảo mộc việc chữa trị có khi giống nhau
có khi khác nhau tùy từng địa phương. Việc trị bịnh giống như cuộc chiến đấu
chống giặc thù nghĩa là phải kết hợp với nhiều phương tiện khác nhau để được
chiến thắng. Yếu tố quyết định chiến thắng sau cùng là ḷng dũng cảm và sự quyết
thắng..
* * * *
NHA ĐAM
Aloe vera
Gia đ́nh: Liliaceae
Nha đam hay lô hội là một loại cây cao
lối 60- 70 cm; lá mọng nước, có gai ngoài ŕa. Hoa màu vàng cam mọc thẳng đứng
như hoa sống đời (trường sinh) Trái có nhiều hột nhỏ.
Tên khoa học của nha đam là Aloe vera thuộc gia đ́nh
Liliaceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Nha đam, Lô hội |
Trung Hoa |
Lu
hui (Lô hội) |
Anh |
burn plant (trị phỏng), lily of the desert (huệ sa mạc), laxative (nhuận
trường) |
Hindi (Ấn) |
Ghee kumari (v́ làm trẻ phụ nữ) |
Sanskrit |
Kumari (trẻ trung hoá nữ giới) |
Pháp |
Aloès |
Cây nha đam gốc ở bán đảo Á Rập, Nam Phi và quần đảo Cape Verdes. Nó được t́m
thấy nhiều dọc theo bờ biển trên các hải đảo Thái B́nh Dương, Địa Trung Hải, Ấn
Độ Dương và Mỹ Châu nhiệt đới. Ở Việt Nam nha đam được t́m thấy nhiều dọc theo
bờ biển khô hạn từ Phan Rang xuống Phan Thiết. Người ta trồng nha đam quanh nhà
để lấy lá nấu chè hay để cầm máu, bị phỏng lửa hay phỏng nước sôi hay đắp trên
mắt khi bị viêm.
Cây nha đam được đề cập trong cổ thư Ai Cập vào thế kỷ XVI trước Tây Lịch. Nữ
hoàng Nefertiti (thế kỷ XIV trước Tây Lịch) và nữ hoàng Cleopatra (69- 30 trước
Tây Lịch) dùng nha đam làm thuốc bảo vệ cho da đẹp không nhăn. Trong y thư De
Materia Medica (70- 79 sau Tây Lịch) cây nha đam được danh sư Dioscorides đề cập
đến.
Tương truyền rằng Alexander Đại Đế xứ Macedonia thấy có nhiều cây nha đam trên
đảo Socotra trong Ấn Độ Dương. Người ta cho rằng Alexander Đại Đế nghe theo lời
khuyên của nhà hiền triết Aristotle đánh chiếm đảo Socotra để gặt lá nha đam để
chữa vết thương cho binh sĩ. Như vậy Ai Cập và Hy Lạp đă sớm dùng nha đam trong
y học trị liệu.
Người Do Thái học kinh nghiệm này từ người Ai Cập khi họ sống lưu lạc ở đó.
Trong Cựu Ước Kinh phần nói về vua Solomon (970- 933 trước Tây Lịch) có đề cập
đến nha đam như một hương liệu. Nhựa của nha đam màu vàng và có vị đắng.
Các thầy thuốc Trung Hoa để ư đến dược tính của cây nha đam từ thế kỷ XI. Họ
dùng nha đam để trị ghẻ, sốt và trị phỏng. Lá nha đam và lá sống đời (trường
sinh) Kalanchoe pinnata có dược tính tương tự nhau. Dược tính của lá
trường sinh có vẻ trội hơn lá nha đam nên được các dân tộc khác nhau trên thế
giới truyền tụng. Lá nha đam có thể hư thối. Lá trường sinh già rơi xuống đất sẽ
có hàng chục cây nhỏ mọc lên từ các răng của ngoài ŕa lá. V́ vậy lá trường sinh
c̣n được gọi là lá đả bất tử (đánh không chết), lạc diệp sinh căn
(lá rụng ra rễ, chứng tỏ sức đề kháng rất mạnh của lá trường sinh).
Người Nhật dùng lá nha đam để chữa vết thương cho các hiệp sĩ (samurai).
Trên tàu, Christopher Columbus trồng nhiều cây nha đam để chữa vết thương cho
các thủy thủ. Ông cho rằng có 04 loài thảo mộc cần thiết cho loài người là:
1. lúa ḿ
2. nho
3. trái và dầu ô- liu
4. lá nha đam.
Mahatma Gandhi kéo dài cuộc tuyệt thực ở Nam Phi nhờ khám phá tính năng trị liệu
đặc biệt của lá nha đam.
Đặc tính:
- kháng viêm, kháng nấm, kháng khuẩn và gây tê
- trị ung thư (thí nghiệm có kết quả), lăi, hoàng đản,viêm gan, táo bón, béo ph́,
sưng gan, sưng lá lách, bướu, thuốc nhuận trường, đau khớp xương, hạ máu đường,
hạ mỡ trong máu (uống- phần cơm màu trắng trong và phần nhựa màu vàng có vị đắng).
- trị hói đầu (alopecia), phỏng (lửa, nước sôi), thoa trên da làm căng da, thoa
trên vết nhăn, đắp vào mắt bị viêm, cầm máu, trị vết thương, làm thuốc gội đầu,
súc miệng, kem thoa da (thoa ngoài da).
- Thành phần hóa học: acetylated mannans, polmannans, anthraquinone C-
glycosides, enthrones và anthraquinones, lectins, sinh tố A, B1. B2, B6,
B12, C, E và lối 20 khoáng sản.
Phụ nữ có thai không được dùng v́ khả năng kháng trùng của nha đam rất mạnh
nên có thể gây trụy thai.
LÔI CÔNG ĐẰNG
Tripterygium wilfordii
Gia đ́nh: Celastraceae
Lôi công đằng hay dây lôi
công đă được người Trung Hoa dùng trị các chứng bịnh hiểm nghèo trên 2000 năm
nay. Việc dùng dây lôi công trị viêm khớp xương rất kết quả dựa trên cơ sở lấy
độc trị độc v́ lá và hoa dây lôi công có nhiều độc chất. Nam bịnh nhân bị viêm
khớp xương có thể trị khỏi bịnh bằng dây lôi công nhưng có thể bị phản ứng phụ:
giảm tinh trùng và có thể rơi vào trạng thái vô tự (sterility- childlessness).
Nữ mất kinh nguyệt v.v.
Tên khoa học của lôi công đằng là Tripterygium wilfordii thuộc gia đ́nh
Celastraceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Dây lôi công, Lôi thần đằng |
Trung Hoa |
Lei gong deng (Lôi công đằng) |
Anh |
Thunder God vine; Thunder Duke vine (Duke: quận công; Thunder: thiên lôi,
sấm sét; chữ Lôi Công đọc từ Lei Gong của Trung Hoa được người Anh dịch
thành Thunder Duke vine); Yellow vine (hoàng đằng <huang deng>). Có dây
hoàng đằng khác với lôi công đằng này. |
Pháp |
Tonnerre de la vigne de Dieu (dây Thần Sấm) |
Nhật |
Raikoto |
Dây lôi công được t́m thấy nhiều ở Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên. Lá xanh rất đẹp.
Hoa màu trắng. Hoa Y dùng lôi công đằng trị ung thư, viêm gan, bịnh thận, viêm
khớp xương v.v. Lôi công đằng có độc chất. Dùng quá liều rất nguy hiểm.
Thành phần hóa học của lôi công đằng : Có triptolide C20 H24 O6,
quinone triterpene C30 H48. Triptolide chữa u bướu có kết quả rơ rệt
nhưng có thể gây chứng vô tự cho nam giới. Thí nghiệm trên chuột cho thấy
triptolide chữa u bướu có kết quả tốt (Hoa Kỳ).
NGƯU BÀNG
Arctium lappa
Gia đ́nh: Asteraceae
Ngưu bàng là một loại cây
hoa thuộc gia đ́nh hoa cúc, hoa hướng dương. Cây cao từ 1- 2 m. Lá rộng, gợn
sóng, có răng cưa thưa. Mặt dưới của lá có lông mịn. Hoa màu tím bao bọc bởi
nhiều tia xanh trông như gai. Hoa có lông như gai bám vào lông trừu khi đi ngang
qua cây ngưu bàng.
Ngưu bàng là thảo mộc miền ôn đới và bán nhiệt đới được t́m thấy nhiều ở Bắc Âu,
vùng Địa Trung Hải từ Tây Á sang Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ và vài nơi ở miền Bắc
Việt Nam.
Tên khoa học của ngưu bàng là Arctium lappa thuộc gia đ́nh hoa cúc
Asteraceae hay Compositae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Ngưu bàng |
Trung Hoa |
Niu bang (âm thành ngưu bàng) |
Anh |
Burdock |
Pháp |
Racine de bardane |
Nhật |
Gobo |
Ngưu bàng có củ màu trắng, vị ngọt và nóng. Củ ngưu bàng có thể dài cả 1 m ăn
sâu dưới đất.
Củ ngưu bàng có: K, sợi, Ca, chất nhờn, amino acid, polyphenols.
Trái có arcitine.
Lá có arctiopicrine C19 H26 O6 kháng khuẩn, kháng trùng rất mạnh.
Hột có hoạt chất kháng ung thư, kháng viêm. Chất arctigenin C20 H22 O6
giúp gia tăng trí nhớ, kháng viêm (thí nghiệm).
Củ có inulin C6 H10 O5 dùng trong bánh ḿ dành cho người bị bịnh tiểu
đường hay trong thuốc trị bịnh về thận. Củ có sinh tố C, sinh tố B6, nhiều Fe,
Mg v.v.
Củ, hột và lá ngưu bàng đều được dùng làm thuốc nhuận tiểu, tẩy độc trong máu,
trị ung nhọt ngoài da, làm cho vết thương sớm tựu mủ, trị thống phong (gout),
viêm khớp xương, sưng phổi, sốt xuất huyết, sởi, trái rạ.
CÂY LIỄU RŨ
Salix babylonica
Gia đ́nh: Salicaceae
Cây liễu rũ được t́m thấy
nhiều trên Đường Tơ Lụa (Silk Road) nối liền lục địa Á- Âu, vùng Babylonia cổ,
các thành phố lớn ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên v.v.
Cây liễu rũ cao lối 20 m; cánh rũ xuống đất. Lá nhỏ, giẹp và nhọn. Hoa đuôi sóc
màu vàng nhạt.
Tên khoa học của cây liễu rũ là Salix babylonica thuộc gia đ́nh
Salicaceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Liễu, liễu rũ |
Trung Hoa |
Liu shu (Liễu thụ) |
Anh |
Weeping willow, Peking willow (Liễu Bắc Kinh), Babylon
willow (Liễu Babylon) |
Pháp |
Saule pleureur |
Nhật |
Yanagi |
Do
Thái |
Gharab |
Công dụng:
1. trồng làm cảnh
2. lấy gỗ; nhánh dùng để đan rổ liễu (wicker basket)
3. chống xâm thực; giúp tái tạo rừng v́ cây liễu tăng trưởng rất nhanh
4. Cây liễu có nhiều tannins và salicin C13 H18 O7. Vỏ và nhựa cây
liễu có salicylic acid. Vào thời đại Thánh Kinh người ta dùng vỏ cây liễu
để trị đau nhức và sốt. Dược tính của cây liễu được tổ ngành Tây Y là
Hippocrates đề cập. Lá giă nát đắp vào nơi đau nhức. Vỏ và lá sắc nước uống như
trà như uống aspirin vậy. Nh́n chung lá và vỏ cây liễu được dùng để trị viêm
khớp xương, cầm máu, hạ sốt, bịnh ngoài da, tiêu chảy, kiết lỵ. Hột dùng để hạ
sốt, ngăn chặn xuất huyết, hoàng đản, viêm khớp xương.
Người bị dị ứng aspirin không dùng trà lá, vỏ hay bột vỏ
cây liễu.
GỪNG
Zingiber officinale
Gia đ́nh: Zingiberaceae
Gừng là một loại củ có
nhiều nhánh có vị cay nồng. Hoa gừng được các nhà thực vật học liệt vào loại
hoàng hậu của các loại hoa. Gừng có một vai tṛ quan trọng trong các nhà bếp và
trong phương pháp trị liệu cổ truyền trong dân gian ở Á Châu như Ấn Độ, Trung
Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam v.v.
Tên khoa học của gừng là Zingiber officiale thuộc gia đ́nh
Zingiberaceae. Tên gọi thông thường là:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Gừng; Khương (Hán Việt) |
Trung Hoa |
Jiang (âm ra tiếng Việt thành KHƯƠNG hay KHANG) |
Anh |
Ginger |
Pháp |
Gingembre |
Nhật |
Shoga |
Ấn
Độ (Hindi) |
Adarakh (Ấn Độ được xem là quê hương gốc của gừng) |
Sanskrit |
Singabera |
Người Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Indonesia, Mă Lai…biết
dùng gừng để trị bịnh từ lâu. Cổ y thư Ayurveda của Ấn Độ chép rằng gừng được
dùng để trị các chứng viêm (inflammations), viêm khớp xương (bột gừng), làm giảm
đau nhức và sưng phù.
Gừng có: gingerol C17 H26 O4, shogaol C17 H24 O3, Zingerone
C11 H14 O3, zingiberene, zingiberol, curcumene có khả năng chống viêm
hạch tuyến tiền liệt. Vị cay của gừng do sự hiện diện của gingerols và
shogaols mà ra.
Dầu cất từ gừng có zingiberene, beta- phelladrene, cineol, citral.
Công dụng trị liệu:
a. Củ: dùng để trị đau bụng, śnh bụng (flatulence), kinh
nguyệt bất thông, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, kiết lỵ, gây phát hạn (đổ mồ hôi),
trị ho, cảm, đau khớp xương, phụ nữ mang thai hay ói mửa, hạ cholesterol v.v.
b. Dầu gừng: dùng để trị ung thư da. Gần đây người ta phát hiện dầu gừng có thể
diệt tế bào ung thư buồng trứng.
Người bị sạn mật không được dùng gừng.
NGHỆ
Curcuma longa
Gia đ́nh: Zingiberaceae
Nói đến nghệ người ta liên tưởng ngay đến nước Ấn Độ nơi thức
ăn chính của cư dân là cà-ri nấu bằng bột nghệ. Người ta cũng tin rằng quê hương
gốc của nghệ là nước Ấn Độ.
Tên khoa học của nghệ là Curcuma longa thuộc gia đ́nh Zingiberaceae
như củ gừng. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia |
Tên Gọi |
Việt Nam |
Nghệ, Uất Kim, Hoàng Khương (Gừng vàng- âm từ
huang jiang) |
Trung Hoa |
Huang jiang, jiang huang (khương hoàng) |
Anh |
Turmeric, yellow ginger, India saffron |
Pháp |
Safran des Indes |
Nhật |
Tamerikku |
Ấn
Độ (Hindi) |
Haldee |
Thức ăn cà- ri của người Ấn Độ được nấu từ bột nghệ (bột cà ri). Ấn Độ hiện nay
sản xuất 75% tổng sản xuất nghệ trên thế giới (từ 600,000- 800,000 tấn). Các
quốc gia sản xuất nghệ phần lớn là các quốc gia ở Nam Á và Đông Nam Á.
Công dụng:
- nấu nướng: làm bột ca- ri; dùng làm hương liệu kho cá hay chiên xào thức ăn có
thịt và thực vật.
- màu nhuộm thức ăn như bánh xèo, bánh rế, bánh cay. Màu nhuộm vải vóc và tơ lụa
- người Ấn Độ uống sữa + nghệ cho da được tươi nhuận. Ở Việt Nam phụ nữ sinh con
thường thoa nghệ để xóa những vết nhăn. Người ta thoa bột nghệ trên các vết
thương để xoá vết sẹo.
- màu vàng của nghệ là do curcumin C21 H20 O6 mà ra . Nghệ có lối 5% tinh
dầu có mùi thơm do sự hiện diện của turmerone C15 H20 O, ar- turmerone,
zingiberene C15 H24.
- Trị liệu: trị bịnh dạ dày, hoàng đản, ung thư, vết sẹo, làm cho gan và mật
hưng phấn hơn.
Ở Trung Hoa người ta dùng nghệ để trị lăi, đau ngực, đau bụng,
viêm gan, chướng hơi. Việc dùng hoàng khương trị liệu có thêm một bước tiến khá
dài v́ nghệ có đặc tính kháng viêm, kháng khuẩn, kháng ốc xy hoá. Nghệ được dùng
để chữa chứng Alzheimer, mất trí nhớ, đau khớp xương, ung thư và tiểu đường.
Nghệ thanh lọc máu và làm cho máu ấm.
Trong y học dân gian dùng nam dược thảo người ta dùng:
Nghệ (Curcuma longa) + lá Tía Tô (Perilla ocymoides) + Ng̣ Ôm (Rau
ôm) (Limmophila aromatica) giă nát vắt nước ḥa chút nước rồi lọc xác
uống trị chứng suyễn kinh niên.
Ngoài ra Cam Thảo Glycyrrhiza glabra, gia đ́nh Fabaceae và Quế
Cinnamonum zeylanicum, gia đ́nh Lauraceae cũng được dùng để chữa tê
thấp.
PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.
Bài viết tổng hợp dựa vào Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển
do tác giả Phạm Đ́nh Lân biên soạn.
art2all.net |